Showing posts with label Thơ. Show all posts
Showing posts with label Thơ. Show all posts

12/6/23

Giai Thoại Văn Chương : HAI NHÂN CÁCH MỘT THI NHÂN


                                            Cày đồng đang buổi ban trưa,
                                           Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.

Theo "Vân Khê Hữu Nghị 云溪友議 và Cựu Đường Thư 舊唐書 ghi chép lại : Khoảng năm Trinh Nguyên đời vua Đường Đức Tông (799), chàng thư sinh LÝ THÂN 李紳 lai kinh ứng thí đã làm hai bài thơ MẪN NÔNG 憫農 (Thương xót cho nhà nông) dâng lên cho Tập Hiền Điện Hiệu Thư Lang LỮ ÔN 呂温 để cầu tiến thân, rất được Lữ xem trọng. Hai bài thơ đó như sau :
                 其一               Kỳ Nhất
             春種一粒粟,     Xuân chủng nhất lạp túc,
             秋收萬顆子。     Thu thâu vạn khỏa tử.
             四海無閒田,     Tứ hải vô nhàn điền,
             農夫猶餓死。     Nông phu do ngạ tử !
   Có nghĩa :
                  Mùa xuân một hạt gieo trồng,
                  Đến thu thu hoạch muôn lần nhiều hơn.
                  Khắp nơi chẳng có ruộng hoang,
                  Nông dân đói chết vẫn còn khắp nơi !


                其二                    Kỳ Nhị
             鋤禾日當午,     Sừ hòa nhật đang ngọ,
             汗滴禾下土。     Hạn trích hòa hạ thổ.
             誰知盤中餐,     Thùy tri bàn trung xan,
             粒粒皆辛苦。     Lạp lạp giai tân khổ !
    Có nghĩa :
                  Cuốc cày giữa ngọ ban trưa,
                  Mồ hôi đổ xuống như mưa lúa trồng.
                  Ai người biết  cơm trong mâm,
                  Từng hạt từng hạt muôn phần đắng cay !

      Có học giả cho rằng bài ca dao sau đây của ta là bản phỏng dịch tuyệt vời của bài thơ MẪN NÔNG Kỳ Nhị nêu trên :

                  Cày đồng đang buổi ban trưa,
             Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
                    Ai ơi, bưng bát cơm đầy,
             Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!

Qua hai bài thơ MẪN NÔNG nêu trên, ta thấy LÝ THÂN quả là một chàng trai có bầu nhiệt huyết, có hoài bão lo cho dân cho nước. Thấy được sự bất công của xã hội và cảm thông với đời sống khốn khó của nông dân, những người làm ra hạt lúa để nuôi sống nhân dân lại là những người bị chết đói nhiều nhất; Cho nên, phải biết trân trọng từng hạt thóc hạt gạo do nông dân cực khổ lắm, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới làm ra được, như hai câu ca dao đã nhắn nhủ :
                Ai ơi, bưng bát cơm đầy,
             Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!!!

*****
Vào đời với bầu nhiệt huyết là thế, có ai ngờ rằng đến năm Nguyên Hòa Nguyên niên (806) khi Lý Thân đã thi đỗ Tiến sĩ ra làm quan, thì lại đâm ra ăn chơi trác táng, chạy theo đời sống xa hoa hưởng thụ, làm uy làm quyền, vô tình vô nghĩa. Trong Vân Khê Hữu Nghị 云溪友議 có chép lại rằng :
       
      Lý Thân khi chưa phát tích thường đến chơi nhà của một người trong họ tộc là Lý Nguyên Tướng. Vì Tướng lớn tuổi hơn, nên Thân thường gọi Tướng là "Thúc Thúc". Đến khi Thân phát tích thi đậu làm quan thì Tướng vì muốn lấy lòng Thân nên tự hạ mình xuống gọi Thân là "Huynh trưởng", tự xưng là "Tiểu đệ", nhưng Thân vẫn không vui dạ, bắt Tướng phải gọi mình bằng "Gia gia" và tự xưng là "Tôn tử"(cháu) thì mới vừa lòng. Lại một lần...
      Có người bạn họ Thôi cùng khoa Tiến sĩ với Lý Thân, nhưng chỉ là một Tuần Quan nhỏ ở Tuyên Châu Dịch Quán. Nghe Lý được thăng đến chức Tư Không, bèn khăn gói đến thăm. Khi vừa đến khách sạn, chẳng may người nhà và một thị dân tranh chấp ẩu đả nhau gây náo loạn. Lý Thân bèn xử cực hình cả hai và hạ lệnh bắt Thôi Tuần Quan trói lại mắng rằng :"Trước kia chúng ta đã từng quen biết, sao nhà ngươi đến đây mà chẳng đến bái kiến ta, còn để cho người nhà gây náo loạn là cớ làm sao ?!" Bèn hạ lệnh đánh hai mươi trượng và đày đi xứ khác, mặc cho người bạn hết lời xin lỗi giải thích cũng chẳng thèm nghe.
     Mọi người đều kháo nhau chê trách Lý Thân rằng : Người đáng bậc cha chú trong họ tộc thì kêu bằng cháu; bè bạn cũ đến thăm thì bị đánh đòn và đi đày. Dưới sự bạo hành và hà khắc của Lý Thân, một số dân chúng đã vượt qua sông Trường Giang mà đi xứ khác ở. 

