Một bài thơ trường thiên tả lại mối tình đầu của tác giả thời niên thiếu, trọ học ở Cần Thơ.
8/1/23
THẮM THOÁT NĂM MƯƠI NĂM
Bóng câu, cửa sổ, thoáng như mơ
Năm mươi năm cũ tình đeo đẳng
Còn ngỡ hôm nào, khi tuổi thơ....
............................. ...........................
Năm mươi năm cũ tình chưa cũ
Còn nhớ không em tự thuở nào
Hai đứa tung tăng cùng đến lớp
Tan trường chung lối vẫn bên nhau.
Em như Ngọc Nữ ngây thơ quá
Đuổi bướm vờn hoa dại bên rào
Anh thì ngờ nghệch nhìn ngơ ngác
Chỉ cười khi thấy bướm bay cao.
Phụng phịu dỗi hờn như trách móc
Suốt buổi lặng thinh chẳng nói gì
Anh ghẹo em cười ba bốn bận
Khi nhìn " Hồ điệp mãn viên phi "....(1)
............................. ........................
Lần lữa, thời gian êm ả trôi
Em tròn mười sáu, anh thế thôi,
Sáng chiều hai buổi Phan Thanh Giản
Bốn lượt đi về vẫn có đôi.
Xe đạp song song giữa nắng chiều
Thướt tha trong gió nhẹ hiu hiu
Phất phơ áo trắng bay theo gió
Xao xuyến lòng anh tuổi chớm yêu !
Ngây thơ nào biết đến tình ai
Em vẫn vô tư rạng nét ngài
Nhìn anh vẫn mỉm cười trong nắng
Để mặc gió lùa tóc rối bay...
Mười sáu em như nụ mai xanh
Trong trắng trinh nguyên giấc mộng lành
Đâu biết lòng anh đang rạo rực
Mỗi chiều trong nắng gió mong manh.
Từ đó anh thường hay ngẩn ngơ
" Thi nhân Tiền Chiến " lẫn trong mơ
Anh ngồi chép mãi thơ người khác
Đâu biết chuyện mình cũng nên thơ.
Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trong Lư....
Đọc cả Đường thi lẫn Tống từ....
Chép mãi trăm lần " Tình thứ nhất ,
Đem cho em kèm với một lá thư... "(2)
Một buổi chiều kia anh đánh bạo
Kẹp thư trong sách tỏ tình... thân
Thẹn thùa ba, bốn, năm ngày tiếp
Em chẳng nhìn anh lấy một lần !...
Im lặng, khiến lòng anh thấp thỏm
Hỏi thì...Em lại bẳng như không :
" Thấy ghét ! ". Em làm anh bối rối,
Nhưng " ghét " là... yêu đó, phải không ?
.............................. ............................
Rồi những chiều xuân ta có nhau
" Thầy Cầu " vườn biếc, lá lao xao
" Ninh Kiều " gió lộng, bao lưu luyến
" Nhẹ bước " Đàn Tiên ", những buổi nào !(3)
Anh với em như Điệp với Lan
" Thanh mai trúc mã " đẹp muôn vàn
Võ vẽ thơ Đường anh đọc thấy
Chuyện mình sao giống khúc " Trường Can "...(4)
Em bảo, em yêu thơ Thái Can
Thương người thiếu nữ khóc hoa lan
Ghét anh Hồ Dzếnh " Tình... dang dở "
Chê chàng Nguyễn Bính "... bước sang ngang "(5)
Em muốn duyên ta kết Tấn Tần
Muôn đời vạn kiếp mãi không phân
Xinh như Ngọc Nữ Tiên Đồng ấy
Sớm dạo vườn đào, tối sông Ngân...
Tiếc thay anh chẳng phải Tiên Đồng
Mơ mộng em anh khéo viển vông !
Mười sáu yêu nhau chừng quá sớm
Nên ngòi ly biệt đã khơi dòng...
Ấy thế, tình ta sớm nhạt màu
Người đời miệng tiếng lắm xôn xao
" Hộ đối môn đăng " muôn kiếp vẫn
Là rào ngăn cách kẻ yêu nhau !
Em là gái " Khuê môn bất xuất " !
Phận anh nghèo " Bạch diện thư sinh "
Thói đời đen bạc cho nên nỗi
Dang dở vì đâu một chữ tình ?!
Mười bảy anh thi rớt Tú Tài
Lên đường viễn xứ một thân trai
Cầu thực tha phương trong khói lửa
Lòng còn trĩu nặng bóng hình ai !....
Nỗi biệt ly nào chẳng xót xa
Tiễn đưa không một chén quan hà (6)
Nhìn nhau cố nén lòng không khóc
Không khóc mà sao mắt cứ nhòa...
.............................. .............................
Từ ấy, đường đời ai nấy đi
Các thành gia thất các tương nghi (7)
Chạnh lòng giây phút khi nghe trẻ
Hát bài " Hồ điệp mãn viên phi " !
Trải bao thế thái với nhân tình
Dâu bể, nổi chìm, lắm đảo khuynh
Mới hay " Tình... đẹp, khi...dang dở "
Trách chi Hồ Dzếnh thuở bình sinh !
Năm mươi năm cũ, tình đeo đẳng
Lòng vẫn tơ vương... chiếc áo dài !
Mỗi lúc nắng chiều phơn phớt gió
Bồi hồi lại nhớ...áo ai bay !
Những lúc trà dư tửu hậu tan
Chạnh niềm cô lữ, buổi xuân tàn
Chiều nay chợt thấy lòng xao xuyến
Ngậm ngùi đọc lại khúc " Trường Can "...
" Mai Trúc " ngày xưa đã dở dang
Phương trời cách biệt vẫn băn khoăn
" Thanh Mai " vẫn thắm như ngày trước ?
