Showing posts with label Trần Văn Lương. Show all posts
Showing posts with label Trần Văn Lương. Show all posts

9/1/23

Sao Mây Lại Ghé

 Dạo:

        Mây ơi ghé đến làm chi,

Có mang lại được chút gì ngày xưa?

 

Cóc cuối tuần:

 

           Sao Mây Lại Ghé

 

Ngây ngất nhìn mây, thoáng ngật ngầy,

Hỏi mây sao lại ghé về đây,

Tưởng còn đang lất lây ngàn dặm,

Thăm thẳm chân trời bóng nhạn bay.

 

Mây kia chẳng biết đến từ đâu,

Rỉ rả lời Ngâu quặn mái đầu,

Ngỡ thấy lại con tàu dĩ vãng,

Vội vàng quýnh quáng hỏi vài câu.

                      x

                  x      x

Có phải mây từ xóm đạo xưa,

Mang về đây tiếng mẹ ru trưa,

Dỗ dành con lúc chưa mềm giấc,

Gà gật theo từng nhịp võng đưa?

 

Mây có dây dưa ở cánh đồng

Ngắm hoa cùng bướm rực trời không,

Rồi mang hình ảnh bồng lai đó

Đến kẻ đang vò võ ngóng trông?

 

Có lông bông lạc tới thôn nghèo,

Thích thú nhìn bầy trẻ choắt cheo,

Hí hửng leo trèo đeo nhánh ổi,

Cuối cùng la lối té lăn queo?

 

Mây có theo nhau viếng cổng trường,

Nơi xưa có đứa tập yêu đương,

Ẩm ương tuổi tác chưa tròn tá,

Mà đã nhì nhằng nhớ với thương?

 

Có tìm đường ghé đến công viên,

Lặng xót xa giùm gã thiếu niên,

Cắm cúi ngày đêm xây ảo mộng,

Để rồi ôm thất vọng triền miên?

 

Mây có thấu cho nỗi chán chường

Đang dần chia cách cặp uyên ương,

Tiếng chì tiếng bấc thường vang vọng,

Khiến mộng chung đôi chết giữa đường?

 

Có lang thang cặp bến đò ngang,

Để thấy lại đôi mắt bẽ bàng

Hụt hẫng của chàng trai bé nhỏ

Khi tình đầu sớm bỏ đi hoang?

 

Và có rẽ sang nóc giáo đường

Bên lề con dốc nhỏ mù sương,

Dừng nghe Chúa thở dài khe khẽ

Thương kẻ nợ tình trót vấn vương?

 

Lừng khừng hỏi nốt tại vì sao

Mây cứ lang bang tự thuở nào,

Có biết từ lâu bao kỷ niệm

Trong khăn tẩn liệm vẫn kêu gào?

                     x

                  x      x

Hỏi mãi mây sao chẳng trả lời,

Vẫn theo làn gió nhởn nhơ chơi,

Vẫn bên đời phất phơ ngang dọc,

Bỏ mặc trần gian khóc với cười.

 

Tần Lĩnh mây trời quyện khói sương,

Người xưa buồn chẳng thấy quê hương.

Ngày nay e cũng chừng không khác,

Ngơ ngác nhìn mây khách đoạn trường.

 

Mây dường như cũng chỉ là mây,

Cũng vẫn vô tình tựa cỏ cây,

Nên chẳng hề hay nơi viễn xứ,

Gót chân lữ thứ lệ vương đầy.

 

Quắt quay quay quắt bước xa nhà,

Trông ngóng màu mây cũ thiết tha.

Nhưng nếu đà phôi pha quá khứ,

Thì xin mây chớ ghé về qua.

           Trần Văn Lương

               Cali, 8/2023

8/10/23

Trời Nóng - 熱 浪

 Dạo:

        Nóng sao nóng quá thế này,

Nóng khô khốc đất, nóng quay quắt người!

 

I. Cóc cuối tuần Phú Lang Sa:

 

      La Canicule

 

La nuit vient d'écarter son voile,

Cédant le ciel au cruel soleil

Qui dévore dès son réveil

Tout, jusqu'à la dernière étoile.

 

La chaleur engloutit la terre,

La rendant en un géant fourneau.

Les bois fument, et tout point d'eau

Devient une vraie fourmilière.

 

Les parcs se tournent en déserts,

Où quelques âmes téméraires

Trouvent que les itinéraires

Vers l'au-delà leur sont offerts.

 

Quelque part, la guerre fait rage,

Portant au peuple un coup fatal.

Dictée par un destin brutal,

Elle entretient son long carnage.  

