Showing posts with label Hán tự. Show all posts
Showing posts with label Hán tự. Show all posts

5/19/23

Kỳ Cảnh - 奇 景

 Dạo:

         Vui chân lạc bước trời xa,

Tuy toàn cảnh đẹp, nhưng nhà mình đâu?

 

Cóc cuối tuần:


 

      ,
      . 
      , 
      .

             


Âm Hán Việt:

 

              Kỳ Cảnh

Du hành hạnh đáo nhất kỳ phương,

Dạ tĩnh, tinh triều, tiếu nguyệt xương.

Khán cảnh, tâm trường trung một hỷ,

Tựu tri bất thị ngã gia hương.

            Trần Văn Lương

 

Dịch nghĩa:

 

           Cảnh Lạ

Rong chơi, may mắn đến một nơi đẹp,

Đêm yên lặng, sao về chầu, mặt trăng cười, sáng rỡ. 

Nhìn cảnh mà trong lòng không chút vui,

Bèn biết ngay rằng (đây) không phải là quê nhà mình.

 

Phỏng dịch thơ:

 

               Cảnh Đẹp

Vui bước lang thang đến một nơi,

Đêm yên, sao trẩy, ánh trăng cười.

Mắt nhìn, dạ rối bời tê tái,

Đâu phải quê nhà đất nước tôi.

         Trần Văn Lương

          Slovenia, 5/2023

  

Lời than của Phi Dã Thiền Sư:

     Lang thang theo chân người giong ruổi, đến chỗ

 tạm dừng chân. Mắt nhìn cảnh đẹp mà sao trong

 lòng không chút gì vui sướng.

      Buồn thay, đây là đất nước người chứ nào phải

 là quê hương mình!

      Hỡi ơi!


Xin kính họa:

 

Mặc bao thắng cảnh ở muôn nơi,

Lồng lộng âm xưa tiếng nói cười...

Hình ảnh quê nhà yêu dấu cũ...

Hằng đong đầy ắp trái tim tôi.

         - Ai Cơ -

Melboure, 5/2023

10/27/22

Nỗi Sầu Vạn Cổ - 萬 古 愁

 Dạo:

      Người soi gương khuất từ lâu,

Sao còn lây lất bóng sầu trong gương.

 

Cóc cuối tuần:

 

      萬 古 愁

對 鏡   舉 酒 鍾,

鏡 前 鏡 裏 兩 愁 容.

      ,
      .

             陳 文 良

 

Âm Hán Việt:

 

         Vạn Cổ Sầu

Đối kính quyên quyên cử tửu chung,

Kính tiền, kính lý, lưỡng sầu dung.

Hung hung thiên cổ hào môn ngoại,

Nhân tử, sầu do tại kính trung.

           Trần Văn Lương

 

Dịch nghĩa:

 

           Sầu Vạn Cổ

Đối diện (tấm) gương, buồn bã nâng chén rượu,

Trước gương, trong gương, hai khuôn mặt sầu.

Thiên cổ rầm rĩ kêu gào ngoài cửa,

Người chết, (nhưng) nỗi sầu vẫn còn tồn tại ở trong gương.

  

Phỏng dịch thơ:

 

          Nỗi Sầu Vạn Cổ

Đứng trước gương nâng chén bể dâu,

Người cùng bóng khổ lặng nhìn nhau.

Con tàu thiên cổ người xuôi mái,

Còn mãi trong gương một bóng sầu.

             Trần Văn Lương

               Cali, 10/2022

 

 

Lời than của Phi Dã Thiền Sư:

     Người chết được mệnh danh là người "thiên cổ" trong khi nỗi sầu lại được gọi là "vạn cổ" sầu!

     Sao lạ vậy? "Vạn" lớn hơn "thiên" cả chục lần kia mà!

    Phải chăng thiên hạ muốn bảo rằng nỗi sầu đau luôn kéo dài hơn kiếp người dù ở bên này hay bên kia thế giới? Quả thật, nhiều thế hệ tỵ nạn đã, đang và sẽ qua đi, nhưng nỗi sầu mất nước vẫn luôn còn tồn tại.

     Than ôi, người soi gương đã khuất mà chiếc bóng sầu vẫn còn mãi trong gương!

     Quả có lý này ư? Đến đây rồi thì lão tăng mù tịt!

     Hỡi ơi!

1/13/22

Dị Hương 異 香

Dạo:

Mai đà đổi sắc thay hương,
Hận hòa lệ úa thành sương đêm buồn.

Cóc cuối tuần:

異 香

黃 梅 鋪 色 滿 春 疆,
何 故 隨 風 散 異 香?
孤 旅 夜 長 思 故 土,
恨 和 老 淚 做 寒 霜.

陳 文 良

9/30/21

Đáo Lai

Dạo:

Qua bao chướng ngại trùng trùng,
May thay người đã cuối cùng đến nơi.

Cóc cuối tuần.


Dịch nghĩa:

Đến Nơi


Vội vàng muốn đi xem sóng Chiết giang, (1)
Sáng tối giày cỏ lướt trên đường như gió thổi.
Hè rực rỡ, đông điêu tàn, lòng luôn bền vững,
Núi cùng, sông tận, chân vẫn còn mạnh mẽ.
Rồng rắn điềm đạm gặp (chim) cánh vàng, (2)
Lừa ngựa lặng lẽ qua cầu đá. (3)
Đêm đen, ngọn gió thiền thổi tắt ngọn đuốc,
Hiểu biết của một đời chợt hoàn toàn tan biến. (4)

7/29/21

Mạc Khốc - 莫 哭

Dạo:

Đừng thương khóc chuyện qua đường,
Hãy thương khóc một quê hương không còn.

I. Cóc cuối tuần Phú Lang Sa:

Ne Pleure Pas

Ne pleure pas quand le soleil,
Sa lueur enfin tarie, se cache.
Car demain, fidèle à sa tâche,
Reviendra ce disque vermeil.

Quand la lune un soir disparaît,
Ne pleure pas sa sombre absence.
Car bientôt, avec grande aisance,
Reparaîtra son bel attrait.

Quand le vent d'automne survient,
Dénuant l'arbre de son feuillage,
Ne pleure pas, car ce pillage
Finira plus vite qu'il vient.

Et quand ces beaux oiseaux s'en vont
Pour rejoindre un autre rivage,
Sache que ce n'est qu'un voyage.
Ne pleure pas, ils reviendront.

Mais quand l'ennemi t'a rendu
Exilé dans ta patrie même,
Pleure et pleure donc, le cœur blême,
Pour ce pays à jamais perdu.

Trần Văn Lương
Cali, 7/2021

II. Phỏng dịch thơ Việt:


Đừng Than Khóc

Đừng than khóc khi mặt trời khuất dạng,
Cuốn mang theo những giọt nắng úa tàn,
Vì ngày mai, khi sương sớm dần tan,
Sẽ lại thấy ánh hồng lan khắp chốn.