" Trúc Mã " giờ đây...đã cỗi cằn !
.............................. ........................
Thắm thoát thời gian khéo hững hờ
Bóng câu, cửa sổ, thoáng như mơ
Năm mươi năm cũ... tình đeo đẳng
Còn ngỡ hôm nào, khi tuổi thơ !!!
Đỗ Chiêu Đức
GHI CHÚ :
(1) " Hồ điệp mãn viên phi " là : Bướm bay đầy vườn, tên một bài hát của các học sinh Tiểu học trường Hoa trước đây, giống như bài " Kìa con bướm vàng..." , của ta vậy.
(2) Trích dở bài thơ " Một mối tình " của nhà thơ Xuân Diệu :
Anh có một tình yêu thứ nhất
Đem cho em kèm với một là thơ
Em không lấy và tình anh đã mất
Tình đã cho không lấy lại bao giờ !
(3) " Vườn Thầy Cầu , Bến Ninh Kiều, Đàn Tiên " là những nơi để dạo chơi, giải trí, cắm trại... của thanh niên học sinh ở Cần Thơ hồi khoảng thập niên 50-60. Hiện nay, chỉ còn lại có Bến Ninh Kiều.
(4) " Thanh Mai Trúc Mã " là thành ngữ điển tích xuất xứ từ bài thơ Ngũ Ngôn Cổ Phong của Lý Thái Bạch đời Đường. Bài thơ có tên là " Trường Can Hành ", trong đó có hai câu :
Lang kỵ TRÚC MÃ lai 郎騎竹馬來,
Nhiễu sàng lộng THANH MAI 繞床弄青梅.
thường dùng để chỉ trai gái quen nhau từ thuở nhỏ, lớn lên yêu nhau hoặc thành chồng vợ với nhau. Sau này dùng rộng ra còn để chỉ VỢ CHỒNG và được nói gọn lại thành " MAI TRÚC" hay " TRÚC MAI ", như trong truyện Kiều của Nguyễn Du :
Một nhà sum họp TRÚC MAI
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông !
Hoặc :
Tưởng rằng MAI TRÚC lại vầy
Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau !
(5) Trích dở câu thơ nổi tiếng của nhà thơ HỒ DZẾNH : " Tình chỉ đẹp khi còn dang dở ". Mới yêu nhau, ai cũng chê câu nầy cả, cũng như đều chê tên tập thơ cũng là tựa của bài thơ nổi tiếng của thi sĩ NGUYỄN BÍNH là " Lỡ bước sang ngang ".
(6) Lấy ý thơ trong truyện Kiều của Nguyễn Du :
Tiễn đưa một chén quan hà
Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình !
(7) " Các thành gia thất các tương nghi 各成家室各相宜 " là Mỗi người đều thành gia lập thất và đều có một gia đình êm ấm cả !
Nồi Canh Chua Của Má
Đỗ Cường
Ngày xưa nhà tôi nghèo lắm, đến bữa ăn gia đình thường quây quần bên mâm cơm đạm bạc, không có người ăn trước người ăn sau, bởi nếu như vậy thức ăn sẽ không đủ cả cho gia đình mười người con.
Anh em có một thông lệ ngầm là mỗi tháng phải nấu hai lần canh chua, đó là ngày Ba tôi lãnh lương và ngày anh em chúng tôi đề nghị.
Mỗi lần nghe Ba tôi nói với Má: “Bà ơi mai nấu canh chua nghe bà” dường như đêm đó tôi không ngủ được, thử hỏi một thằng con trai còn non và chưa xanh vừa tròn mười lăm tuổi… ngày mai xách giỏ lẽo đẽo đi chợ với Má, thì ôi thôi “còn có danh gì với núi sông“ nữa.
Vào chợ, Má lựa chọn tỉ mỉ, cá phải là cá còn sống, rau phải tươi ngon, trái me không được già hay non quá, khóm mua nguyên trái vừa chín tới, bạc hà mới cắt phải còn mủ, lấy móng tay bấm vào phải xốp…
Việc mua nguyên liệu, Má đã cẩn thận, thì công đoạn nấu nồi canh chua còn công phu hơn nữa, để cạo lớp nhớt trên mình con cá Hú (Ú) phải là nước sôi vừa “reo” sau đó chà xát với muối tránh mùi tanh, cá cắt ra từng khứa bằng nhau để vào rỗ cho ráo nước không được để trên dĩa cá đọng nước sẽ không ngon, trái me cạo sạch và dằm me bên ngoài lấy nước chua tuyệt đối không dằm me trong nồi canh chua, khóm và các rau khác xắt ra đều để thứ tự trong rỗ…
Khi nghe tiếng xe đi làm về của Ba tôi ngoài cửa, Má tôi mới bắt đầu nấu nồi canh chua, Má nói nồi canh chua không được nấu sớm hay trễ quá sẽ mất đi mùi vị của nồi canh chua, giống như trái cây chín tới khi ăn mới cảm nhận được cái ngon của nó.
Tôi không quên được tiếng húp xì sụp, những giọt mồ hôi chảy dài của anh em tôi bên mâm cơm bởi vị ngon của tô canh chua.
”Bà nấu ngon quá“ Ba tôi khen.
Nhìn chồng và các con ăn, tôi thấy gương mặt Má tôi hạnh phúc và mãn nguyện.
Có lần Má tôi hỏi:
“Theo con nguyên liệu nào quan trọng nhất của nồi canh chua?”.
Tôi liền đáp: “Cá, me, bạc hà phải không Má“.