 

Quoiqu'intense soit la chaleur,

Pour ceux qui n'ont plus de patrie,

Rien n'égale dans cette vie

Le feu qui brûle dans leur cœur.

            Trần Văn Lương

               Cali, 8/2023


 

II. Phỏng dịch thơ Việt:

 

          Trời Nóng


Màn đêm dày luống cuống cuốn thật nhanh,

Để nhường khoảng trời xanh cho ánh nhật.

Con quạ lửa vùng trở mình thức giấc,

Trăng sao cùng chịu mất tích mất tung.

 

Hơi nóng ào đổ xuống tự không trung,

Trái đất biến thành lò nung vĩ đại.

Rừng bốc cháy, và quanh dòng nước chảy,

Hàng vạn người xúm lại tựa kiến bu.

 

Công viên đà thành sa mạc thâm u,

Những kẻ thích phiêu du tìm gian khổ,

Đâu có biết rằng con đường thiên cổ

Đang sẵn sàng rộng mở đón người sang.

 

Chiến tranh theo hơi nóng cũng rộn ràng,

Khiến đây đó khăn tang bày la liệt,

Rồi vâng lệnh của mệnh trời cay nghiệt,

Khắp nẻo đường gieo chết chóc đau thương.

 

Nhưng dẫu cho trời nóng cháy nan đương,

Với kẻ chẳng còn quê hương đất nước,  

Cơn nóng đó làm sao mà sánh được

Ngọn lửa sầu hừng hực ở trong tim.

               Trần Văn Lương

                  Cali, 8/2023

 

 

III. Phỏng dịch thơ Anh văn: (iambic pentameter)

 

    The Heat Wave 

The night has just been lifting its dark shroud,

To give back to the day the firmament.

The sun, awake, becomes quite militant,

Devouring all, and moon and star and cloud.

 

The scorching heat unleashed its deadly force,

And turned the earth into a sizzling stove.

Woods burn. And thirsty people madly rove

As groups of ants around the water source.

 

The parks become deserted instantly,

Where daring souls are learning rather late,

The roads for them to meet their early fate

Unluckily are open presently.

 

Somewhere the deadly war begins to rage,

And is committing countless villainy.

Dictated by some karma tyranny,

It's wreaking havoc on this sad world stage.

 

No matter how intense this heat may grow,

For those whose country is forever lost,

No fire which, in this life, on them is tossed,

Can match the flame which in their hearts does glow.

               Trần Văn Lương

                  Cali, 8/2023

 

 

IV. Phỏng dịch thơ Tây Ban Nha: (endecasílabos)

 

        La Canícula 

El velo de la noche está doblado,

Devolviendo la esphera al sol bandido.

Desde el momento en que este ha despertado,

Borra todo, ese astro restante incluido.

 

Está bañada en el calor la tierra,

Así cambiada en un horno gigante.

Como la fuente de agua nunca cierra,

La gente la frecuenta a todo instante.

 

Los parques se convierten en desiertos,

Donde incontables almas atrevidas

Se enfrentarán a riesgos casi ciertos,

Porque la ruta al nirvana es sin huidas.

 

En algunos países es la guerra

Que da a la gente un ataque fatal.

Ella causa destrozos a la tierra,

Obedeciendo a un destino brutal.

 

Aunque aquella canícula es potente,

Por los que pierden su país amado,

En esta vida, nada es más caliente

Que el pobre corazón del refugiado.

                Trần Văn Lương

                   Cali, 8/2023



V.  Phỏng dịch thơ Latin: (dactylic hexameter) (*)


      Aestus Unda 

Tristia nocturna vela ablata modo sunt,

Cæruleum cœlum ad sævum solem reditum est.

Sol, cum a consueto somno suo surgere cœpit,

Omnia usque ad ultimum sidus deglutiat.

 

Prorsus terram invadit fluctus barbari æstus,

Eam in fornacem giganteam cito mutans.

Silvæ ardent. Ad fontes conveniunt sitientes,

Currentes sicut formicarum coloniæ.

 

Horti nationis in deserta æstuosa facti sunt,

Ubi paucæ animæ fortes temerariæque

Animadvertunt, uno modo vel alio, iam

Eis eternas portas cœli aperiri.

 

Incipitur bellum funestum alicubi,

Extendens hominibus exitialem ictum.

Ordini inhumani fati temere obediens,

Innumeras miserias et damna creavit.

 

Utcumque intensa nunc est unda caloris,

Pro illis qui amiserunt patriam miserabiliter,

In hac vita est nulla flamma tam calida quam

Ignis quis quotidie in eorum cordibus ardet.