Lại một lần nữa...

 Thi hào LƯU VŨ TÍCH 劉禹錫(772—842)khi bị biếm làm Thứ Sử đất Tô Châu (833), Lý Thân nghe tiếng và cũng mến mộ tài văn thơ của ông, bèn mời ông đến và thiết tiệc khoản đãi. Buổi tiệc thật xa hoa với đầy đủ các sơn hào hải vị, mỹ tửu quỳnh tương, dưa ngon trái ngọt. Các cô ca kỹ ăn mặc như các cung nữ và ca múa những điệu nhạc trong cung đình. Lưu Vũ Tích bàng hoàng ngỡ ngàng trước buổi tiệc qúa cao sang xa hoa nầy của tác giả hai bài thơ Mẫn Nông năm xưa. Trong khi dân chúng Tô Châu đang lâm vào cảnh lũ lụt đói kém khắp nơi, nên Ông đã xót xa mà viết bài thơ tứ tuyêt "Tặng Lý Tư Không Kỹ 贈李司空妓" (Tặng cô kỹ nữ của ông Tư Không họ Lý) với những lời lẽ chua chát mĩa mai như sau :
           
             高髻雲鬟宮樣妝,    Cao kế vân hoàn cung dạng trang,
                春風一曲杜韋娘。    Xuân phong nhất khúc Đỗ Vi Nương.
                司空見慣渾閒事,    Tư Không kiến quán hồn nhàn sự,
                斷盡蘇州刺史腸。    Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường !
     Có nghĩa :
                   Tóc kết cung đình mây lướt trôi,
                  "Đỗ Vi Nương" khúc hát chơi vơi.
                   Tư Không quen mắt không cho lạ,
                   Thứ Sử Tô Châu ruột đứt rồi !

Ông đã ăn chơi quen thói, nên cho cảnh ăn chơi trác táng xa xỉ trước mắt là chuyện bình thường, là chuyện nhàn rỗi  (hồn nhàn sự), nhưng đối với tôi, đang lúc phải cầu xin triều đình mở kho lương thực để cứu tế dân tình đang trong cơn thiên tai lũ lụt, đói kém khắp nơi, thì cảnh ăn chơi sa đọa trước mắt qủa thật làm cho con người ta phải đau lòng đứt ruột ! Sao bây giờ ông lại vô tâm thế, ông đã quên mất khi xưa mình đã từng làm hai bài thơ MẪN NÔNG  rất hay, rất có tình người, rất có tính nhân bản hay sao ?!

TƯ KHÔNG KIẾN QUÁN hồn nhàn sự,  Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường ! 

        Bài thơ trên của Thi Hào Lưu Vũ Tích còn hình thành một thành ngữ vẫn thông dụng cho đến hiện nay. Đó là bốn chữ "TƯ KHÔNG KIẾN QUÁN 司空見慣", nghĩa đen là : Quan Tư Không nhìn đã quen rồi; nghĩa bóng thường dùng để chỉ : Chuyện gì đó rất bình thường, không có gì là lạ cả; không làm cho ai đó phải trầm trồ hay ngạc nhiên gì cả ! Chuyện gì đó dù có lạ, có hiếm cở nào đi nữa, nhưng khi đã nhìn thấy nhiều lần rồi thì đều là "Tư Không Kiến Quán", là "Chuyện thường ngày ở huyện !".

      Lại một lần khi Lý Thân đang làm Tiết Độ Sứ ở đất Hoài Nam, lúc đó Tam nguyên Trương Hựu Tân 張又新 (một đối thủ chính trị từng hại cho Lý Thân suýt chút nữa thì bị chém đầu) bị bãi quan về quê, khi đi ngang qua địa phận của Lý Thân lại bị đắm thuyền, chết mất hai đứa con, lại sợ bị Lý Thân trả thù. Đau khổ, rối rắm và lo lắng vô cùng bèn hạ mình xuống nước viết một bức thư trần tình thật dài tạ lỗi với Lý Thân. Lý tỏ ra rất đồng tình và cảm thông cho nỗi bất hạnh của Trương, chẳng những bỏ qua những hiềm khích cũ, mà còn mời Trương đến nhà để thiết tiệc khoản đãi. Hai người cùng thù tạc như là bạn tâm giao lâu ngày vừa găp lại, nên uống đến say mèm... Chợt... 
      Trương Hựu Tân như tỉnh hẵn rượu ra vì trông thấy một ca kỹ mà Lý Thân vừa cho ra hát để giúp vui trong bữa tiệc... Thì ra đó là người yêu cũ hai mươi năm trước của Trương Hựu Tân khi ông đang làm quan ở đất Quảng Lăng, hai người yêu nhau nhưng chẳng thành quyến thuộc. Nay lại gặp mặt nhau trong hoàn cảnh trớ trêu nầy, bốn mắt nhìn nhau mà nói chẳng nên lời. Thừa lúc Lý Thân vào trong rửa mặt thay áo, Trương Hựu Tân bèn dùng ngón tay chấm vào rượu tức cảnh một bài tứ tuyệt viết lên mặt bàn như sau :