Má từ tốn nói: “Nếu chỉ có cá, me, bạc hà là nguyên liệu chính để quyết định nồi canh chua ngon, theo Má như vậy thì chưa đủ, con thử nghĩ nếu canh chua thiếu chút ớt hay hành, ngò, giá … thì hương vị của canh chua như thế nào?. Tuy những nguyên liệu đó không sánh được với nguyên liệu khác, nhưng nó là yếu tố quan trọng làm kết dính những mùi vị khác để hình thành nồi canh chua ngon.”
Những điều Má tôi nói, giúp tôi hiểu ra được nhiều vấn đề trong đó có việc học của tôi, trong lớp tôi chỉ giỏi toán, lý, hóa, sinh ngữ còn những môn khác tôi không cho là quan trọng.
Từ dạo đó tôi ít đi chơi chăm học hơn những môn kém, đi học về tôi phụ giúp Má nhiều hơn và việc học của tôi tiến bộ.
Tôi nghĩ “Trong cuộc sống có những vật bình thường ở cạnh mình, mình không gìn giữ, trân trọng khi mình cần nó đã thất lạc hay bị mất đi làm mình tiếc nuối khôn nguôi.”
Ba năm sau!
Vào một chiều mưa muộn, Má tôi đã bỏ anh em tôi ra đi mãi mãi!
Tạo hóa rất công bằng và oan nghiệt, tạo hóa ban tặng cho tôi một người Mẹ để tôi sống trong yêu thương, giận hờn, vòi vĩnh và tạo hóa đòi lại người Mẹ của tôi, chưa cho anh em tôi đủ trưởng thành để được báo hiếu.
Từ ngày Má mất, gia đình tôi ít tiếng đùa vui, anh em tự chăm sóc cho nhau, đi học về tôi nấu nướng chính cho gia đình. Riêng ba tôi tóc bạc nhiều, ít nói và trầm mặc.
Có những lần tôi chợt thức giấc nửa đêm thấy Ba ngồi ngoài sân nhìn vào cõi xa xăm, tôi biết Ba tôi đang nhớ Má lắm, Ba thật cô đơn như chết nửa tâm hồn.
Tháng năm dần qua, anh em tôi ra đời làm việc, người thành đạt, người công chức, người giáo viên cuộc sống ổn định.
Riêng tôi, hành trang ra đời là nồi canh chua của Má, cái nồi canh chua dân miền Nam ai cũng nấu được, chỉ khác nhau sự nêm nếm, tùy theo khẩu vị mọi người khi ăn xong chỉ khen ngon hay dở mà thôi.
Nồi canh chua của Má cũng dung dị như bao nồi canh chua khác. Nhưng với tôi nồi canh chua của Má lại có tính triết lý dạy cho tôi biết vận dụng trong cuộc sống và ngộ ra được nhiều điều.
Ở công ty, tôi biết coi trọng chị nấu bếp, anh lái xe, người bảo vệ… Tôi không coi tôi là một khúc cá, me và bạc hà để quyết định nồi canh chua, chính họ - ngò, ớt, hành… là những nguyên liệu quan trọng kết dính để phát triển công ty, và tôi đã thành công.
Với con tôi, tôi là người cha, người bạn, người thầy và cả là người em nữa.
Mọi người tin tôi không? “Bố ơiiiiiii tắm con”
“ Yes Sirrrrrr “ !!!
Được Má chỉ dẫn phương thức nấu nhưng tôi chưa bao giờ nấu được nồi canh chua ngon như Má tôi.
Nhân ngày họp mặt, anh em đề nghị tôi nấu nồi canh chua, tôi tận dụng mọi kỹ năng của mình để hoàn thành nồi canh chua thật to đãi các anh em.
Đang ăn cơm, tôi thấy mọi người ăn trầm ngâm và đăm chiêu, đến khi đứa em út thốt lên một câu “Ăn canh chua làm em nhớ Má!“, từng đôi đũa để chầm chậm xuống bàn, mọi người từ từ đứng dậy không nói với nhau lời nào, tôi biết anh em đang hoài niệm lại ngày Má còn sống bên tuổi ấu thơ của chúng tôi.
Nồi canh chua của tôi nhạt nhẽo!
Nồi canh chua tôi nấu dư thừa của người có tiền, còn Má tôi phải đi từ đầu chợ đến cuối chợ trả giá, mua con cá vừa phải, xin thêm người bán cọng ngò trái ớt … vì túi tiền eo hẹp.
Nồi canh chua, tôi nấu nhanh chóng vì có người giúp việc.
Nồi canh chua của Má tự tay làm có pha mồ hôi và nước mắt vì khói củi cay xè.
Canh chua của tôi vừa ăn có nhạc du dương, còn canh chua của Má chỉ có mồ hôi và tiếng xì xụp, đũa muỗng lanh canh của mười đứa con đang đói.
Canh chua của Má tràn ngập thương yêu có sự đợi chờ chồng và các con về trong hạnh phúc đầy mãn nguyện, còn canh chua của tôi thì mau chóng, no nê và thừa thải.
Má tôi luôn luôn là người ăn sau cùng, có lần nghe thằng Út nói lại với tôi:
“Má mút lại những cái xương cá của anh em mình đó anh!”
Em hỏi Má, Má quay đi chỗ khác và nói
“Tụi con ăn phí quá!”
Đây là bài học có lẽ tôi không bao giờ quên cho đến khi xuôi tay nhắm mắt.
Nếu tôi được một điều ước, tôi sẽ ước Má tôi sống lại để anh em tôi được phụng dưỡng Má, dù tạo hóa có lấy đi bao nhiêu tuổi thọ của tôi cho điều ước đó tôi cũng vui vẻ chấp nhận, mãi được ôm Má vào lòng và gọi hai tiếng: “Má Ơi”.