Mảnh trăng đó cũng có ngày ẩn trốn,
Đừng âu sầu, đừng chộn rộn khóc than,
Chỉ vài hôm, trăng sẽ lại an nhàn
Trở về giữa lối ngàn sao lấp lánh.

Khi ngọn gió thu vút qua lành lạnh,
Vặt rừng cây trụi lá, nhánh khô phơi,
Đừng khóc than, cảnh xơ xác tả tơi
Sẽ biến mất nhanh như thời mới đến.

Khi những cánh chim giã từ từng chuyến,
Để tìm về một bến đỗ xa xôi,
Đây chỉ là chia cách tạm mà thôi,
Đừng than khóc, chúng rồi quay trở lại.

Nhưng khi bị lũ giặc thù vô loại,
Bắt lưu đày trên dải đất yêu thương,
Hãy vắt tim, dốc hết lệ đoạn trường,
Khóc cho một quê hương không còn nữa.

Trần Văn Lương
Cali, 7/2021


III. Phỏng dịch thơ Tây Ban Nha: (endecasílabos)

No Te Lamentes

No te lamentes cuando el sol se pone,
Después de disipar su luz divina,
Porque mañana, fiel a su rutina,
De nuevo el disco celeste se expone.

Cuando se esconde la luna chiquilla,
No lamentes su corta y oscura ausencia,
Porque pronto, con gran aplomo y gracia,
Reaparecerá esta maravilla.

Cuando el viento glacial de otoño viene,
Al bosque de sus hojas despojando,
No te lamentes. Como está cambiando
El clima, pronto el botín se detiene.

Y cuando emigran las aves hermosas
A alguna costa cálida y amigable,
Sepa que es solo un viaje inevitable.
No te lamentes, volverán con rosas.

Pues si tu tierra natal es vendida
Y el enemigo te ha en ella exiliado,
Ve a lamentar, el corazón quebrado,
Tu patria ahora por siempre perdida.

Trần Văn Lương
Cali, 7/2021



IV. Phỏng dịch thơ Anh văn: (iambic pentameter)

Don't Cry

Don't cry, when at day's end, you see the sun
Collect his fading rays and sink away,
Because, as soon as looms a fresh new day,
This red and blazing disc resumes his run.

When suddenly the moon cannot be seen,
Don't cry for her short-lived retreat from view,
Because in time she will appear anew,
Displaying her old grace and charming sheen.

When that cold autumn wind arrives and strips
The trees of their last leaves and keeps them bare,
Don't cry, because it's just a little flare
Which ends as quickly as the weather flips.

And when these migrant birds begin to turn
To find a distant warm and friendly shore,
Remember, it's a trip, no less no more.
Don't cry, when spring appears, they will return.

However, when right in your native land
The devils exile you through threats and fears,
Then squeeze your heart for all your bloody tears
To mourn this lost forever fatherland.

Trần Văn Lương
Cali, 7/2021


V. Phỏng dịch thơ Latin: (dactylic hexameter) (*)

Noli Flere

Quando sol sub horizonte denique recedit
Et solaris scintilla lenta omnino evanescit,
Noli flere, quia cras cum suo modu operandi,
Statim in caelum illa caelestis stella resurgit.

Quando luna per aliquot noctes abolescit,
Noli flere illam absentiam temporariam,
Quia actutum amplifice denuo resurget,
Cum elegantia vetera et fulgore venusto.

Quando ventus autumni advenit derepente,
Et tota folia floresque in silva relegat,
Noli flere. Cum ver denique cambire coepit
Caelum, natura iterum vultum novum habebit.

Et quando aves, ut hoc frigus durum eludant,
Incipiunt migrare ad nova litora calda,
Noli flere. Hoc iter est solum temporarium.
Cum florescunt veris plantae, hilare revenient.

Sed si ab inimicis occupata est tua terra
Et in ea ipsa infeliciter factus es exul,
Cordis sanguinem in lacrimas convertere debes
Ut lamenteris amissum aeternum patriae hujus.

Trần Văn Lương
Cali, 7/2021




(*) Ghi chú:

Phân nhịp (scan) ra các pieds (dactyl: D, spondee: S)

như sau:

Quāndō| sōl sŭb hŏ|rīzōn|tē dē|nīquĕ rĕ|cēdit SDSSDS
Ēt sŏlă|rīs scīn|tīllā| lēnta‿ōm|nīno‿ĕvă|nēscit. DSSSDS
Nōlī| flērĕ, quĭ|ā crās| cūm sŭŏ| mōdu‿ŏpĕ|rāndi, SDSDDS
Stātim‿īn| cǣlum‿īl|lā cǣ|lēstīs |stēllă rĕ|sūrgit SSSSDS

Quāndō| lūnā| pēr ălĭ|quōt nōc|tēs ăbŏ|lēscit SSDSDS
Nōlī| flēre‿īl|lam‿ābsēn|tīām| tēmpŏră|rīam, SSSSDS
Quīā|⁔āctū|tum‿āmplĭfĭ|cē dē|nūŏ rĕ|sūrget, SSDSDS
Cum‿ēlē|gāntī|ā vĕtĕ|ra‿ēt fūl|gōrĕ vĕ|nūsto. SSDSDS

Quāndō| vēntūs| āutūm|ni‿ādvē|nīt dĕrĕ|pēnte, SSSSDS
Ēt tō|tā fŏlĭ|ā flō|rēsque‿īn| sīlvă rĕ|lēgat, SDSSDS
Nōlī| flērē|. Cūm vēr| dēnĭquĕ| cāmbĭrĕ| cœ̄pit SSSDDS
Cǣlūm|, nātū|rā⁔ĭtĕ|rūm vūl|tūm nŏvum‿hă|bēbit SSDSDS

Ēt quān|dō⁔ăvĕs|, ūt hōc| frīgūs| dūrŭm⁔ĕ|lūdant, SDSSDS
Īncĭpĭ|ūnt mī|grārē|⁔ād nŏvă| lītŏră| cālda, DSSDDS
Nōlī| flēre.‿Hŏc ĭ|tēr ēst| sōlūm| tēmpŏră|rīum. SDSSDS
Cūm flō|rēscūnt| vērīs| plāntae,‿hĭlă|rē rĕvĕ|nīent. SSSDDS

Sēd sī|⁔āb ĭnĭ|mīcīs| ōccŭpă|tāst tŭă| tērra SDSDDS
Ēt ĭn ĕa|‿īpsa‿īn|fēlī|cītēr| fāctŭs ĕs| ēxul, DSSSDS
Cōrdīs| sānguĭnĕm|⁔īn lăcrĭ|mās cōn|vērtĕrĕ| dēbes SDDSDS
Ūt lā|mēntĕrĭs| āmīs|sum‿ǣtēr|nūm pătrĭ|ae‿hūjus. SDSSDS

VI. Phỏng dịch thơ Hán:

莫 哭

若 見 太 陽 藏,
勸 君 莫 哭 喪,
明 天 它 復 返,
炯 炯 散 紅 光.