              雲雨分飛二十年,   Vân vũ phân phi nhị thập niên, 
              當時求夢不曾眠。   Đương thời cầu mộng bất tằng miên.
              今來頭白重相見,   Kim lai đầu bạch trùng tương kiến,
              還上襄王玳瑁筵。   Hoàn thướng Tương Vương đại mạo diên !
   Có nghĩa :
                   Mây mưa cách biệt hai mươi năm,
                   Chưa mộng hằng mơ thổn thức lòng.
                   Đầu bạc hôm nay còn gặp lại,
                   Tương Vương tiệc rượu hết còn mong !

      Lý Thân thay áo xong ra uống tiếp, thấy Trương Hựu Tân lộ vẻ âu sầu, bèn lệnh cho ca kỹ hát để giúp vui. Nàng ca kỹ bèn cất tiếng ngâm và hát bài thơ TẶNG QUẢNG LĂNG KỸ 贈廣陵妓 nói trên khiến cho Trương Hựu Tân và nàng cả hai cùng rơi lệ. Lý Thân hỏi biết chuyện, nên sau tiệc rượu, bèn cho người khiêng kiệu đưa nàng ca kỹ theo Trương Hựu Tân về để cùng nhau đoàn tụ.
Qủa là một nghĩa cử cao đẹp của một thi nhân. Chẳng những không trả thù, mà còn giúp cho kẻ thù cũ được tròn mộng uyên ương. Lý Thân là như thế đó !

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ LÝ THÂN :

     LÝ THÂN 李紳(772-846)tự là Công Thùy 公垂, người đất Hào Châu (An Huy), sau dời về Nhuận Châu, Vô Tích (Giang Tô). Con của Ô Trình Lệnh Lý Ngộ, là thi nhân, làm quan cao đến chức Tể Tướng.

Lý Thân đậu tiến sĩ năm Nguyên Hòa nguyên niên đời Đường (806), được bổ về làm Chưởng Thư Ký cho Triết Tây Quan Sát Sứ Lý Ky. Năm sau Lý Ky mưu phản, ông can gián, nhưng không nghe, lại nhốt ông vào ngục. Lý Ky mưu phản thất bại, ông được thả và được triệu về kinh thăng chức Hiệu Thư Lang rồi Quốc Tử Trợ Giáo. Đời Đường Mục Tông lại được thăng Hàn Lâm Học Sĩ, cùng với Lý Đức Dũ và Nguyên Chẩn xưng là TAM TUẤN 三俊 (Ba người Tuấn Kiệt). Khi Đường Kính Tông tức vị, ông bị Lý Phùng Kiết, Trương Hựu Tân hãm hại, bị biếm làm Đoan Châu Tư Mã. Đầu những năm Đại Hòa đời Văn Tông (827), ông chuyển nhậm Từ Châu rồi Thọ Châu Thứ Sử. Sau thăng lên các chức vụ quan trọng như Triết Đông Quan Sát Sứ, rồi Hà Nam Doãn và Tuyên Võ Tiết Độ Sứ. Đường Võ Tông năm Hội Xương thứ 2 (842), về triều nhậm chức Trung Thư Thị Lang, đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự, Tể Tướng. Hai năm sau lại bị chuyển về làm Hoài Nam Tiết Độ Sứ, không lâu thời mất, hưởng thọ 75 tuổi.

Lý Thân cùng với Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị giao du xướng họa rất thân mật, họ đều là thành viên của việc vận động và đề xướng ra lối thơ Tân Nhạc Phủ. Ông sáng tác 20 bài Nhạc Phủ Tân Đề (đã thất truyền). Tác phẩm nổi tiếng để đời của ông là 《Mẫn Nông nhị thủ 憫農二首》nói về đời sống cơ cực vất vả của nông dân, rất được mọi người tán thưởng và thuộc lòng. Trứ tác thì có《Truy Tích Du Thi 追昔遊詩》trong Toàn Đường Thi thu tập lại được bốn quyển.

Đỗ Chiêu Đức

11/30/23

Hoài niệm

 Tưởng niệm Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ vừa viên tịch

Một đêm thôi mắt trầm sâu đáy biển
Hai bàn tay khói phủ tóc tơ xa
Miền đất đó trăng đã gầy vĩnh viễn
Từ vu vơ bên giấc ngủ mơ hồ

Một lần định như sao ngàn đã định
Lại một lần nông nổi vết sa cơ
Trời vẫn vậy vẫn mây chiều gió tĩnh
Vẫn một đời nghe kể chuyện không như

Vẫn sống chết với điêu tàn vờ vĩnh
Để mắt mù nhìn lại cõi không hư
Một lần ngại trước thông già cung kỉnh
Chẳng một lần nhầm lẫn không ư?
Ngày mai nhé ta chờ mi một chuyến
Hai bàn tay khói phủ tóc tơ xa.

Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1943-2023)

Bài thơ kính viếng

Giấc mộng đời lưu lạc bể trầm luân
Tay với mãi tóc mơ hồ luân lạc
Vầng trăng non thấp thoáng đất xoay quanh
Thiêm thiếp ngủ ngoài song nghe xào xạc.

Tâm đã định trong thiên thu sóng vỗ
Đời thịnh suy biến động đã bao lần
Cũng có lúc cơn cuồng phong bão tố
Cuộc trần hoàn biến động đã bao phen
Vòng tử sinh quanh quẩn kiếp luân hồi
Mắt trần gian đắm chìm trong vô thức
Vần thơ non lạc lõng cõi sen hồng
Trí non nớt vụng về trong nghiên bút
Xin chắp tay lạy tạ đấng cao tăng
Thiêm thiếp ngủ ngoài song nghe xào xạc.

Lê Đình Thông
28/11/2023

11/20/23

Tống Biệt - 送 别

 


送 别

長 亭 外,古 道 邊,芳 草 碧 連 天

晚 風 拂 柳 笛 聲 殘,夕 陽 山 外 山

天 之 涯,地 之 角,知 交 半 零 落

一 瓢 濁 酒 盡 餘 歡,今 宵 別 夢 寒

李 叔 同

---

Tống Biệt

Trưởng đình ngoại, cố đạo biên, phương thảo bích liên thiên.

Vãn phong phất liễu địch thanh tàn, tịch dương san ngoại san.

Thiên chi nhai, địa chi giác, tri giao bán linh lạc,

Nhất biều trọc tửu tận dư hoan, kim tiêu biệt mộng hàn.

Lý Thúc Đồng (1880-1942)


---

Chuyển thể lục bát :

Đường quê san sát lều tranh
Lối xưa còn đó buồn tênh nỗi sầu
Ngoài trời lất phất mưa ngâu
Nối vào tiên cảnh một màu thiên thanh.

Đâu đây nghe tiếng tơ mành
Liễu rung theo gió sáo gieo nỗi buồn
Hoàng hôn nắng tắt cuối thôn
Non kia che dấu nỗi buồn cách xa.

Không gian xa cách mịt mờ
Đông tây ngàn dặm ngẩn ngơ một thời
Nào cùng nhấp chén ly bôi
Cho vơi nỗi nhớ ngút ngàn chờ mong.
Xa nhau buốt lạnh cõi lòng
Từ nay cách biệt mỏi mòn chôn sâu.

Lê Đình Thông

Bài đọc thêm:

11/18/23

Happy THANKSGIVING

Thanksgiving qua mấy dòng thơ TN...

Nhân mùa LỄ TẠ ƠN , xin gởi đến các bạn mấy câu thơ được gợi ý
từ chữ THANKSGIVING đọc chơi cho vui.

T rong mùa mừng Lễ Tạ Ơn,
H ãy cùng chia sẻ áo cơm với đời.
A i mà biết được chữ Thời,
N ay suy,mai thịnh, đầy vơi vô chừng.
K hi ảm đạm, lúc tưng bừng,
S ẻ chia buồn tủi, vui mừng với nhau.
G iữ cho tình nghĩa thanh cao,
I m lặng đừng tính công lao với người.
V ì cho là được gọi mời,
I n sâu trong dạ...thảnh thơi tâm hồn.
N iềm vui là một nguồn ơn,
G iúp ta sống được cao hơn đời thường .


HÀN SĨ PHAN


mừng anh tâm thức thanh cao,       
vài giòng thơ viết, biết bao nghĩa tình !       
cùng chung một kiếp phù sinh ,       
giúp người hôm trước - gieo tình ngày sau ... 
           
kính,       
ngô bích-ngọc

Bài hoạ 

Tạ ơn công đức sinh thành 
Hân hoan chấp bút vinh danh ơn thầy 
Anh em tình nghĩa đẹp thay 
Năm tàn tháng tận chuỗi ngày qua mau 
Không gian xa cách dãi dầu 
Sông sâu núi biếc một màu xanh xanh 
Ghi trong tâm huyết ngút ngàn 
In sâu một chữ đông tàn xuân qua 
Việt Nam quê cũ mặn mà 
Im hơi lặng tiếng lụa là còn đâu 
Nay còn tình nặng ơn sâu 
Ghi làm bài họa họ Phan nhớ hoài.