Nghe : Tài Nguyễn đọc
7/28/23
NẮNG !
Xướng:
Nắng
Suốt mấy tháng nay nắng sát ta,
Suốt mấy tháng nay nắng sát ta,
Hè đang rực rỡ thói thường mà.
Bỗng thương Đồng Đế người đen đúa,
Chợt mát Hà Đông dáng ngọc ngà.
Hoàng Thị ngày xưa oi mái tóc,
Ây-Si (AC) hiện đại mát làn da.*
Tha hương khí hậu nhiều thay đổi,
Cố quốc chiều hè nhớ chuyện xa !...
Bỗng thương Đồng Đế người đen đúa,
Chợt mát Hà Đông dáng ngọc ngà.
Hoàng Thị ngày xưa oi mái tóc,
Ây-Si (AC) hiện đại mát làn da.*
Tha hương khí hậu nhiều thay đổi,
Cố quốc chiều hè nhớ chuyện xa !...
Đỗ Chiêu Đức
07-20-2023
* Ây-Si (AC) là Air Conditioning, là Máy lạnh.
Kính Họa Vận : NẮNG HÈ - THUCái nắng đầu Thu nóng quá taChe dù thoăn thoắt dạo quanh mà…!Tóc thề chải chuốt màu đen mượtThiếu nữ “chỉn chu” vóc dáng ngàHơi nóng hanh hè khô mái tócMồ hôi cuối hạ mát làn daCô đơn lẻ bạn chân hài bướcHiu quạnh hồng nhan sợ cách xa…!MAI XUÂN THANHSan Francisco, July 27, 2023
NẮNG
Đi đâu nắng cũng sát theo ta
Tạo bóng kề bên thật mặn mà
Nhảy nhót, lung linh vờn tóc mượt
Dấu yêu, mơn trớn đậu vai ngà
Đem làn hơi ấm xua tan rét
Rịn giọt mồ hôi thấm mát da
Những lúc bầu trời mây phủ kín
Một mình đếm bước quãng đường xa.
Sông Thu
( 27/07/2023 )
MT xin góp họa theo bài xướng của chị Sông Thu
Nắng Hạ
Dạo bộ trên đường nắng bám taHè đang rực rỡ vậy thôi màTung tăng múa nhảy khi chiều ngãLả lướt đùa chơi lúc bóng ngàGió để hoa vàng thơm mái tócMây chuyền hạ trắng ửng làn daTâm hồn dịu vợi say trời đấtMỗi bước thiền hành tránh nghĩ xaMinh Thúy Thành NộiTháng 7/27/2023
xin góp họa cùng chị:
NẮNG HÈ
Nắng hè đeo đuổi đốt thiêu ta
Đã có ô che, ấy vậy mà…
Người chẳng rượu đào đi tợ xỉn
Mắt hoa môi đỏ ngó ra ngà
Hằng trưa lặm lội khô cong xác
Suốt bữa lượn lờ thẫm thẫm da
Nghe cuốc than hè hao …thuốc thuốc…
Não lòng ngán ngẩm cái quan xa…
CAO BỒI GIÀ
27-07-2023
WORLD CUP NỮ 2023
Đã qua một tuần "FIFA Women's World Cup" khai mạc (07-20-2023); Nhiều trận đấu sôi nổi đã diễn ra, nhưng lại chưa thấy có bài thơ nào "khen ngợi" "chê bai" gì cả. Xin mạn phép có một bài Xướng sau đây. Kính mời tất cả Thầy Cô Thân Hữu Đồng môn ... Vị nào có nhã hứng xin cùng họa cho vui !
XƯỚNG :
Ngày xưa World Cup chỉ nam thôi,
World Cup ngày nay nữ cũng chơi.
Bậm trợn húi cua còn chạy nữa,
Dịu dàng thục nữ mất đi rồi !
Chọc khe áp sát khung thành địch,
Cản phá đội đầu cướp bóng người.
Nhất nhất như nam không nhượng bộ,
Khiến toàn thế giới mãi mê coi !
Đỗ Chiêu Đức
07-27-2023
Kính Họa Vận : WORLD CUP
World Cup thanh niên khỏe thế thôi…!
Xưa thời vận động chỉ “Nam” chơi…!
Nào ngờ “thục nữ” hăng say chạy
Lầm tưởng thuyền quyên đắm đuối rồi
Áp sát, chọc khe, ngăn bóng địch
Tranh giành cản cẳng húc vai người
Đàn bà đứng giữa không nao núng
Khán giả đông vui mãi miết coi…!
MAI XUÂN THANH
San Francisco, July 27, 2023
Nam đá, nữ nhi cũng đá thôi
Sợ gì vóc nhỏ lại không chơi !
Dẻo dai, bền bỉ nào thua sút
Khéo léo, khôn ngoan hẳn vượt rồi
Gắng sức, khả năng đâu kém bạn
Quyết tâm, thành tích trội hơn người
Tranh tài phái đẹp càng gay cấn
Thiên hạ toàn cầu thỏa mắt coi !
Phương Hà
( 28/07/2023 )
7/24/23
Lối Xưa Xe Ngựa
Trần Mộng Tú
Mẹ tôi kể, cuối năm 1943, ảnh hưởng đảo chính Nhật, gia đình tôi phải tạm tản cư từ Hà Nội ra ngoài thành phố; lúc đó mẹ tôi đang có mang tôi sắp tới ngày sanh, mẹ được chở trên một chiếc xe bò có lót rơm, vào Hà Đông thì tôi được sanh ra trên xe bò, nên trong giấy khai sanh, nơi sanh là Hà Đông (đáng nhẽ tôi phải được đặt tên là Rơm mới đúng.)