夜 長 月 沒 來,
莫 哭 莫 悲 哀,
不 久 銀 輪 出,
悠 悠 逛 九 陔.

秋 風 忽 不 平,
草 木 又 凋 零,
莫 哭 春 輝 至,
萋 萋 葉 再 生.

羣 鳥 漸 離 開,
避 寒 在 遠 涯.
莫 憂 愁 莫 哭,
時 到 眾 歸 來.

敵 已 抹 邊 疆,
流 亡 劫 難 長.
君 須 含 血 淚,
百 歲 泣 家 鄕.

陳 文 良


Âm Hán Việt:


Mạc Khốc


Nhược kiến thái dương tàng,
Khuyến quân mạc khốc tang,
Minh thiên tha phục phản,
Quýnh quýnh tán hồng quang.

Dạ trường, nguyệt một lai,
Mạc khốc, mạc bi ai,
Bất cửu, ngân luân xuất,
Du du cuống cửu cai.

Thu phong hốt bất bình,
Thảo mộc hựu điêu linh,
Mạc khốc, xuân huy chí,
Thê thê diệp tái sinh.

Quần điểu tiệm ly khai,
Tỵ hàn tại viễn nhai.
Mạc ưu sầu, mạc khốc,
Thời đáo, chúng quy lai.

Địch dĩ mạt biên cương,
Lưu vong kiếp nạn trường.
Quân tu hàm huyết lệ,
Bách tuế khấp gia hương.

Trần Văn Lương
Cali, 7/2021

Nghĩa:

Nếu thấy mặt trời ẩn,
Khuyên người đừng khóc hay ai điếu,
Ngày mai mặt trời trở lại,
Ánh sáng hồng tỏa ra rực rỡ.

Đêm dài, mặt trăng không đến,
Xin đừng khóc, đừng buồn khổ,
Chẳng bao lâu thì bánh xe màu bạc sẽ xuất hiện,
Thong dong dạo khắp chín tầng trời.

Gió thu chợt nổi giận,
Cỏ cây héo úa tàn tạ,
Xin đừng khóc, khi nắng xuân đến,
Lá cây sống lại tốt tươi.

Bầy chim dần dần bỏ đi,
Trốn lạnh nơi bến bờ xa.
Đừng lo buồn, đừng khóc,
Ngày giờ tới, đám đông sẽ quay lại.

(Nhưng khi) kẻ thù xóa hết biên cương,
Kiếp nạn lưu vong dài.
(Thì) xin người hãy ngậm lệ máu,
Trăm năm thương khóc quê nhà.

7/10/21

Thật Giả - 真 假

Dạo:

Nhìn gương ta lại thấy ta,
Băn khoăn tự hỏi ai là thật đây!
Cóc cuối tuần:

真 假

偶 見 鏡 中 人,
十 分 像 我 身.
茫 然 心 苦 慮,
誰 假 與 誰 真?

陳 文 良

Âm Hán Việt:

Chân Giả

Ngẫu kiến kính trung nhân,
Thập phần tượng ngã thân.
Mang nhiên tâm khổ lự,
Thùy giả dữ thùy chân?

Trần Văn Lương

Dịch nghĩa:

Thật Giả

Tình cờ thấy người trong gương,
Hoàn toàn giống mình.
Lòng mờ mịt buồn rầu lo nghĩ,
Ai là thật và ai là giả?

Phỏng dịch thơ:

Thật Giả


Trong gương hiện lão già,
Chẳng lẽ chính là ta.
Ai thật và ai giả,
Ải này há dễ qua?

Trần Văn Lương
Cali, 7/2021


Lời than của Phi Dã Thiền Sư:


Trước gương người nhăn mặt nhíu mày, 
trong gương người cũng nhíu mày nhăn mặt.

Thử nói xem, đó là người đứng trước gương nhìn người ở trong gương, hay là người ở trong
gương nhìn người đứng trước gương?

Nếu không có người đứng trước gương thì chẳng có người ở trong gương.

Và nếu không có người ở trong gương thì cũng chẳng có người đứng trước gương.

Thế thì cả hai đều thật ư? Cả hai đều giả ư? Hay là một thật, một giả? Nếu thế thì ai thật, ai giả?

Làm sao phân biện đây?
Tuy nhiên, thật cũng thế, mà giả cũng thế!
So đo mãi thì đến ngày nào mới minh bạch được. (*)
Than ôi, lại vướng vào khẩu nghiệp!
Lão tăng tội lỗi!

Ghi chú:
(*) Tín Tâm Minh của tam tổ Tăng Xán:

Âm:

"

Chí đạo vô nan,
Duy hiềm giản trạch,
Đãn mạc tắng ái,
Đỗng nhiên minh bạch.
...

"

Nghĩa:

Đạo lớn không có gì khó,
Miễn đừng so đo chọn lựa,
Chỉ cần không yêu ghét,
Thì tự nhiên sáng rõ.

6/10/21

放下

一直生長在繁忙的大都市, 人們除了追名逐利之外, 都被鎖在一個紙醉金迷的圈子裏, 人人身不由己的陷入時間和金錢的漩渦中挣扎求存, 在高樓, 汽車, 霓虹燈與紅男綠女塞滿的大都城中迷失自己, 像馬戲團裏的一隻獅子, 生活就只剩下在栅欄裏或舞臺上, 聽從命令表演, 而後賺取一餐被割切好的肉食。

在大都市中, 長久以來, 我們的生活時空都被一種無形的虚華所羈絆牽纏; 每天從飲食到娛樂,由物質到精神, 都被迷人心眼的商業包裝落格定型。每個人都在這金光網路中, 彼此支配, 相互奴役, 生活就是拼命的工作,盡量的賺錢,努力的消費.因此,我們的空間越來越小,時間越來越緊,壓力越來越大。終於,我們都在外表很豐富的物質形式中, 卻過著只是用錢用力, 卻無法用心的生活,苦悶而又無奈地做一個心靈上的窮人。


2010年初六十一歲那年, 我毅然提早退休, 别無他意, 只想脱離那樣的網路,讓生活的時空裏,有更多的留白, 可以使自己的心靈更接近清風明月。

我不需要為生活而奔波勞碌,不用整天看時間過日子, 退休使我活得更呈意義,做慈善,看書寫心得,没有時空掛礙, 抛開名韁利鎖, 做一些非金錢消費,而世人認為的傻事。

退休十三年回眸來時路感慨頗多, 人常常覺得生命裏有那麼多遺憾,大概是因為不懂也不想放棄, 忙著佔有,佔有再佔有, 一路抓, 一路丢, 一路丢,再一路抓, 結果是一無所得, 連原來拿在手上的, 也没有仔細看清楚。


修行中的得道高僧過午不吃, 我不能像他們那樣刻苦自律, 但是其清淨心態使我在這繁華的人間常常提醒自己 "放下,放下."