Lê Đình Thông

Tạ ơn

Tạ ơn cha mẹ đã cho hình hài
Bao năm trường dưỡng dục nên ngày nay
Tạ ơn thầy cô cố công dạy dỗ
Đạo lý giải bày trò được nên người
Tạ ơn Trời cho môi trường sinh sống
Dù nhân loại có dại hủy ít nhiều
Sông hẹp dần nhưng biển ngày càng rộng
Đất sống rồi đây còn được bao nhiêu
Cám ơn bạn chia sẻ buồn vui
Dẫu xế chiều có bạn có tôi
Kháo nhau cười sự đời buông xả
Còn chi bằng vui dạ thảnh thơi
Cám ơn lắm bạn lòng chung thủy
Vẫn sắc son trọn đạo một đời
Quốc phá gia vong vẫn sáng ngời
Thay chồng lo con học đến nơi
Cám ơn con đã đến cùng ta
Mãi keo sơn gắn kết mẹ cha
Đường đời trải qua bao vất vả
Bi bô nô đùa con đã dịu xoa
Cám ơn cháu tuổi già như trẻ lại
Niềm vui chừng níu bước thời gian
Hoàng hôn nào đâu thấy muộn màng
Thật tuyệt sao thiên thần bé nhỏ
Tạ ơn đời dù lắm khi cay đắng
Suy cho cùng chỉ tại người thôi
Cái ngả to cứ hoài đeo đẳng
Gây khổ cho nhau đổ họa đời
Dù thế nào nay vẫn còn đây
Xin tạ ơn Trời tạ ơn người dựng xây.

Võ Thành Xuân



Xin kính chúc quý anh chị một ngày Lễ Tạ Ơn an vui như ý.



Cảm Thán 
Nhân Lễ Tạ Ơn 2023

Gà Tây về bắng nhắng,
Sau những ngày im bẵng.
Vừa húng hắng loay hoay,
Lại lay nhay nhũng nhẵng.

Lòng dân chẳng sẵn sàng,
Hận nước càng đằng đẵng.
Mật đắng ngấm phù môi,
Còn lôi thôi ủng oẳng.

Trần Văn Lương
Cali, 11/2023

Kính chúc quý anh chị Ngày Lễ Tạ Ơn tràn đầy niềm vui & hạnh phúc.  

Bất tương phùng 

 Mấy năm trời đăng đẳng 
Gặp lại kêu oăng oẳng 
Bám như sam chẳng rời 
Đánh hơi nhau nhằng nhẵng 
Thêm nhiễu sự lần hồi 
Nợ nần rồi quên bẵng 
Bặng nhặng nổ thì thôi 
Ngó mặt thời giục nhắng! 

 Yên Nhiên

Tự Trào

Nhân Lễ Tạ Ơn 2023

 

Trời sinh tính lắng nhắng

Tật xấu thì quên bẵng:

- Ưa nhấm nhẳng kêu ca,

- Khoái la  lẵng nhẵng,

- Thân gầy nhẳng phất phơ,

- Tâm thẩn thơ đằng đẵng,

Gắng hát hỏng cho hăng

Chỉ nghe... oăng với oẳng

       - AiCơ -

     Melbourne, 11/2023

11/3/23

Đừng Cười Tôi Nghe Nhạc "Sến"

 Dạo:

    Theo dòng nhạc "sến" ngân nga,

Ngậm ngùi nhớ đến quê nhà năm nao.

 

Cóc cuối tuần:

 

  Đừng Cười Tôi

                   Nghe Nhạc "Sến"

                          (Cho người, cho ta, cho người ta)

 

Này người hỡi, đừng mỉm cười châm biếm,

Khi nhìn tôi nghe nhạc "sến" say sưa,

Gửi hồn về những ngày tháng xa xưa,

Lúc đất nước ta chưa thành địa ngục.

 

Tôi xui xẻo, Trời không ban cho phúc

Được học hành, thành "trí thức" như ai,

Nên xin người đừng dè bỉu chê bai,

Hãy cho phép tôi dông dài giây lát.

                      x

                 x        x       

Có gì "sến" trong trăm ngàn khúc hát,

Mà từng lời bát ngát đượm tình quê,

Và từng câu luôn nhắc nhở tôi về

Một nơi chốn đà muôn bề xa cách?

 

Có gì "sến" với mối tình trong sạch

Của chàng trai đang cắp sách đến trường.

Thoáng nhìn ai mà lòng dạ vấn vương,

Giờ tan học trên đường về lẽo đẽo?

 

Có gì "sến" khi hè vừa bén nẻo,

Đám học trò buồn héo hắt chia tay,

Đứa thị thành, đứa trôi giạt chân mây,

Năm tới biết ai còn quay trở lại?

 

Có gì "sến" chuyện những người con gái,

Kẻ đưa đò, kẻ náu tại rừng sâu,

Trót yêu nên phải mang nặng khối sầu,

Chết hay sống vẫn buồn đau duyên số?

 

Có gì "sến" trong muôn vàn cảnh khổ,

Lớp nhớ về một thành phố mưa bay,

Lớp đêm dài cùng chim sắt rẽ mây,

Lớp men lối biệt ly đầy cay đắng?

 

Có gì "sến" trên sân ga quạnh vắng,

Những chiều buồn gội nắng đợi người xưa,

Nhưng qua rồi chẳng biết mấy mùa mưa,

Mà bóng dáng ai kia chưa về được?