Ảnh: Diễn Đàn Thế Kỷ |
Tôi lớn lên ở Hà Nội, Hải Phòng, trưởng thành ở Sài Gòn, những chiếc xe kế tiếp tôi được đi là: xe đạp, bus, xích lô đạp, taxi, xe đò, xe lam, xe thổ mộ, xe gắn máy (chỉ ngồi sau lưng tài xế) và phà. Mỗi phương tiện di chuyển này đều để lại trong tôi một ký ức ngọt ngào.
Thuở mới lên mười tập xe đạp với bạn, đầu gối, khuỷu tay lúc nào cũng rớm máu, sây sát vẫn hẹn hò tập nữa, chưa đi giỏi đã chở nhau, ngã lên ngã xuống. Chao ôi, là hạnh phúc!
Xe bus tôi đi ở thời gian trung học, lúc nào cũng bị dồn vào một góc xe, không nhìn thấy trạm xuống. Nhưng đi trên xe bus tôi học được nhiều điều qua những nét mặt của từng người. Nét mặt, nụ cười hồn nhiên của học trò, nét băn khoăn của giới công, tư chức, nét mệt mỏi của những người lao động. Tất cả chen chúc, hối hả lên, hối hả xuống. Tôi hay ngoái cổ nhìn theo những cái lưng vừa được thả xuống lề đường. Có cái lưng lấm tấm, có cái lưng ướt đẫm mồ hôi.
Tôi cũng thích di chuyển bằng xích lô đạp lắm, thong thả và thoáng. Nắng quá có mui kéo lên, mưa có cánh gà thả xuống. Xích lô đạp không bí và ngột ngạt mùi xăng như taxi. Taxi ở Sài Gòn hồi đó là những chiếc xe nhỏ, cũ, của hãng Renaul, lúc nào cũng ngộp mùi xăng.
Tôi nhớ lại, có lần các cô học trò mới lớn, ngồi nói chuyện “người chồng lý tưởng” với nhau. Mỗi người chọn một ông chồng tiêu chuẩn đẹp trai, con nhà gia giáo, hoặc “phải có danh gì với núi sông.” Tôi nói một cách hồn nhiên: “Tao xí ông xích lô đạp, để chở tao mỗi ngày.” Cả nhóm bạn cười ầm lên: “Nhỏ này ngu, cứ có tiền là có xích lô đi, việc gì phải lấy anh phu xe.”
Sau thấy anh xích lô ở trong ngõ gần nhà, có hai vợ, anh đi làm về, uống rượu, và đánh cả hai bà vợ quá xá, tôi đâm hoảng, không dám tuyên bố dại dột nữa. Không dại dột mơ ông xích lô hay đánh vợ, nhưng khi trưởng thành đã đi làm, vẫn thích đi xích lô đạp. Nhà tôi ở Thị Nghè, văn phòng hãng thông tấn Associated Press ở lầu 4, trong khu thương xá Eden. Ông xích lô tháng của tôi ở Thủ Đức, sáng sáng ông lên đón tôi, thả tôi xuống Nguyễn Huệ, ông đi kiếm khách nguyên ngày, chiều về ghé đón. Có hôm tôi đi chơi với “bồ” thì ông về xe không.
Xích lô máy tôi sợ lắm, đi thử một, hai lần rồi. Bay nón, bay tóc, bay áo, và có thể bay luôn cả linh hồn xuống đường.
Thuở bắt đầu có hẹn hò, đưa đón, thích nhất được ngồi sau Vespa hay xe Honda của các chàng. Ngồi mà không dám ngồi sát, hai chân về một phía, khi mặc robe còn phải hai chân để chồng lên nhau; nếu chưa thân lắm, phải giữ một khoảng cách với cái lưng đằng trước, không dám ngồi thật sát, nên có khi suýt ngã mỗi lần xe quẹo hay xe ngừng.
Những con đường Sài Gòn ngày đó không chen chúc quá đáng, có những đường đôi khi còn vắng bóng xe, thỉnh thoảng mới có xích lô đạp đi vào như đường Cường Để, Đồn Đất. Mọi người, mọi vật thong thả, đám mây trên cao cũng thong dong trôi.
Xe lam, thỉnh thoảng chờ taxi hay xích lô đạp mãi không được, cũng trèo lên xe lam. Xe lam không cần đến bến, không có bảng đậu như xe bus, miễn mình biết đường đó có xe lam chạy, cứ chờ xe đi qua, vẫy tay xe còn chỗ sẽ ngừng lại cho lên, muốn xuống, cứ ơi ới kêu tốp tốp, là được thả xuống. Nhưng đi xe lam chẳng thấy nên thơ tí nào cả.
Xe thổ mộ thì tuyệt vời, không phải ở đâu cũng có. Sài Gòn không có xe thổ mộ đã lâu lắm rồi. Tôi nhớ chỉ một hai năm đầu vào Nam thấy xe thổ mộ đưa các bà đi chợ. Sau này mỗi lần từ Sài Gòn xuống Bình Dương, tôi được đi xe thổ mộ từ bến xe đò Bình Dương về nhà dì tôi ở đường Châu văn Tiếp, quá miếu tử trận một chút. Tiếng vó ngựa gõ lóc cóc trên đường nghe hay lắm, lúc đó chẳng biết diễn tả thế nào, âm thanh khô và dứt khoát, xe đi dọc bờ sông Bình Dương (do sông Bé chẩy qua tỉnh), đường xá rộng, xe ít, người thưa, gió từ sông thổi lên, chiếc xe lắc nhẹ như đưa võng, thỉnh thoảng nghe tiếng roi của người xà ích quất nhẹ vào mông ngựa. Cái cảm giác cô gái tỉnh thành được về quê chơi, cái gì cũng thấy hay, cũng lạ tai, lạ mắt, cũng đẹp. Xe đưa về đến sát hàng rào nhà dì tôi, nhìn thấy cái giếng nước trong sân mới phải nhẩy xuống. Thời niên thiếu quê nhà, chao ơi, làm sao tả!