一個苦者参見老和尚,請示: "弟子放不下一些事一些人, 苦惱萬分" 和尚慈悲道: "没有什麼是放不下的。" 苦者懇切回話:"弟子愚昧,請師父指點。" 

和尚讓他拿着一個茶杯, 然後往裡面倒熱水, 一直倒到水溢出來。苦者被燙到, 馬上鬆開了手。和尚慈悲教導: “痛了,你自然就會放下。”


感悟:我們真的要痛到忍無可忍的時候,才願意放下嗎?


抓猴人有一套特别的方法。他們首先準備一個椰子, 椰子開個孔把水倒出來, 孔的大小剛 好能讓猴子把手伸進去。椰子里放着美味的香蕉, 然後把椰子放在猴群常出現的地方。果然猴子聞香而至,一旦猴子伸手去抓香蕉, 它就必須握起拳頭 ,但是握起的拳頭却没法從孔中挣脱出來。現在,猴子有两個選擇, 要麼放下香蕉, 伸出手來逃逸脱身; 要麼一直握着香蕉,困在那里做甕中鱉。 猜猜實際的情况會怎样? 猴子會一直握着香蕉站在那里束手就縛。因為猴子認為香蕉是屬於我的.有時候, 人亦如猴.我們緊緊抓住自己的想要的東西,而不能自主。其實, 多少人能夠脱繭而出,在名韁利鎖的俗世中, 洗盡鉛華見真心。

人生的意義不在佔有, 而在珍惜。緣去莫傷懷; 緣來 ,且盡令日之歡。

感悟: 喜愛一個人或一件物, 要適時懂得放手。緊握雙拳, 裡面是空的, 放開手, 你便可以擁抱世界.

"我是一片雲,天空是我家

 身隨白雲飛,來去無牽掛!”


爭奪是本能,與生俱來,

放下是本領,人生智慧。


放手是我們窮其一生都要學習的課題,您認為呢?


李请祥合十

06-09-2022

5/13/21

Đái Thạch Bổ Thiên

Dạo:
Vênh vang đội đá vá trời,
Nào hay sức mọn đá rơi nát đầu.
Cóc cuối tuần:

戴 石 補 天

長 空 一 破 禍 聯 翩
戴 石 狂 蛙 欲 補 天.
志 大 可 憐 才 力 淺,
石 沉 勁 竭 便 歸 仙.

陳 文 良

Âm Hán Việt:


Đái Thạch Bổ Thiên

Trường không nhất phá, họa liên phiên,
Đái thạch, cuồng oa dục bổ thiên.
Chí đại, khả liên tài lực thiển,
Thạch trầm, kính kiệt, tiện quy tiên.

Trần Văn Lương

Dịch nghĩa:

Đội Đá Vá Trời (*)

Trời xanh vừa mới vỡ, tai họa kế tiếp nhau,
Đội đá, con ếch ngông muốn vá trời.
Chí thì lớn, (nhưng) đáng thương tài sức kém,
Đá nặng, sức kiệt, lập tức bỏ mình.

Ghi chú:

(*) Theo thần thoại Trung Hoa, thì câu chuyện vá trời (Luyện Thạch Bổ Thiên 煉石補天) đại khái như sau:

Nơi thượng giới, một ngày kia thủy thần Cung Công (共工) làm phản đem quân gây loạn. Hỏa thần Chúc Dung (祝融) bèn đưa quân ra đánh dẹp, cuối cùng đã thắng. Cung Công bị thua, tức giận va đầu vào núi Bất Chu (不周) ở phía Tây. Núi này là một trong mấy cây trụ chống trời nay bị Cung Công đụng gãy, làm một góc trời bị vỡ. Do đó, nước của dòng Thiên Hà theo chỗ vỡ đó chảy xuống trần, gây nên bao thảm họa.

Trước cảnh tai ương nước lửa, bà Nữ Oa (女媧) không nỡ nhìn dân chúng khổ, bèn quyết chí vá lại trời. Bà bay đi khắp nơi, tìm đá ngũ sắc để làm vật liệu và cuối cùng đã vá lại được bầu trời. Nhưng núi Bất Chu đã bị đổ, bầu trời thiếu chân chống nên Nữ Oa lại lấy chân của con rùa lớn (ngao 鰲) để thế vào.

Từ đó nước của Thiên Hà không còn chảy xuống trần để gây họa cho dân nữa.

Phỏng dịch thơ:

Đội Đá Vá Trời


Chín tầng chợt vỡ, khổ nơi nơi,
Đội đá, ếch toan chuyện vá trời.
Mộng lớn, nhưng tài hèn đức mọn,
Đá chèn, sức mỏn, xác thân phơi.

Trần Văn Lương
Cali, 5/2021



Lời than của Phi Dã Thiền Sư:


Thương thay con ếch muốn làm bà Nữ Oa đội đá vá trời!

Mộng thì lớn, nhưng than ôi, tài hèn đức bạc nên cuối cùng đành phải mất mạng dưới tảng

đá mình đội!

Chữ danh cùng tham vọng làm hại con người đến thế ư?

Biết sáng suốt để tự lượng sức mình quả thật khó thay, hỡi ơi!

******



Dạo:

Phải đâu đáy giếng nghếch trời,

Chẳng qua mệnh số xô rơi xuống trần!

Vịnh Cậu Ông Trời

Gặp thời điên đảo khắp muôn nơi,

Dẫu trót mang danh Cậu của Trời,

Lạc giọng giữa cuồng phong bão loạn,

Uềnh oang, ồm ộp, ruột gan phơi.

AiCơ HoàngThịnh
Melb, 5/2021

4/30/21

Cố Quận Hà Phương

Kính gửi quý anh chị con cóc cuối tuần ngày Quốc Hận.

Dạo:
Bên đường xương đã trổ hoa,
Lênh đênh bước lẻ, quê nhà chốn nao.

Cóc cuối tuần:

故 郡 何 方


日 沉 霡 霂 浥 寒 沙,
踽 踽 亡 魂 覓 舊 家.
暴 海 褊 舟 皤 浪 哭,
深 林 孤 影 毒 蟲 歌.
巍 峨 廟 殿 神 仙 少,
炫 耀 市 城 鬼 怪 多.
四 十 六 年 嗟 故 里!
路 旁 朽 骨 已 開 花.
陳 文 良

4/11/21

諾言 - Nặc ngôn

 

人生百態,生活在這光怪陸離的社會裡,我常被一些事物觸及心靈底處.看到的,遇着的,憶起的,那些人事物就像秋天裡的菅芒花絮,隨風飄起,有的飄到天盡頭,隱没了;有的吹到我心中,萌芽了.於是我便把一些捕捉到的感想與體悟記下來,以充知見.例如:看到了舉世震驚的新冠疫情,寫下了"生與死";遇着了愚昧不醒的可憐愍者,寫下了"包容";憶起了魂牽夢縈的故國家園,撰述了"往事知多少?".....

寫作的時候,我的心境是很虔誠的,我期待兩件事:一是希望大家讀了我的作品,能有一些歡喜,即使只是一絲絲也好.二是希望大家能得到清淨與柔軟,能有更好,更澄明的心來面對五濁世界與剛强衆生.