                        Trần Văn Lương

                          Cali, 8/2023


(*) Ghi chú:

    Phân nhịp (scan) ra các pieds (dactyl: D, spondee: S)

như sau (pied thứ 5 bao giờ cũng phải là một dactyl):


Trīstĭă| nōctūr|nā vē|lā⁔ā|blātă mŏ|dō sunt,                    DSSSDS

Cǣrŭlĕ|ūm cœ̄|lum‿ād sǣ|vūm sō|lēm rĕdĭ|tūm⁔est.   DSSSDS

Sōl, cum‿ā| cōnsuē|tō sōm|nō sŭŏ| sūrgĕrĕ| cœ̄pit,        SSSDDS

Ṓmnĭă|⁔ūsquĕ⁔ăd| ūltī|mūm sī|dūs dĕglŭ|tīat.             DDSSDS

 

Prōrsūs| tērram‿īn|vādīt| flūctūs| bārbărĭ|⁔ǣstus,        SSSSDS

Ēam‿īn| fōrnā|cēm gī|gāntē|ām cĭtŏ| mūtans.                SSSSDS

Sīlvæ‿ār|dēnt. Ād| fōntēs| cōnvĕnĭ|ūnt sĭtĭ|ēntes,          SSSDDS

Cūrrēn|tēs sī|cūt fōr|mīcā|rūm cŏlŏ|nīæ.                          SSSSDS

 

Hōrtĭ nă|tīŏnĭs| īn dē|sērta‿ǣs|tūŏsă| fācti sunt,            DDSSDS

Ūbī| pāucae‿ănĭ|mǣ fōr|tēs tē|mērărĭ|ǣque                  SDSSDS

Ānī|mādvēr|tūnt, ū|nō mŏdŏ| vēl ălĭ|ō, iam                    SSSDDS

Ēīs| ētēr|nās pōr|tās cœ̄|lī⁔ăpĕ|rīri.                                SSSSDS

 

Īncī|pītūr| bēllūm| fūnēs|tūm⁔ălĭ|cūbi,                          SSSSDS

Ēxtēn|dēns hō|mīnī|būs ē|xītĭă|lem‿īctum.                   SSSSDS

Ōrdĭni‿ĭn|hūmā|nī fā|tī tĕmĕ|rē⁔ŏbĕ|dīens,                 DSSDDS

Īnnŭmĕ|rās mī|sērī|ās ēt| dāmnă crĕ|āvit.                        DSSSDS

 

Ūtcūm|quē⁔īn|tēnsā| nūnc ēst| ūndă că|lōris,                SSSSDS

Pro‿īllīs| qui‿āmĭsĕ|rūnt pătrĭ|ām mī|sērăbĭ|līter,       SDDSDS

Īn hāc| vītāst| nūllā| flāmmā| tām călĭ|dā quam              SSSSDS

Īgnīs| quīs quŏtĭ|dīe‿ĭn ĕ|ōrūm| cōrdĭbŭs| ārdet.           SDDSDS


VI.  Phỏng dịch thơ Hán:

 
      

 

    ,

    .

    ,  

    .

 
    ,
    .
    ,
    .
 
    田,
    
    ,
    .
 
    征,
    .
    布,
    .
 

    ,

    ,

    

    .  

           

 

 

Âm Hán Việt:

 

        Nhiệt Lãng

 

Dạ liêm dĩ quyển khai,

Thiên thượng ác dương lai.

Tha nhất thời cương tỉnh,

Thần tinh tích tử nhai.

 

Nhiệt lãng nhập thành đô,

Mang mang nhất hỏa lô,

Phàm đồ biên hữu thủy,

Nhân nhược nghĩ chi ngô.  

 

Công viên biến phế điền,

Kỷ hảo hán y nhiên

Đại đảm kiên nguy hiểm,

Bi thương kiến cửu tuyền.

 

Viễn phương khởi chiến chinh,

Đồ thán cái sinh linh,

Mệnh dĩ kinh bài bố,

Dân gian khổ bất đình.

 

Na nhiệt lãng tuy trường,

Đối nhân một cố hương,

Bất năng như giá hỏa

Nhật dạ chước can trường.

         Trần Văn Lương

            Cali, 8/2023

 

Nghĩa:

 


    Làn Sóng Nóng

Màn đêm đã cuốn lại,

Trên không, mặt trời dữ  đến.

Từ lúc nó tỉnh giấc,

Sao mai đạp lên bờ cõi chết.

 

Làn sóng nóng vào thành phố,

Mênh mông một lò lửa.

Hễ bên đường mà có nước,

Người (đông) như kiến lo cầm cự.