Tôi cũng thích được đi qua phà. Một người bạn thân của anh tôi, hồi đó hay cho tôi qua phà Thủ Thiêm chơi. Những hôm trời mưa lâm râm qua phà trên sông Sài Gòn thấy mênh mông, buồn và đẹp làm sao! Mới lớn mà, anh hơn tôi đến bảy, tám tuổi. Chắc anh cũng còn nhớ mãi kỷ niệm những lần dắt tay một cô bé qua phà. Rồi những dịp hè, (trước 1963 đường sá còn yên ổn) chị em tôi được cha mẹ cho đi xuống tận Bạc Liêu, nơi cô chú tôi ở, phải qua hai cái bắc: bắc Mỹ Thuận và bắc CầnThơ.
Tôi yêu cái không khí nhộn nhịp, khi xe đò đậu lại, chờ sang phà. Tiếng rao của các hàng quà bánh, hình ảnh của những người bán hàng, khăn rằn vắt vai, hay nón lá đội đầu; những thúng, những rổ đựng: ổi xá lị, ốc gạo, mía ghim, xoài, cóc, thơm v.v, sao mà đẹp thế! Sau năm 1963 cha mẹ chúng tôi không cho con đi xe đò xa nữa, vì đường sá bắt đầu bất an. Bây giờ, ngồi đây, nhớ lại cái cảnh đất nước thái hòa đó vẫn ứa nước mắt.
Nhưng chuyến về Việt Nam vừa qua, cho tôi một cái nhìn về giao thông hoàn toàn đổi khác. Trước tiên Sài Gòn là nơi dân quê cả ba miền tụ về kiếm sống. Càng đông người, càng nhiều việc, người tăng thì xe cộ tăng theo, gần như 90% gia đình có xe gắn máy, gia đình năm người, thì cũng phải cần đến ba cái xe gắn máy, để sáng ra đi làm, mỗi người về một hướng.
Trước khi lên xe gắn máy, ai cũng cần có kính râm, khẩu trang, nón sắt, găng tay, nếu phụ nữ mặc áo ngắn tay thì găng lên đến cùi chỏ, em bé đi theo còn có một tấm voan trùm đầu che bụi. Người Sài Gòn gọi đó là “võ trang đến tận răng”. Dân số Sài Gòn hiện nay theo thống kê chính thức là 8.5 triệu, nhưng người ta cộng thêm số người chưa kiểm soát được có thể lên đến 10 triệu.
Chỉ cần tưởng tượng hai phần ba số người đó, sáng sáng túa ra đường bằng những chiếc xe gắn máy. Tiếng nổ của xe, rung cả mặt trời vừa thức, khói từ những ống bô bay ra làm ô nhiễm đám mây đầu tiên vừa nhìn thấy, và con người phải đón nhận ngay tiếng động đó vào đầu, đám khói đó vào phổi như bắt đầu của một ngày dài.
Nếu đứng trên một sân thượng nhìn xuống đường phố, Sài Gòn và Hà Nội không khác nhau mấy, cái khác biệt chỉ là tỷ lệ ngắn, dài, rộng, hẹp, còn cả hai đều giống như từng con kinh khổng lồ chở theo nó một đám rác rất ngoạn mục. Những hình tròn của nón sắt nhìn từ trên cao xuống như những cái lá lục bình to đủ màu, những càng xe như những khúc củi cong, bập bềnh trôi, người xếp lớp như châu chấu, muốn chồng lên nhau, chân tay ngọ ngoạy, cả bốn hướng đâm sầm vào nhau.
Trên cái khối sắt có hai càng đó, một con châu chấu ốm yếu chở năm con heo bó chặt trong rọ, hai con rọ ôm đằng trước, ba con rọ nằm đằng sau; hay châu chấu chở nguyên cái tủ lạnh nhỏ còn trong thùng, một tay cầm ghi, một tay ngược ra sau lưng đỡ; hoặc châu chấu chở một lúc bốn vòng hoa tang, xếp theo chiều dài của hai bên xe, không nhìn thấy thân mình đâu cả, chỉ thấy hoa tang lừng lững đi, như đi vào nghĩa trang; có khi châu chấu chở nguyên một gian hàng bán bát đĩa Bát Tràng, thúng trước, rọ sau, chẳng bao giờ rơi vỡ; châu chấu còn chở một cửa hiệu bán quần áo, với gọng, với móc che kín mít thân mình, chỉ thấy những miếng vải xanh đỏ, bay bay, lạ và đẹp lắm!
Kinh hoàng hơn nữa, châu chấu bố, châu chấu mẹ, châu chấu con và ngay cả châu chấu sơ sinh, tổng cộng năm mạng chở nhau trên cái khung sắt đó, mẹ châu chấu bình thản cho con bú trong khi cái khung sắt cứ nhúc nhích.
Giữa cái con kinh chở đám rác bập bềnh đó, chợt xuất hiện một cái xe hơi, cái xe của ai nhỉ? Xe hiệu Ferrari hay Lamborghini (giá trung bình từ 198 ngàn đến 320 ngàn Mỹ kim; nhập vào Việt Nam đánh thuế gấp ba lần). Cái xe hơi hào nhoáng đó thản nhiên nhúc nhích quay đầu quẹo chữ U giữa dòng xe gắn máy.