"文章千古事,得失寸心知",文章的價值在於它是否對蒼生有益,讓自己釋懷,其他的都是猶其餘事.因此,對於寫作,我一直都樂此不疲,也常在寫作的過程中,蒙古聖先賢教誨,一言棒喝,感覺好像在黑夜中把燈開亮,好像在迷茫時聽到遠方傳來的暮鼓晨鐘,好像埋首案前突然抬頭看見青山.

多少年過去了,在我沮喪的時候,我會逃遁到寫作裡去;當我歡樂的時候,我會表現到寫作裡去;當我寂寞的時候,我用寫作填補空虚;當我充實的時候,我又迫不及待要拾起筆來,寫出我的感覺.我認為,如果大家讀了我的作品,得到利益與啓發,那都是佛菩薩與聖賢人的功德,以及人的自性本具的光明,我的文句只是一個工具而已.

我時常感恩,在耄耋之年,還能有不紊的思惟;於板蕩之世仍有天涯咫尺的知交,一直不厭其煩地聽我訴説衷腸.

最近看到一齣短劇_"暖",讓我憶起1997年的一段有關承諾的往事,感觸良多,於是寫下這篇"諾言",希望把一些道理展現於人生,也期望及勉勵自己在做人處世的日常生活中提升一些,超越一些,圓滿一些,在修行路上繼續邁進.

清祥合十


 諾言


一九九七年香港回歸前,民衆普遍對新政權有所恐慌不安,因此當地掀起了一個大移民潮.移居外國有兩個管道,投資及婚姻,其中男娶女嫁是最熱門的捷徑.

當時久居在香港的表兄特地來美與表姊洽商移民大計,方法是讓表兄的兒子與表姊的女兒在美國辦理一個有名無實的聯婚,表姊當下就點頭頷之.正當一切都準備就緒的時候,表姊突然反悔,這件事便告胎死腹中.

表兄這個踉蹌摔得不輕,一氣之下,與表姊割蓆斷交.多少年過去了,彼此仍是漢界楚河,不相往來,手足之情,看來難以合浦珠還.

以此事來看,承諾給人的依賴與期盼;背信給人的沮喪和苦惱,不可謂不大.

最近看到一齣短劇 "",是改編自莫言的短篇小説"白狗秋千架".把承諾的問題與意義,説得淋漓盡致.

在一個純樸的中國鄉村裡,暖和井河都是半大不小的孩子,暖是方圓百里有名的美人兒,井河喜歡暖,喜歡了很多年.

那年村裡來了一個省城的戲團,英俊不凢的小武生吸引了暖,兩人很快便墮入愛河.不久小武生要隨團巡迴演出,離村前承諾一定回來接暖去省城.春去秋來,一晃又三年,小武生没有消息.

井河終於對暖説:"妳别等他了,他早已把妳給忘了."他再告訴她,他喜歡她,他會對她好,他不會説話不算數.暖也對井河説:"如果小武生再不來接我,我就嫁給你."

一年後,井河考上了大學,多少年的壯志終於有了交代,他迫不及待地告訴暖,離開村子去上大學的那天,他對暖説:"一定要等他回來,他會時常寫信給她."一開始書信不絕,漸漸的減少再減少,最後音訊全無.

暖在兩度感情重創之下,生了一場大病,卧病時隔鄰一個啞巴青年對她悉心照顧,無微不至,病癒後,暖感其真情,又好像明白什麼了,没多久她便許配給啞巴青年.

十年歲月匆匆而過,當井河踏上來時路,在故鄉一個木橋上遇見了暖,當年的窈窕淑女變成了眼前的滄桑女人.井河愣住了,霎時間辛酸苦辣,齊上心頭,悲痛之情,莫以名狀.

暖看見井河,只是略而點頭一笑,默然不語,像是擦身而過的陌路人,繼續踽踽踱步.望著那瘦瘠的身影一瘸一拐地走遠,井河站在夕陽斜照的木橋上,頓時悲從中來,不禁掩面痛哭.

"初聞不明曲中意,再聞已是曲中人."

那些猶在耳邊的諾言,那些不忍直視的過去,那些不能忘却的舊夢,烙成了暖心中無盡的積鬱,故人的所有沈默,無言和屈受,像是一根根在背芒刺,穿透井河的心脾.

當初所有的承諾是今天無盡的懺悔.

“暖”這齣戲劇是講述一個關於承諾,等待,背信和無奈的故事.

小武生和井河屬於同一類人,他們都給了暖關乎一生的承諾,"我一定會回來接妳,""我一定會給妳幸福.”..... 這樣的承諾會給人無盡的幻想期盼,但隨着時間的流逝,説過的話逐漸從記憶中褪色,承諾兑現的希望愈發渺茫,最後那些盼着的念着的朝朝夕夕;那些愛慕的纏綿的字字句句,終究像落葉浮萍般付諸流水.

小武生的一去不返,井河的迷失在繁華都市的霓虹燈下,都説明了人心易變.我們不批判承諾的人,就像我們在年輕時候的愛情一樣,都迫不及待的用各種方式來表達着熾熱和真心,承諾就是其中最輕易,最有表現力的一種.

就如我表姊的故事一樣,她對表兄作出承諾的時候,都是有着無比的真心實意,她當時只是想着怎樣幫助表兄一家人移民來美定居,但没有思考到法理和其他方面可能發生的問題.

故而,不管是戲劇裡小武生,井河或者是現實中我的表姊,當他們在感情或人情上做出那番承諾時都是真心的,只是他們還没有明白承諾的意義和分量,於他們而言是掏心掏肺的表白,以致最後承諾變成了枷鎖,成了罪孽.

從歷史的推演和人生的經歷來看,真正讓人們錯過的是時間和空間.口頭上的承諾並没有法律的管制和道義的約束,時過境遷,有了自己的生活圈,心情沈澱下來,想法變了,價值觀變了,承諾的人於是沈默,於是背信;信諾的人也沈點了,憋住了,大家都不想再提當年的諾言,也都明白以前做的很多事都是荒唐幼稚,既傷害了别人也貶低了自己.

人生很多事情本來就没有絕對的對與錯,法律也不能裁判口頭上承諾的人.因為太年輕太率直而輕諾的人,隨着歲月的流逝,當我們没有了"年輕"這樣的借口之後,還是不要輕易説:"我一定會"這四個字,没有兑現的承諾有時會給人帶來一生的傷害和自己永遠無法彌補的遺憾.

我想世上最好的承諾就像戲劇中的啞巴青年,不用言詞話語,當你需要的時候,他會伸出援手;當你痛苦的時候,他會陪伴左右,没有心機忖度,没有利害得失,只有默默地去做,真心的付出.

佛家曰:"身口意"有十種造業作為,其中身與意各有三,只有口造四種罪業.

就像我們臉上的五官,以鼻為中線,分為左眼一半,右眼一半;左耳一半,右耳一半,兩個一半彼此協調,互相合作,就不會獨一自大,而我們的嘴巴却只有一個,没有另外一半的相助相輔,因此時常信口開河,最容易造業.