 

Công viên biến thành ruộng hoang,

Ít chàng hảo hán cứ như cũ

Can đảm gánh nguy hiểm,

(Phải) đau buồn thấy chín suối.

 

Phương xa nổi chiến tranh,

Tro than phủ đầy trăm họ.

Định mệnh đã xếp đặt,

Nỗi khổ của người dân không ngưng .

 

Làn sóng nóng đó tuy dài,

(Nhưng) với người không (còn) có quê cũ,

(Nó) không thể bằng ngọn lửa này đây

(Đang) ngày đêm đốt cháy ruột gan.

7/21/23

Tiễn Thầy

 Dạo:

       Thầy đà sạch nợ trần ai,

Người thân ở lại canh dài nhớ thương.

 

Cóc cuối tuần:

 

              Tiễn Thầy

 

   (Thay mặt một số cựu học sinh Đệ Nhất B

    VT 63-64 để nói lời tiễn biệt cùng vị

    thầy khả kính đã trọn đời hy sinh cho

    giáo dục, đã dạy dỗ hướng dẫn cùng

    thương yêu nhiều thế hệ học sinh trong

    mấy mươi năm dài dạy học của Thầy)

 

Đò thiên cổ đang dần dần tách bến,

Dù trong lòng có quyến luyến đến đâu,

Thì giờ đây phải đau đớn cúi đầu,

Nghẹn ngào nói với Thầy câu vĩnh biệt.

 

Chuyện sinh tử từ lâu ai cũng biết,

Nhưng làm sao khỏi thê thiết bi ai,

Lệ tiếc thương rơi giọt vắn giọt dài,

Khi nghĩ đến giờ chia tay cất bước.

 

Sáu mươi năm về trước,

Nhất B vừa có phước lại gặp may.

Ngoài việc học với Thầy,

Lớp còn được chính tay Thầy hướng dẫn.

 

Niên khóa cuối, sách đèn thêm lận đận,

Ai nấy đều lo bận rộn học thi.

Nếu "bảng vàng" tên tuổi chẳng được ghi,

Trai tráng phải lên đường đi nhập ngũ.

 

Mùa hè đến, học sinh rời chốn cũ,

Dấn thân vào nơi vần vũ gió mưa.

"Ông lái đò" vẫn ở lại trường xưa,

Để tiếp tục đón đưa đoàn "khách" mới.

 

Kẻ lạc lõng phương xa thường tự dối,

Chuyện gặp nhau sẽ tới, chóng hay chầy,

Thầy còn đây, trường cũ vẫn còn đây,

Lúc nào muốn sum vầy mà chẳng được.

 

Nhưng đau đớn, xảy ra ngày mất nước,

Bao tai ương lũ lượt giáng lên đầu,

Non sông đà thành bãi bể nương dâu,

Tuổi trẻ chịu nhiều đau thương khổ hận.

 

Có đứa đã bỏ mình nơi chiến trận,

Đứa vùi thân xác tận đáy trùng dương,

Đứa lưu đày ngay chính tại quê hương,

Đứa vất vả tha phương tìm đất sống.

 

Trên dòng đời biến động,

Tưởng không còn hy vọng gặp lại nhau.

Nhờ Trời thương, dù chờ đợi khá lâu,

Cuối cùng đã có con tàu hội ngộ.

 

Rồi từ đó, dẫu buồn vui sướng khổ,

Trò thay phiên lớn nhỏ ghé thăm Thầy,

Mặc tháng ngày và nơi chốn đổi thay,

Vẫn tưởng được nghe giảng bài như cũ.

 

Với tấm lòng từ phụ,

Thầy chính là cây cổ thụ tha phương,

Quy tụ đàn chim nhỏ mất quê hương,

Để cùng nhớ đến mái trường yêu dấu.

 

Và cứ thế, lúc trà dư tửu hậu,

Thầy xướng thơ, trò nhanh nhẩu họa vần,

Càng ngày càng siết chặt mối tình thâm,

Cho đất khách bớt đôi phần giá lạnh.

 

Dù vẫn muốn luôn có Thầy bên cạnh,

Nhưng buồn thay, định mệnh quả trêu ngươi,

Chẳng xót thuơng cho tình cảm con người,

Lạnh lùng đến đưa Thầy xuôi bến khác.

 

Tự an ủi rằng ở nơi Cực lạc,

Các môn sinh và các bạn của Thầy,

Đã giã từ trần thế bấy lâu nay,

Sắp sửa lại được cùng Thầy đoàn tụ.