Bỗng tất tả ở đâu đến một bà áo cánh vá, quần đen ống thấp, ống cao, hai bàn chân nứt nẻ trong đôi dép nhựa bẩn thỉu, gánh một đôi quang mỗi bên vài bó rau, hai, ba nải chuối, mấy củ hành, bà cũng thản nhiên đứng nhúc nhích cản trước chiếc xe hơi, bà muốn qua đường. Bà đâu có biết xe của ai, mang nhãn hiệu gì, bao nhiêu tiền? Cản trở của xe tải hay xe hơi hào nhoáng đối với bà cũng như nhau, bà chỉ cần băng qua bên kia đường bán mấy nải chuối, hình như có một người đang gọi mua.
Băng qua đường là cả một nghệ thuật, du khách không có kinh nghiệm, không dám sang đường một mình. Phần nhiều ở ngã tư không có đèn xanh, đèn đỏ và nếu có chẳng thấy ai tuân theo luật giao thông. Xe không bao giờ ngưng lại cho người đi bộ. Người sang đường phải tự hiểu: bước xuống, băng sang, đi chậm, nhưng không rụt rè, cố nhìn vào mặt người lái cái xe như đang muốn tông vào mình, thực sự, khi hai người nhìn thấy nhau, người lái xe sẽ nhường cho mình bước thêm một bước, rồi nhích được một bước, khách bộ hành phải nhìn kế tiếp vào cái xe vừa chạy tới; cứ thế, vừa bước vài bước vừa nhìn. Không rụt rè, không chạy, và nhất là không được hốt hoảng chạy ngược lại lề đường.
Xe phun khói tự nhiên, nhúc nhích rất chậm, nhất là vào giờ “tan tầm” Bạn có nhìn thấy đàn tầm trong cái nong nhúc nhích bao giờ chưa? Nếu chưa, thì chịu khó về Hà Đông ở miền Bắc nhìn đi, cái con kinh xe cộ này, giống như cái nong tầm vậy: đông đúc, lúc nhúc và nhúc nhích rất chậm. Nhưng những chiếc xe nhúc nhích rất chậm đó, thực sự nó đang chở trên nó những con người tất bật lăn xả vào xã hội, giành giựt từng mảnh đời sống hàng ngày.
Đó là một bức tranh nhìn xuống từ một căn nhà bảy từng, chiều ngang ba thước, chiều sâu sáu, bảy thước. Những ngôi nhà như thế này, rất nhiều ở Hà Nội và Sài Gòn, vì giá đất rất cao, được tính bằng vàng. Người Việt ở hải ngoại không cách nào hiểu được tại sao mỗi mét vuông đất giá đến năm sáu cây vàng. (Mỗi cây khoảng 2 ngàn Mỹ kim).
Vì xe luôn luôn kẹt cứng, nên không chạy nhanh được, không có tai nạn xe gắn máy khủng khiếp xảy ra trong thành phố giữa ban ngày, chỉ có sây sát, cọ xước. Tai nạn khủng khiếp chỉ xẩy ra ở ngoài quốc lộ, đường đi xuyên tỉnh, nơi tài xế có thể chạy quá tốc độ. Ban đêm, khi mọi người đã đi ngủ, xe gắn máy kiếm cơm ban ngày đã được cất vào nhà, hoặc khóa lại, nằm trên lề đường, trước các khách sạn, là lúc các con ông lớn, các con đại gia mang xe gắn máy “hàng xịn” ra đua. Lúc đó tai nạn sẽ xảy ra, sống chết chỉ là trò chơi tìm cảm giác mạnh của các quý tử.
Sài Gòn hay Hà Nội bây giờ không còn ai nói đến chữ “thong thả” nữa. Cái tất bật của họ khác với cái tất bật của Âu, Mỹ. Người Âu, Mỹ chọn cái tất bật, trong khi họ có thể chậm lại. Người Việt bây giờ bị cuốn vào tất bật, không ra được nữa rồi. Chậm lại có nghĩa là thất bại, là bỏ cuộc.
Nhưng những chiếc xe trong thành phố vẫn nhúc nhích rất chậm, chở trên nó một đàn châu chấu ùa ra từ một cánh đồng vô tận, vết chân của nó cào xuống mặt đường, sẽ để lại những dấu tích vào những trang ký sử sau này.
Một Mảnh Đời Hồ Dzếnh
Trần Mộng Tú
Vào năm 1954, gia đình tôi mới di cư vào Nam thì nhận được một lá thư của Hồ Dzếnh (thời gian đầu của năm 1954-1955 Bắc-Nam còn nhận được thư).Lúc đó tôi còn bé chưa biết ông là một thi sĩ, Ba tôi nói: Có người đàn ông Trung Hoa muốn lấy thím Phương. Thím Phương của chúng tôi là vợ góa của chú Trần Trung Phương, người có tập Thơ cho học trò Mấy Vần Tươi Sáng, mà từ nhỏ anh chị em chúng tôi đã thuộc lòng nhiều bài trong đó. Khi học ở Tiểu Học được học lại ở trong lớp như những bài Học Thuộc Lòng.
Chiều qua trăng ngã xuống hồ
Bầy sao nghịch ngợm đổ xô xuống tìm
Trên không có mấy con chim
Vội vàng đâm bổ đi tìm bóng trăng. (Vội Vàng- TTP)
Lá thư của chú Dzếnh, tôi không được đọc, chỉ nghe Ba nói là một lá thư với lời lẽ hết sức lễ phép, xin phép anh chị cho em được thay anh Phương vào làm em anh chị trong gia đình. Ba tôi vốn sẵn hiền lành, nên đọc thư cảm động đến ngồi ngây người ra, không biết trả lời sao cho xứng với lá thư đó.