靜思語有句:"話多不如話少,話少不如話好",話好不是美麗的詞藻,而是謹慎其言.

孔子曰:"人無信而不立."與朋友交往,説話要誠實,格守信用,一個人的誠實守信,重在實踐.

黄花崗七十二烈士為了實踐愛國家,爱民族的誓言,離妻别子,慷慨就義,獻出他們的頭顱和熱血;德蕾莎修女為了實踐愛窮苦人的信諾,毅然離開了執教十七年的貴族女校,把尊貴的地位和舒適的生活留給别人,來到印度位於加爾各答(Calcutta)為最窮的窮人服務 (Poorest of the poor).

一個人要做到像君子般一諾千金,言出必行真的不是那麼容易達到,但是一個人願意培養尊重,體諒,凢事多替别人想想,相信不是很困難的,最起碼,也不要像小人那樣輕言信諾,出爾反爾.

古人云:"三緘其口",開口説話固然要三緘,給人許諾的時候更要三緘三緘再三緘.

不輕承諾故我不負人,不輕信諾言故人不負我,共勉之!

清祥於費蒙特客寓

05-08-2021


4/5/21

Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân

Trở về Mục Lục


ý kiến phản hồi;
"Con người" rất phúc tạp. “Dò sông dò biển dễ dò. Mấy ai lấy thước mà đo lòng người”.
Tâm tư con người thiên biến vạn hóa.
1)- Tư Mã Tương Như con người nhiều cảm tính. Nguyên có tên là Khuyển Tử (犬子), vì ngưỡng mộ LanTương Như mà đổi tên thành Tương Như. "Cầm Khiêu Văn Quân" có thể là do bản tính lãng tử, hào hoa. Cũng có thể có dụng ý bất chính. Vì ái mộ một người mà đổi tên, vì cảm thương quả phụ Văn Quân , tuổi trẻ tài hoa chịu cảnh góa bụa mà gẩy khúc "Phượng cầu hoàng".
2)- Trác Văn Quân nghe tiếng TMTN từ lâu. Bị khích động bởi tiếng đàn mà buông lòng theo tiếng gọi của con tim. Bất chấp mọi giá. Như ý kiến Hàn Sĩ TMTN và TVQ chẳng ai có lỗi trong tình yêu.
3)- Một nhận xét chí lý: Tình yêu như ngọn lửa rơm, tình nghĩa mới trường tồn.
4)- Kết thúc câu chuyện tình có hậu do "tài nữ Trác Văn Quân dĩ văn phục văn (以文服文)". Dù bồng bột nông nổi nhưng TVQ cũng một lòng một dạ với người mình yêu. Kịp khi thấy người bạn đời thay đổi nàng nhất quyết đoạt tuyệt "đáng phục". TMTN cũng là người biết phục thiện, "lãng tử hồi đầu" cũng xử sự công bằng để không mang tiếng là kẻ bạc tình.

Nghe nhạc:

Tà Áo Văn Quân - Sáng tác: Phạm Duy Nhượng. Tiếng hát: Quỳnh Dao.


3/21/21

單純的快樂

   


三十年前我皈依三寶,受五戒 (不殺,不盜,不淫,不妄,不酒),希望自己能走上清淨覺悟的修行路.

十五年前, 因為涉法未深,故而隨波逐流的做了一些細想下仍未合乎道理的事情.

及後, 多聽法, 多讀聖賢書, 漸漸懂得一點做人的道理,也藉此糾正一些似是而非的觀念以及不合情理的行為.

犯了過失, 認錯容易啟齒難,因為公開過失使自己蒙羞.

古人云: "惡忌陰,善忌陽".

朱子家訓更云: "惡恐人知乃為大惡".

自己的缺點, 自己的弊病, 不要怕人知道, 越多人知道越好.别人批評責罵一句, 業障就消了. 但如果隱藏起來,就會因循苟且, 一旦遇惡緣,惡因便會起現行.

有基於此, 十五年前一段本欲深藏内心的憾事,將之發露懺悔,祈各位善知識及有緣人作為鑒證及指導.

"讀聖賢書, 所學何事".

修行就是每天都在反省, 慚愧 ,懺悔. 一個人在走向完美,理想的道路上, 必然遇上生命許多困境, 凢夫的禀性,迷覺兩面,迷時造業,覺時悔改, 人在其中徬徨,挣扎, 奮鬥, 追求才使生命的意義閃閃生光.

紅塵的修行就是迷情的修行.

了凡四訓曰: "過去種種譬如昨日死, 現在種種譬如今日生."

每一次從困境中走出來, 就是紅塵中的菩提!


單純的快樂

2006年夏,     我開始入禀申請美國聯邦政府的房屋租賃輔助 (Section 8 Program). 方案最基本的要求準則是限制個人在銀行户口的資金.為了能夠符合方案的條件, 我時常挪動銀行户口的現金,東收西藏.

在盜帥走紅的年代,把錢放在家中, 就擔心宵小會登堂入室, 再來個翻箱倒篋, 大肆搜刮,將我的積蓄殺個片甲不留.

在撲朔迷離的社會中, 將錢寄存於親人或朋友, 卻顧慮到人性錯綜複雜,世情巧合多變,一旦陰差陽錯,錢財失去事小, 情誼虧損則大矣,屆時情財兩空,徒增煩惱.

多年以來, 我為這樁事情計算度量, 費煞心思, 時常把自己弄得灰頭土面, 草木皆兵.

後來在聽法和書本中接觸到一些做人的道理, 恍然棒喝 .體會到一飲一啄, 莫非前定.一個人一生的福祿, 資源是有其定量的, 不如法如理的謀求, 非但不能多加毫釐,反而徒增罪業. 所以, 六年前,在没有任何挣扎和痛苦的狀況下, 我自動放棄了等待多年的房屋租賃輔助資格面談.雖然往後每個月我需要多繳近千美元的租金, 可是我心甘情願,我覺得我已經勝過了從前, 我不再是一個表裡不一的人了.

人能單純,表裡如一真的是滿好,滿快樂的一件事,人往往是自己把自己弄複雜了,而忽略自己以外的别人,以及自己和别人,和社會的關係.

十八歲那年, 中了秀才, 負笈遠地念大學. 我和兩位同學租了一間簡陋的小房間共賦同住, 寒窗苦讀. 那年越戰正酣, 民生窘厄. 幾乎每個異地學生都要省吃儉用. 我們三人常到平民飯堂吃飯, 每人五文錢一餐(當年五文錢是很少很少的), 粗吃淡啜, 一碗米飯, 少許荳芽, 幾片薄肉, 一夥兒吃得津津有味, 樂在其中. 當年生活雖不盡善盡美,  但常在粗茶淡飯,簡單純樸的日子裡自得其樂.