 

Có gì "sến" khi vì lòng yêu nước

Vạn chàng trai phải cất bước lên đường,

Bỏ phố phường, gác lại chuyện yêu đương,

Sẵn sàng đổ máu xương nơi tiền tuyến?

 

Có gì "sến" khi những người lính chiến,

Phải đương đầu nguy hiểm chốn rừng sâu,

Mắt đăm đăm nhìn ánh lửa hỏa châu,

Miệng lẩm bẩm không ngừng câu đoàn tụ?

 

Có gì "sến" với người theo đội ngũ

Lội bùn dơ, lam lũ khắp chiến trường,

Nhưng đêm ngày vẫn nghĩ tới người thương

Quay quắt nhớ màu sương nơi quê cũ?

 

Có gì "sến" với cảnh người chinh phụ,

Năm canh khuya mất ngủ nhớ thương chồng,

Miệt mài ngồi đan áo ở bên song,

Cho chồng được ấm lòng khi giữ nước?

                      x

                 x        x       

Người ơi chẳng bao giờ tìm lại được,

Thời vàng son của ngày trước Bảy Lăm,

Với hàng ngàn ca khúc của Miền Nam

Mà nhựa sống còn miên man tuôn chảy.

 

Người có thấy những bài ca ngày ấy,

Lời nhiều khi không bóng bảy văn chương,

Nhưng chính là hình ảnh của quê hương,

Thuở chưa chịu cảnh đoạn trường khốn khó?

 

Quê hương đó, là nỗi buồn phượng đỏ,

Là nhịp đàn khúc tân cổ giao duyên,

Là bước chân ngoài phố lúc nửa đêm,

Là nhức nhối triền miên nơi gác trọ,

 

Là ánh mắt mãi trông chờ đầu ngõ,

Là tiếng chuông, tiếng gió, tiếng nguyện cầu,

Là cành sim tim tím chốn rừng sâu,

Là chiếc bóng cây cầu đà gãy đổ,

 

Là day dứt nhìn cơn mưa tỉnh nhỏ,

Là nỗi vui vườn Tao Ngộ cuối tuần,

Là poncho, là mưa nắng hành quân

Là hạnh phúc của những lần đi phép...

 

Dù số mệnh Miền Nam giờ đã khép,

Những bài ca, hình ảnh đẹp tuyệt vời,

Những cung sầu, những xúc cảm đầy vơi,

Những tình tự... sẽ muôn đời tồn tại.

                      x

                 x        x       

Người nếu nghĩ mình thượng lưu quý phái,

Hãy ngủ yên thoải mái giữa tháp ngà,

Mặc sức dùng kiến thức nhạc bao la

Để tán tụng những bài ca "sang cả".

 

Và nếu muốn, cứ âm thầm hể hả

Mỉa mai tôi dốt đặc chả biết gì,

Nhưng xin người hãy tạm ngoảnh mặt đi,

Hé mở chút tâm từ bi hỷ xả,

 

Cho tôi được, trong nắng chiều tơi tả,

Mắt mơ màng mà tấc dạ tái tê,

Tạm quên đi bước lữ thứ ê chề,

Nghe nhạc "sến" để nhớ về quê cũ.

                Trần Văn Lương

                  Cali, 11/2023

10/15/23

Tình bạn - Hương quê





Quê ta có bóng dừa xanh
Có đàn cò trắng, có dòng nước non
Tình bạn năm xưa giữ tròn
Đổi thay mặn nhạt hàn ôn mấy người?

Thương nhau chín bỏ làm mười.
Giữ cho cuộc sống thắm tươi hiền hòa
Đắp bồi tình cảm nở hoa
Nghìn dặm xa cách chúng ta trông chờ.

Tình bạn là những vần thơ.
Tối về đắp gối ngâm nga vài lời
Tình bạn áo trắng một thời
Bây giờ áo bạc phai rồi vẫn treo.

Hạt giống tình nghĩa mang theo
Ước nguyện mãi mãi rải gieo suốt đời
Chúc nhau luôn nở nụ cười
Sống vui, sống thiện, làm người nghĩa nhân.

Chúc các bạn Lâm, Mỹ, Sanh, Minh, Lan một chuyến thăm viếng quê nhà và bạn xưa thật nồng ấm, bình an và vui vẻ!

Lý Trinh Trường K5

9/22/23

Tiếc Nuối Gì Không

Dạo:

      Một đời cách bến xa sông,

Có hề tiếc nuối gì không, hỡi người?

  

Cóc cuối tuần:

 

  Tiếc Nuối Gì Không

 

Tháng tám, mắt chiều cay,

Khật khùng giấc tỉnh say.

Ngày loay hoay đợi chết,

Đêm mỏi mệt mong ngày.

 

Nhẹ khảy đứt dây đàn,

Gục đầu, khẽ thở than,

Đò ngang đà bặt chuyến,

Vĩnh viễn biệt hồng nhan.