 

Mất tàn cây cổ thụ,

Học trò cũ bơ vơ,

Mạo muội làm bài thơ luật đơn sơ,

Cung kính gửi đến Thầy giờ ly biệt:

 

      Xót xa giây phút tiễn đưa này,

      Cố nén mà sao mắt vẫn cay.

      Trường sớm thay tên, sầu ngập lối,

      Thầy nay khuất núi, lệ đầy tay.

      Công lao giáo dục luôn còn đấy,

      Sự nghiệp thơ văn mãi sống đây.

      Chốn ấy thong dong, rày sạch nợ,

      Trần gian thương nhớ có nào khuây.

 

Vĩnh biệt Thầy.

 

             Trần Văn Lương

                 Cali, 7/2023

7/6/23

Sầu Ca - 愁 歌

 Dạo:

     Lời xưa trối lại còn đây,

Sao ta vô dụng thế này, hỡi ơi!

 

 

Cóc cuối tuần:

 

      

    ,
    . 
    
    .

          

 

 

Âm Hán Việt:

 

     Sầu Ca

Bi văn tỏa thạch bi,

Di mệnh vĩnh nan di.

Lệ chí, duy hồng lệ

Y tiền tí lạn y.

   Trần Văn Lương

 

Dịch nghĩa:

 

           Khúc Ca Sầu

(Bài) văn buồn khóa chặt bia đá,

Lời (người xưa) trối lại vĩnh viễn khó thay đổi. 

(Dù) gắng sức (nhưng) chỉ có lệ máu

Thấm (ướt manh) áo rách như trước.

 

Phỏng dịch thơ:

 

            Khúc Ca Sầu

    Hằn bia đá vết sầu dâu bể,

    Di mệnh buồn há dễ đổi thay. 

       Trọn đời dẫu cố loay hoay,

Trên manh áo rách lệ nay vẫn hồng.

           Trần Văn Lương

              Cali, 7/2023

 

 

 

Lời than của Phi Dã Thiền Sư:

      Mộ bia buồn vẫn còn đó, di mệnh của 

người xưa vẫn còn đó.       

    Nhưng, than ôi, vì tấm thân vô dụng, bất tài vô

tướng nên dù gắng gỏi thế nào cũng chỉ làm lệ

máu rơi trên manh áo rách!   

      Hỡi ơi!


Xin kính họa, đồng thời gửi gấm tâm sự chính mình:

              Khúc Ca Sầu

    Miệt mài khắp chân trời góc bể,

    Tìm hương xưa... chẳng dễ, thương thay! 

       Gót mòn, tay lại loay hoay

Tìm dư âm cũ... phím nay đã chùng!

                  -Ai Cơ-             

         Melbourne, 7/2023


Họa vận :

    Dạo :
                Trăm năm bia đá thì mòn,
           Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ !

                  歎歌                 THÁN CA

              啤酒就口碑,     BI tửu tựu khẩu BI,
              迤邐總不移。     DI lệ tổng bất DI.
              厲鬼灑愁淚,     LỆ quỷ sái sầu LỆ, 
              伊誰還有衣?     Y thùy hoàn hữu Y ?!
                        杜紹德                     Đỗ Chiêu Đức

Có nghĩa :
         - Rượu BIA làm nên BIA Miệng (Bia vào nói năng lung tung !).Nhưng...
         - Lòng vòng rồi cũng không có thay đổi gì hết.
         - Qủy dữ thì vẫn chuyên rải ra những giọt lệ sầu mà thôi !...
         - Thử hỏi người nào còn có (cơm ăn) áo mặc đây ?! 

Diễn Nôm :

 * Song thất lục bát :

               Nóc rượu bia, làm nên bia miệng,
               Lòng vòng rồi có tiếng nhưng không...
               Lệ sầu qủy dữ đừng mong...
               Ai người còn có áo hòng mặc đây ?!

 * Lục bát :

               Rượu bia bia miệng trơ trơ,
               Lòng vòng cũng rứa khó chờ đổi thay.
               Lệ sầu qủy dữ xưa nay,
               Khắp nơi cơm áo mấy ai đủ đầy !?

                                          Đỗ Chiêu Đức
                                                              Kính họa


Kính anh Chiêu-Đức,
Khi gửi con cóc này ra, tôi biết thế nào cũng nhận được bài họa của anh.
Không biết nói gì để bày tỏ lòng thán phục của tôi đối với các bài họa của anh,
nhất là bài Hán văn. Không những anh đã giữ đúng cách chơi chữ của bài xướng, mà
bài họa còn thật dí dỏm nhưng cũng thật ngậm ngùi.
Cám ơn anh thật nhiều.
Lương