那個年代的學生知書識禮, 在清貧的日子中相濡以沫. 處於現今人心不古, 勾心鬥角的社會裡, 那些單純清淡, 分甘共樂的日子, 格外令人懷念.

1975年越南淪陷, 共軍大舉進駐都城, 全面封鎖財政經濟,民生百業凋零. 當時我的結婚儀式一切從簡. 没有大事張羅, 没有懸燈結綵, 連我在迎娶時所穿的西裝, 也是同學把唯一的西裝借給我的.那時大家所擁有的都很少, 可是那種彼此相助的友誼, 卻超過一切.雖然大家都很窮, 可是口袋裡如果有十塊錢, 有人需要的話, 恨不得把十塊都給對方.

1978年秋, 因為受不了共黨的鬥爭, 我大海逃亡, 船隻不幸意外翻沉, 部份獲救的人被送到臨時集中營, 隨後再被安排登上一艘破舊的大貨輪. 因為臨時調動, 我没有準備乾糧零食, 故而第二天便缺糧挨餓, 好幾天都饑腸轆轆. 幸而船上一些有緣人分給少許因久存而變硬的乾麵包, 咬得嘎嘎響. 當時覺得滿香,滿好吃, 吃得很歡喜.

我時常記得在家鄉受書時, 在故國淪陷裏, 在大海逃亡中所走過的日子, 是那麼的艱苦,但我並不感覺到有什麼遺憾. 坎坷多舛的人生使我更感恩知足.故而到現在我也不敢奢侈.雖然在美國我已有足夠的條件去享受, 但一直以來習慣了單純節儉的生活,我已無法為了個人的貪愛而去追求物質享受. 安貧樂道也不等於窮.

1979年夏定居北加州, 四十多年前這處民風淳樸, 在人地生疏, 言語不通的社會裡, 時常見到一些温情的相助. 大家雖然素昧平生, 但彼此關懷之心 ,見義勇為之舉, 常令人胸中熱流滾滾, 蕩氣迴腸.

公車上, 謙讓的年青人都會自動禮貌起立讓座給耆老長者.

公路上, 熱心腸的車主都會毫不猶豫地給素昧平生的過路人搭個順風車.

銀行帳户上, 不用擔心自己的資料會被别人覬覦盜用.

以上的日子,  點滴在心頭.

可是現在完全不一樣了, 以前很多房子是没有圍牆的, 漸漸的, 有用竹籬笆圍起來, 後來是豎起木板, 砌成磚牆, 再後來木板磚牆越砌越高. 人與人之間的關係, 好像也隨著這些藩籬圍牆, 距離越來越遠, 隔閡越來越深, 感情越來越冷, 人越来越不快樂了.

已是耄耋之年, 後頭的日子對我而言, 我有責任要説, 人要活得快樂, 活得有意義. 並不是要做什麼大事, 而是讓自己的生命有内容. 什麼是内容? 放下計較, 生活從容一些, 思想單純一些, 追求減少一些, 就是一個好内容.

記得有一首流行歌中的一句: "留一點自己給自己."

然而, 是不是也願意: "留一點自己給别人" 或 "留一點别人給别人"呢?

家鄉古早有一首偈: "一枝草, 一點露; 一個人, 一片天".我願為草而有露, 也願草草皆有露; 我願為人而有天, 也願人人頭頂一片青天.

留一點單純給自己 ,留一些快樂給别人, 何妨?

清祥感恩合十

04-20-2021

3/13/21

Tam Nhân Đối Ẩm

Lá Thư Thụ Nhân

*
Tam Nhân Đối Ẩm

Anh Nguyễn Thanh Nhàn mến,

Nhận được thư anh là tôi trả lời liền. Trước hết, tôi cám ơn anh về một món nợ cũ : anh đã đến thăm anh Nguyễn Tường Cẩm lúc còn tỉnh. Trước khi đi, anh hỏi trên diễn đàn có ai muốn nhắn nhủ gì không ? Tôi nhờ anh hỏi Cẩm còn nhớ hay đã quên tôi. Anh cho biết là Cẩm gật đầu. Lúc sinh tiền, năm nào Cẩm cũng gửi cho tôi tấm thiệp xuân chụp cả đại gia đình, mỗi năm con cháu thêm đông.

Trong điện thư gửi trên Diễn Đàn bữa qua, anh nhắc lại hồi còn đi học, anh thấy tôi bên kia đường. Tôi chỉ là một học trò bình thường. Giá có phép thần thông, biết được tấm lòng của anh, tôi đã chạy sang để nói chuyện rồi.

Anh quê ở Mỏ Cầy, quê hương của mấy câu ca dao :

Bến Tre giàu mía Mỏ Cầy
Giàu nghêu Thanh Phú, giàu xoài Cái Mơn
Bình Đại biển cá sông tôm
Ba Tri ruộng muối, Giồng Trôm lúa vàng.

Nói như vậy để thấy anh là người chân thật. Anh lại có trí nhớ tuyệt vời. Anh kể giai thoại bầu cử Tổng Hội Sinh Viên giữa anh Hồ Văn Nhựt và tôi.

Cũng trong trí nhớ mênh mông của anh mới có câu chuyện tình cảm giữa anh và ‘‘một em gái học Văn khoa’’. Em Văn khoa hỏi anh xuất xứ bài thơ ‘‘Nguyệt Hạ Độc Chước’’ của Lý Bạch lúc anh chị ‘‘còn nằm trên giường’’.

Tôi có giỏi giang gì đâu. Chẳng qua tôi là người ngoài cuộc nên có ý kiến khách quan. Chỉ có vậy thôi. Anh hỏi thì tôi xin góp ý :

‘‘Trên giường’’ là không gian tình tứ, thơ mộng. Cô gái văn khoa chọn không gian này nói chuyện thơ chỉ là ‘‘tức cảnh sinh tình’’ mà thôi. Anh học CTKD. Cô nàng Văn khoa. Anh không trả lời được không có gì là đáng trách. Trong môn ‘‘Tu từ Văn thể’’, giáo sư có nói gì về Lý Bạch đâu. Chỉ vì không trả lời được mà anh tự cho mình là ‘‘một thứ lường gạt’’ là không đúng. Tôi thiết nghĩ người con gái Văn khoa yêu anh ở chỗ anh rất mực thành thực:

Tu thân rồi mới tề gia
Lòng ngay nói thật gian tà mặc ai.

Nhận được thư anh, tôi bỏ cả bữa ăn tối, trả lời tức thì.

Nhân đọc lại bài thơ Lý Bạch, tôi chuyển thể lục bát, viết tặng riêng người bạn chân thật mà tôi quý mến : anh Nguyễn Thanh Nhàn.


