 

Gió bám chặt cành đơn,

Cố bày lẽ thiệt hơn.

Lá hờn nên lặng lẽ,

Mặc gió kể nguồn cơn.

 

Mây chớn chở đen sì,

Lấp dần nẻo biệt ly.

Người đi không trở lại,

Day dứt mãi làm chi.

 

Ti tỉ tiếng hoàng hôn,

Chuông tong tả gọi hồn,

Dập dồn kinh thúc hối,

Người lạc lối cô thôn.

 

Lổm chổm ánh trăng rằm,

Lối về cũ lạnh căm.

Xăm xăm tìm ảo vọng,

Lầm lỡ mộng trăm năm.

 

Dăm ước muốn xa vời,

Chỉ còn vạt nắng vơi.

Cơ trời, đâu dám trách,

Dù lách chách không ngơi.

 

Dòng nhạc thuở xa xôi,

Theo người chịu nổi trôi,

Ỉ ôi từng nốt lẻ,

Dằn vặt kẻ đơn côi.

 

Cằn cỗi giọng ca khàn,

Cũng bày đặt khóc than,

Lội càn qua vũng nhớ,

Nức nở chuyện lìa tan.

 

Tình mắc cạn ngu ngơ,

Quanh chăn gối vật vờ.

Câu thơ quèn lạc vận,

Còn vớ vẩn ươm mơ.

 

Mộng vỡ đã chương phình,

Người xưa vẫn lặng thinh,

Mặc mình ai sám hối,

Sớm tối nhẵn lời kinh.

 

Luýnh quýnh ngọn đèn chong,

Rụt rè tuổi xế đông,

Hỏi người trong giấc cuối

Có tiếc nuối gì không.


Trần Văn Lương
Cali, 9/2023

9/15/23

Em Bước Vào Thu

 

Em bước vào Thu, như vào mộng,
Cây lá chung quanh, một sắc vàng.
Nắng vẫn chờ em ngoài cửa động,
Sao chân ngập ngừng… em hoang mang?

Em bước vào Thu, chiều hư ảo,
Thảm cỏ nằm, tương tư mầu xanh.
Khu vườn nhớ mùi hương thạch thảo,
Chiếc lá đầu cành, rơi rất nhanh!


Em vào Thu, giẫm trên xác lá,
Có nghe vụn vỡ, tiếng giòn tan!
Âm thầm chịu đau thương tàn tạ,
Làm sao em biết, lá thở than?

Em bước vào Thu, rừng nức nở,
Thoảng nghe tiếng chim kêu lạc đàn!
Trong chòm lá, nai vàng bỡ ngỡ…
Đầu cành mắt lệ, giọt sương tan!

Em bước vào Thu, trăng sắp rụng,
Thời gian đậu trên cánh phong lan.
Như mây phù du… Em sao biết
Thu vừa đến, là Thu sắp tàn!

Em vào Thu nghe gió thở dài.
Vàng Thu rực rỡ, để tàn phai!
Ngọn đèn bừng sáng, khi gần tắt,
Còn gì lưu luyến để ngày mai! (?)

 

 Trần Quốc Bảo

                 Richmond, Virginia

9/2/23

Trăng Rằm

 

Giao Mùa

Hôm nay đang độ giao mùa
Vu Lan tháng bảy cũng vừa tròn trăng
Biết người có nhớ ta chăng
Riêng ta thơ thẩn nhìn trăng nhớ người
Trăng Xanh (*) tỏa ánh sáng ngời
Thiếu người chung ngắm nên đời mất vui!
Hỏi người tri kỷ xa xôi
Trên kia có thấy là tôi đang buồn?
Tôi đang ngăn giọt sầu tuôn
Để ai nhẹ bước trên đường vãng sanh
Ngắm trăng nhớ khoảng trời xanh
Nhớ thời cắp sách chúng mình tung tăng
Đêm về cùng ngắm vầng trăng
Bên hồ tâm sự, bao lần cười vui...

Trăng ơi ngày ấy xa rồi
Sao ta cứ mãi nhớ người tri âm?

Nhan Ánh Xuân
Cali 31/08/2023
(*) Blue Moon.


Trung Thu trăng sáng gặp mùa
Nhớ cha nhớ mẹ giao mùa tròn trăng
Trăng tròn nửa gánh có chăng
Ngắm vầng trăng sáng tròn trăng nhớ người
Ánh trăng xanh buốt sáng ngời
Trời Tây độc ẩm xá gì niềm vui
Trường xưa bạn cũ xa xôi
Trăng càng vời sáng riêng ta lặng buồn
Sương khuya tí tách rơi buông
Cuộc đời hiu quạnh nỗi buồn vãng sanh
Lâm Viên hồ nước xanh xanh
Thụ Nhân Phù Đổng có mình tung tăng
Trăng tròn trăng khuyết ngắm trăng
Hằng Nga ngẫm nghĩ mấy lần xướng vui.