Chú Trần Trung Phương của tôi khi còn sống viết văn, làm báo cho thiếu nhi, hoạt động chống Pháp, bị bắt, tra tấn trong tù. Khi được thả ra thì ho lao chết ngày 24/7/1945. Lúc đó con trai mới 6 tháng tuổi. Thím Hồng Nhật, một người đàn bà có học, có nhan sắc, yêu văn chương, được tất cả các bạn văn của chồng kính nể. Mỗi năm làm giỗ chồng, thím mặc khăn áo đại tang làm giỗ, mời các bạn Văn/ Họa Sĩ của chồng như: Mạnh Quỳnh, Hữu Thanh, Tống Ngọc, Tam Lang, Khái Hưng v.v… đến dự. Ai cũng kính phục.
Thím ở vậy nuôi con, cho tới khi gặp Hồ Dzếnh. Cũng nên nhắc lại, thím Hồng Nhật cũng viết văn, làm thơ, lúc trẻ Hồng Nhật có gửi bài cho Phong Hóa và Ngày Nay là thời điểm Trần Trung Phương đang phụ trách trang Thiếu Nhi của hai tờ báo này. Duyên văn nghệ đưa đến cuộc hôn nhân đẹp nhưng quá ngắn (Không đầy 2 năm).
Khi chú mất, tôi cũng chỉ hơn em Cường một tuổi nên không biết gì cả.
Lớn lên mới biết thím là một phụ nữ đảm đang, qua bao nghịch cảnh, góa chồng, ly loạn vẫn gây dựng lại được những gì đã mất. Hiệu Sách Bình Minh 200 A, Phố Huế, nức tiếng ở Hà Nội một thời.
Vào năm 1951 thím Hồng Nhật muốn tái bản tập thơ Mấy Vần Tươi Sáng, nên có vào Nam nhờ Hồ Dzếnh đỡ đầu. Hồ Dzếnh cũng đang trong cảnh gà trống nuôi con rất vất vả. Hai người cảm thông nhau cùng hoàn cảnh góa bụa, cùng có hai đứa con trai nhỏ, cùng yêu văn chương nên nhanh chóng yêu nhau. Đầu năm 1954 Hồ Dzếnh trở về Hà Nội, cuối năm đó lập lại gia đình với thím Hồng Nhật.
Giai Thoại kể lại: Hôm đám cưới, các bạn văn cũ của chú Phương đến dự đông đủ, có một người ra câu đối: Vợ góa nhà văn lấy nhà văn góa vợ. Không ai đối được.
Cũng có thêm giai thoại nữa về cái tên Hồ Dzếnh, bạn hữu hay gọi đùa là Hồ Dính và có ra câu đối: Hồ Dính, dính hồ, hồ chẳng dính, có người đối là Ngọc Giao, giao ngọc, ngọc không giao.
Sau năm 1975 chú Dzếnh và Thím Hồng Nhật có vào Nam tìm gia đình anh chị, thì cha mẹ và chúng tôi đã sang Mỹ. Khi tôi liên lạc được với chú thím bằng thư thì cha mẹ tôi đã qua đời. Lá thư cuối tôi nhận được, chú nhờ tôi lấy tiền nhuận bút của những nhà sách bên Mỹ đã tái bản và phát hànhnhững tác phẩm cùa chú nhưng không nhà xuất bản nào trả một đồng (Các nhà xuất bản hồi đó điều nghĩ việc họ tái xuất bản sách Việt ở hải ngoại là một đặc ân họ ban phát cho tác giả.)
Năm 1998 lần đầu tiên tôi về Việt Nam thì chú Dzếnh đã mất được 7 năm (1991). Buổi tối, nằm ngủ chung với thím trên chiếc giường của hai người, nghe thím kể lại: lúc biết mình sắp mất, chú đòi về nhà, mất trên cái giường của vợ chồng. Câu cuối cùng của chú là lời gọi: Mình ơi! trước khi nhắm mắt.
Mình vừa là chị là em
Tấm lòng người mẹ, trái tim bạn đời
Mai này tới phút chia đôi
Hai ta ai sẽ là người tiễn nhau?
Xót mình đã lắm thương đau
Tôi xin làm kẻ đi sau đỡ mình
Cuộc đời đâu phải phù sinh
Nước non chan chứa nghĩa tình, mình ơi! (Bài Thơ Tặng Vợ - Hồ Dzếnh)
Chú Dzếnh muốn đi sau để tránh cảnh thương đau cho thím, nhưng chú lại là người đi trước. Trên chiếc giường gỗ ở ngôi nhà 80 phố Hòa Mã, Hà Nội, trong bóng tối mờ mờ của ngọn đèn đêm ngoài phố hắt vào, tôi nằm cạnh thím, nắm chặt bàn tay già nua của thím, nhìn lên đình màn, hình dung ra khuôn mặt thanh nhã với nụ cười hiền lành ở bức ảnh trên bàn thờ của một thi sĩ Trung Hoa mang trái tim Việt Nam trong lồng ngực, tôi nói thầm trong lòng: Cám ơn thi sĩ đã vào trong gia đình họ Trần Trung.
Tuổi thơ tôi lớn lên bằng những bài Thơ học trò ngây thơ trong Mấy Vần Tươi Sáng của thi sĩ Trần Trung Phương và tôi nghĩ đó chính là những hạt giống văn chương đã gieo vào mảnh đất hồn tôi để sau này mọc lên hoa trái. Rồi tiếp theo đó là Thơ và Văn Chương trong sáng, giản dị của Hồ Dzếnh ảnh hưởng tới văn chương và cách viết của tôi.
Tôi cám ơn Thượng Đế đã cho tôi cả hai ông chú tuyệt vời.
tmt
Subscribe to:
Posts (Atom)