Chuyển thể lục bát :

Ngắm trăng bình rượu còn đầy
Vườn hoa thơm ngát mê say một mình
Hằng Nga cùng bóng với hình
Tam nhân nhấm nháp một bình rượu cay

Chị Hằng ở tận cung mây
Bóng không biết uống, ta say một mình
Cùng trăng ta kết nghĩa tình
Niềm vui xuân mới có mình có ta

Nghe ta hát khúc xuân ca
Hằng Nga không muốn lìa xa cõi trần
Ta say múa với cung đờn
Nhịp nhàng nhảy múa bóng vờn cung mây

Khi say bè bạn ngất ngây
Còn khi tỉnh giấc đông tây giao hòa
Tình thân mãi mãi chẳng nhòa
Thề non hẹn biển Thiên Hà gặp nhau.

dịch thơ (11/03/2021)

1/21/21

Lời Hứa Không Tròn

Kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần.

Dạo:

Trách em sao vội về trời,
Trách anh sao mãi còn nơi dương trần.

I. Cóc cuối tuần Phú Lang Sa:

La Promesse Rompue

(Cho những ai đang buồn đau vì lẻ bạn)

Que c'est loin le jour où nous deux,
Les yeux imprégnés de tendresse,
Et le cœur inondé d'ivresse,
Nous avons échangé nos vœux.

Nous nous sommes alors promis
Que, durant ce séjour sur terre,
Quoi qu'il nous advienne, ma chère,
Nous ne serions point désunis.

Mais parvient soudain ton trépas,
La vie dès lors n'est qu'un orage.
Hélas, je manque le courage
De suivre d'emblée dans tes pas.

Est-ce par toi, brisant le vœu,
Ou par moi, rompant la promesse,
Que nous devons vivre en détresse,
Toi dans les cieux, moi dans ce lieu?

Chérie, je ne sais pas pourquoi
Dieu t'a déplacée de ce monde,
Laissant cette âme vagabonde
Traînasser ici-bas sans toi.

Trần Văn Lương
Cali, 1/2021

1/19/21

Trương Vọng Trên Thiên Đường - 天堂的張望

昨天上網無意中看到一句話 "我來過, 我很乖..."内心猛然咯噔了一下.打開視頻, 原來是一部根據真實故事改編的電影:"天堂的張望".

一口氣把兩小時的電影看完,不覺已熱淚盈眶, 内心無比激動澎湃,故事裡的人和事, 一直在我腦海中縈紆盤恒,起伏不已.

張望是一個從一出生就被遺棄的孩子,好心的山民張國華從大山裡發現後抱回家撫養.父女兩人相依為生,日子雖然困苦,但父女俩安貧知足,所以生活的很幸福.

都說窮人家的孩子早當家,當别的小孩還在父母懷裏撒嬌的年齡,四,五歲的小張望就開始幫着做家務,燒菜做飯.不僅在生活上能幫着父親,在學習上也品學兼優,一直名列前茅,是學校的模範生.

每天從學校走回家,隔鄰的小孩子,都取笑張望是撿來的野孩子没有媽.但張望從來不生氣,還是笑咪咪,跳蹦蹦的走回家.委屈心裡擱,從不訴説令父親不開心的事情.

一個假日的早上,張望與父親在路上擺賣蘋果,手上的秤杆没拿住,一棍子砸在客人臉上,對方以為她故意,摑了一巴掌,把她打倒在地,鼻血直流.但小張望還在安慰父親,是我不小心打到阿姨的,肯定是被打得太疼,才會對自己動手,將來要是能夠再見到阿姨,一定向她道歉.是那一生修來的氣度,懂事到令人心痛.

所謂"君子能為善,而不能必得其福;不忍為非,而未能必免於禍."乖巧懂事的小張望也不能逃出生命的厄運. 2004年的秋天,小張望被診斷出急性白血病,龐大的醫療費像一座大山壓向父親張國華.而小張望清楚自己的家庭情况,毅然决定自願放棄治療.

回家後的當天晚上,她對爸爸説:"我喜歡秋天,我是在秋天被撿來的,如果我在秋天走了,你就把我埋在你每天砍柴的山坡上,這樣我每天就能看到你了......“這麼懂事的孩子,這麼純真的話句,聽了令人心酸.

醫院的護士小夏和她做記者的表姐小月知曉小張望的事情後,決定將之刊登於報上.事件經媒體曝光後,馬上引起社會各界關注,全國各地紛紛捐款幫助,很快便籌集七十萬醫藥費.

感受到社會愛的力量和關心,使張望變得無比堅强,她用常人難以想象的痛苦接受着椎心的治療,九次與死神擦肩而過.

但是她却因為没等到合適的骨髓移植,終於2005年8月22日病逝於成都市立醫院,年僅八歲.

彌留之際,張望對醫生説:"我死後,把我治病剩餘的錢捐給患病的窮人,把我的眼角膜捐給那位需要的小朋友..."小張望走了,却留給無數人對她的感嘆和思念.

幸福的家庭都是相似的,不幸的家庭却各有不同.人間疾苦很多,當病痛和貧窮重重落在一個年僅七歲小女孩身上,内心的絞痛令人窒息得喘不過氣來.

電影根據真實故事改編,讓這位十幾年前不幸去世的小女孩,再一次,以感人的方式出現在大衆面前,或許很多人没有聽説過她的事迹,或許很多人早已在歲月流逝中遺忘,但是在張望的影响下,社會的關懷與愛心正逐漸改變貧窮病患者一生的命運.一個人的力量微弱無光,如果將這份善意凝成火炬,經過全世界好心人的傳遞,希望能夠打開世人冷漠的心扉給需要幫助的人送去温暖與愛心.

張望從小就被父母抛棄,繼而生活困窘,後受病魔折磨,她從没有被命運善待過,短短的生命裡就過了許多關卡,在熬過人生釀的苦與難之後,依然保持對世界和他人的善意.她的豁達胸襟與不計較氣度着實令人感動.她没有接觸過佛法,却把修行中的四攝六度發揮得淋漓盡致.

其實人一生喜樂之事的底色皆是悲凉.生老病死,怨憎會,愛别離,求不得,五藴熾盛...當苦難像海浪般一波波襲來,我們能做些什麼呢?無非是看着受着熬着過着,釐清做人的本份,保持最大的善意.

遇見過欺騙,依然選擇相信;承受過傷害,依然能夠寬容;經歷了背叛,依然相信真心;看透人性的虚假,依然憧憬世界的美好.人在一次次經歷後變得通透淡然,生活本有千鈞之力,我自以笑以歌化解,當我們能從容的揮落身上的塵土,當我們能平静地等待自己的終結,那些酸澀苦辣交雜的人生經歷,都會化作一聲説不出的嘆息,揉成一曲哀而不傷,苦而不痛的驪歌.

墳前照片上的張望,笑容天真燦爛,正如墓碑上的誌銘"我來過,我很乖..."她的生命像天上的流星一樣,刷地一閃即逝,雖然短暫,却盡情發光發亮,令人讚嘆.小姑娘,請安息,天堂有您更美麗.

這兩天我重複地看了幾遍,看一次,哭一次,越看越感動.如果您也喜歡這部電影,請轉發給家人,同事,朋友,讓"小張望"純真脱俗的精神與温馨感人的故事一直傳承下去,遍地開花.

清祥感恩合十
01-18-2922