LĐT

Cảm tác

“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên” (*)
Kỷ niệm xưa ánh trăng chợt khuấy
Da diết buồn theo sắc trăng xanh
Huyền diệu lắm nhưng nào cảm nhận
Dõi bóng xa một thuở không đành
Nên tình mãi vẫn hoài lận đận
Bao năm qua giờ đã xa xăm
Nhưng khó xóa ban đầu dấu ấn.

Trăng ơi xin hỏi trăng có thấu
Tình thơ vương vấn đến bao giờ ?

Võ Thành Xuân

Cali 01/09/2023

(*) Thơ Thế Lữ




GIAO MÙA

Thơ gieo trong tiết giao mùa
Đêm rằm sao sáng vui đùa cùng trăng
Bạn hiền có nhớ hay chăng
Với nhau mình ngắm sao băng … nhớ người
Trăng sao đua ánh rạng ngời
Người đi xa lắm, xa rồi…ai vui
Người về cõi ấy xa xôi
Còn tôi cõi tạm ngăn rơi giọt buồn
Biết vô thường lệ cứ tuôn
Sao ai cắt cớ chia đường tử sanh!
Một mình ngồi ngắm trời xanh
Nhớ thương ngày tháng bọn mình tung tăng.
Giờ đây cũng có vầng trăng
Bạn đà bỏ cuộc ai cùng đùa vui.

Bao nhiêu kỷ niệm xa rồi
Trăng nào soi được bóng người tri âm?

Thanh Tuyền

9/1/23

Sao Mây Lại Ghé

 Dạo:

        Mây ơi ghé đến làm chi,

Có mang lại được chút gì ngày xưa?

 

Cóc cuối tuần:

 

           Sao Mây Lại Ghé

 

Ngây ngất nhìn mây, thoáng ngật ngầy,

Hỏi mây sao lại ghé về đây,

Tưởng còn đang lất lây ngàn dặm,

Thăm thẳm chân trời bóng nhạn bay.

 

Mây kia chẳng biết đến từ đâu,

Rỉ rả lời Ngâu quặn mái đầu,

Ngỡ thấy lại con tàu dĩ vãng,

Vội vàng quýnh quáng hỏi vài câu.

                      x

                  x      x

Có phải mây từ xóm đạo xưa,

Mang về đây tiếng mẹ ru trưa,

Dỗ dành con lúc chưa mềm giấc,

Gà gật theo từng nhịp võng đưa?

 

Mây có dây dưa ở cánh đồng

Ngắm hoa cùng bướm rực trời không,

Rồi mang hình ảnh bồng lai đó

Đến kẻ đang vò võ ngóng trông?

 

Có lông bông lạc tới thôn nghèo,

Thích thú nhìn bầy trẻ choắt cheo,

Hí hửng leo trèo đeo nhánh ổi,

Cuối cùng la lối té lăn queo?

 

Mây có theo nhau viếng cổng trường,

Nơi xưa có đứa tập yêu đương,

Ẩm ương tuổi tác chưa tròn tá,

Mà đã nhì nhằng nhớ với thương?

 

Có tìm đường ghé đến công viên,

Lặng xót xa giùm gã thiếu niên,

Cắm cúi ngày đêm xây ảo mộng,

Để rồi ôm thất vọng triền miên?

 

Mây có thấu cho nỗi chán chường

Đang dần chia cách cặp uyên ương,

Tiếng chì tiếng bấc thường vang vọng,

Khiến mộng chung đôi chết giữa đường?

 

Có lang thang cặp bến đò ngang,

Để thấy lại đôi mắt bẽ bàng

Hụt hẫng của chàng trai bé nhỏ

Khi tình đầu sớm bỏ đi hoang?

 

Và có rẽ sang nóc giáo đường

Bên lề con dốc nhỏ mù sương,

Dừng nghe Chúa thở dài khe khẽ

Thương kẻ nợ tình trót vấn vương?

 

Lừng khừng hỏi nốt tại vì sao

Mây cứ lang bang tự thuở nào,

Có biết từ lâu bao kỷ niệm

Trong khăn tẩn liệm vẫn kêu gào?

                     x

                  x      x

Hỏi mãi mây sao chẳng trả lời,

Vẫn theo làn gió nhởn nhơ chơi,

Vẫn bên đời phất phơ ngang dọc,

Bỏ mặc trần gian khóc với cười.

 

Tần Lĩnh mây trời quyện khói sương,

Người xưa buồn chẳng thấy quê hương.

Ngày nay e cũng chừng không khác,

Ngơ ngác nhìn mây khách đoạn trường.

 

Mây dường như cũng chỉ là mây,

Cũng vẫn vô tình tựa cỏ cây,

Nên chẳng hề hay nơi viễn xứ,

Gót chân lữ thứ lệ vương đầy.

 

Quắt quay quay quắt bước xa nhà,

Trông ngóng màu mây cũ thiết tha.

Nhưng nếu đà phôi pha quá khứ,

Thì xin mây chớ ghé về qua.

           Trần Văn Lương

               Cali, 8/2023