Showing posts with label Do Duc. Show all posts
Showing posts with label Do Duc. Show all posts

1/25/24

Giai Thoại Văn Chương : DƯƠNG GIỐC AI và TẢ BÁ ĐÀO

 

Sanh tử chi giao - Dương Giốc Ai, Tá Bá Đào (ảnh minh họa)

   
Như ta đã biết, cặp TRI KỶ nổi tiếng ở thời Xuân Thu là QUẢN TRỌNG 管仲 và BÀO THÚC NHA 鲍叔牙. Cả hai đã chơi với nhau và kết giao với nhau từ thuở nhỏ. Sau Bào Thúc Nha hiển đạt nhờ theo phò Tề Hoàn Hoàn. Tề Hoàn Công định phong cho Bào Thúc Nha làm Tể Tướng. Bào Thúc đã giới thiệu và nhường chức vụ đó cho Quản Trọng. Hai người cùng nhau phò Tề Hoàn Công trước sau như một. Quản Trọng đã có câu nói như sau : Ta từng ba lần ra trận, ba lần thua chạy trước, Bào Thúc chẳng cho là ta nhát gan, vì biết ta còn mẹ già; Ta từng ba lần xin ra làm quan đều bị từ chối, Bào Thúc không cho là ta bất tài, vì biết ta chưa gặp thời; Ta từng cùng Bào Thúc đi buôn và luôn chia phần lãi nhiều hơn, Bào Thúc chẳng cho là ta tham, vì biết ta nghèo. Sanh ra ta là cha mẹ, còn hiểu được ta là chỉ có Bào Thúc mà thôi!

Từ xưa đến nay hễ nhắc đến bạn bè TRI KỶ kết giao, là người ta nhớ ngay đến QUẢN BÀO CHI GIAO 管鲍之交, là sự kết giao giữa Quản Trọng và Bào Thúc Nha. Hôm nay ta cũng nói đến hai người bạn tình cờ gặp gỡ, rồi cùng kết giao huynh đệ và cùng chết để bảo vệ cho nhau, lưu lại tiếng thơm muôn thuở. Đó là tình bạn kết giao sinh tử giữa TẢ BÁ ĐÀO 左伯桃 và DƯƠNG GIỐC AI 羊角哀 như sau :

Theo "Quyển thứ 7 của Dụ Thế Minh Ngôn 喻世明言·第七卷" truyện "Dương Giốc Ai xả mệnh toàn giao 羊角哀捨命全交" của Phùng Mộng Long 馮夢龍 đời Minh. 
Truyện kể...
       Vua nước Sở là Sở Nguyên Vương 楚元王 rất sùng Nho trọng Đạo, chiêu hiền đãi sĩ. Người trong thiên hạ nghe tiếng tìm đến rất đông.
      Thuở ấy, tại núi Tích Thạch xứ Tây Khương có một hiền sĩ họ Tả 左 tên Bá Đào 伯桃, cha mẹ đều mất sớm, nhưng có chí học hành, sớm trở thành người có tài an bang tế thế. Nghe tiếng Sở Vương cầu hiền bèn khăn gói từ biệt hương thân lên đường tìm đến nước Sở. 
      Một hôm vừa đến đất Ung Châu khi trời đã vào đông, gió bấc mưa phùng trời mây u ám gió lạnh căm căm. Tả Bá Đào đội mưa đi suốt một ngày, khi thấy trời đã hoàng hôn, định tìm nơi nghỉ trọ qua đêm. Nhìn ra phía trước mặt trong rừng trúc xa xa thấy có ánh đèn nhấp nháy, bèn lần mò tìm đến căn nhà cỏ sau hàng rào tre xiêu vẹo. Một người thanh niên cường tráng, mày thanh mắt sáng, ra mở cửa mời vào. Sau khi hàn huyên tâm sự thì biết người thanh niên đó họ Dương 羊 tên Giốc Ai 角哀 cũng mồ côi từ nhỏ. Thấy bàn tủ trong nhà chứa toàn là sách, cả trên giường ngủ cũng đều có sách vở ngổn ngang. Đồng thanh tương ứng hai người cùng đàm đạo trao đổi nhau càng thấy tâm đầu ý hợp. Vốn định chỉ ở trọ qua đêm không ngờ nấn ná đến ba ngày. Vì mến tài nhau nên cùng nhau kết nghĩa kim bằng. Tả lớn hơn Dương 5 tuổi nên làm anh, Dương kính Tả như là một huynh trưởng, Đoạn 2 anh em rủ nhau cùng lên kinh đô nước Sở để tìm chữ công danh.
       Dọc đường, đang lúc trọng đông, gặp lúc thời tiết khắc nghiệt, mưa tuyết bảo bùng mà phải băng rừng vượt núi. Tả Bá Đào càng ngày càng kiệt sức, tự biết sức mình khó lòng vượt qua được đoạn đường dài gian nan hiểm trở nầy, hơn nữa cũng tự biết rằng tài học vấn của mình không sao bằng được Dương Giốc Ai và điều quan trọng nhất là lương thực mang theo chỉ còn đủ dùng cho một người khỏe mạnh cố gắng vượt qua đoạn đường hiểm trở lạnh lẽo nầy, nếu nấn ná cho cả 2 người thì có nguy cơ cả 2 đều phải chết lạnh chết đói trong vùng rừng núi mịt mùng gió tuyết nầy. Nên, Tả quyết định hi sinh bản thân mình mà thành toàn cho người em kết nghĩa hoàn thành tâm nguyện thi thố tài năng để cầu chút công danh.
        Thừa lúc Dương đi tìm củi sưởi ấm trong cơn bão tuyết, Tả bèn cởi hết quần áo ra, nhường áo để Dương mặc thêm cho đủ ấm. Khi Dương về đến thì Tả mới thều thào nói cho người em kết nghĩa biết Ý định của mình và khuyên Dương hãy tranh thủ lên đường, khi nào cầu được công danh hãy trở lại an táng cho mình, nói xong thì tắt thở. Dương đành phải gạt lệ lên đường. Người đời sau có thơ khen Tả Bá Đào như sau :
         寒來雪三尺, Hàn lai tuyết tam xích,
            人去途千里。 Nhân khứ đồ thiên lý.
            長途苦雪寒, Trường đồ khổ tuyết hàn,
            何況囊無米? Hà huống nang vô mễ ?
            並糧一人生, Tịnh lương nhất nhân sinh,
            同行兩人死; Đồng hành lưỡng nhân tử.
            兩死誠何益? Lưỡng tử thành hà ích ?
            一生尚有恃。 Nhất sinh thượng hữu thị.
            賢哉左伯桃! Hiền tai Tả Bá Đào !
            隕命成人美。 Vẫn mệnh thành nhân mỹ
Có nghĩa:

                  Trời đông ba thước tuyết rơi,
                  Người đi ngàn dặm ngược xuôi chập chùng.
                  Đường dài trước mặt mông lung,
                  Trong nang gạo chỉ đủ dùng một thôi.
                  Huống chi mình đến hai người,
                  Cùng đi thì chết cả đôi ích gì ?
                  Một người sống còn có khi...
                  Bá Đào hiền sĩ chết vì bạn thân,
                  Thương thay lặng lẽ âm thầm,
                  Chết vì tri kỷ muôn phần đẹp thay !

Khi đến nước Sở nhờ có Thượng Đại Phu Bùi Trọng 裴仲 tiến cử, sau khi đã thử tài của Dương Giốc Ai, nên mới sớm được yết kiến Sở Vương và sau khi ứng đối lưu loát những vấn đề của Sở Vương nêu ra, Dương còn dâng lên 10 sách lược rất thiết thực để làm cho nước Sở phú cường. Nhà vua tỏ ra rất vui mừng, bày ngự yến thết đãi rồi phong Dương  Giốc Ai làm chức Trung Đại Phu. Dương khóc và kể lại chuyện Tả Bá Đào đã hy sinh ở giữa đường để cho mình đi lập công danh. Sở Vương nghe xong rất cảm động và thương tình cũng truy phong cho Tả Bá Đào làm Trung Đại Phu và cho Dương Giốc Ai dắt đoàn tùy tùng đi cải táng cho Tả Bá Đào.                                                                 
     Truyện được kết thúc bằng cách cho Dương Giốc Ai tự sát sau khi nằm chiêm bao thấy Tả Bá Đào về cho biết là mình bị Kinh Kha của ngôi mộ kế bên đến ức hiếp. Chết để cùng với Tả Bá Đào chống lại Kinh Kha và Cao Tiệm Ly. Truyện có vẻ hoang đường, nhưng kết thúc như thế cho trọn nghĩa kim bằng của tình anh em TRI KỶ : Sống chết đều có nhau !
      Tùy tùng về báo lại với Sở Nguyên Vương, Vương thương cho cái nghĩa khí của tình anh em kết bái mà truy phong cho cả hai thành Thượng Đại Phu và cho lập miếu tế tự với sắc ban bốn chữ "TRUNG NGHĨA CHI TỪ 忠義之祠", là Từ miếu thờ người Trung Nghĩa.
     Sau Quản Trọng và Bào Thúc Nha thì đây cũng là một cặp TRI KỶ nổi tiếng trong văn học dân gian Trung Hoa xưa. Người đời sau có thơ tán dương như sau : 

                古來仁義包天地,  Cổ lai nhân nghĩa bao thiên địa,
               只在人心方寸間。  Chỉ tại nhân tâm phương thốn gian.
               二士廟前秋日淨,  Nhị sĩ miếu tiền thu nhật tịnh,
               英魂常伴月光寒。  Anh hồn thường bạn nguyệt quang hàn.
     Có nghĩa :
                   Xưa nay nhân nghĩa trùm trời đất,
                   Chỉ tại lòng người tấc dạ thôi.
                   Nghĩa sĩ đệ huynh còn trước miếu,
                   Hương hồn còn mãi ánh trăng trôi !

Đỗ Chiêu Đức

10/20/23

TIẾT TRÙNG CỬU

 

Lễ ÔNG BÀ ngày nay

Sau Tết Trung Thu là Tết Trùng Cửu, chữ Tết do chữ Tiết đọc trại ra mà thành. TIẾT 節 là Thời Tiết 時節 chỉ Khí hậu có liên quan đến mùa màng. TIẾT cũng có nghĩa là ngày Lễ Tết trong năm. Một năm có mấy cái Tết lớn. Nguyên Đán là cái Tết lớn nhất mở đầu cho một năm nằm trong tháng Giêng, Thanh Minh là Tết nằm trong tháng 3, Đoan Ngọ là Tết của tháng 5, Tháng 8 thì có Tết Trung Thu và Tháng 9 thì ta có Tết Trùng Cửu.

Trùng Cửu, Trùng là Trùng lắp, là lặp lại. Cửu là số 9. Nên Trùng Cửu 重九 là 2 số 9 được lặp lại, tức là ngày mùng 9 tháng 9 Âm lịch. Theo Kinh Dịch thì số 9 thuộc Dương, nên Trùng Cửu còn được gọi là Trùng Dương 重陽. Đây là cái Lễ tiết cuối cùng sau mùa thu hoạch của tháng tám, rồi trời sẽ trở lạnh để vào đông cho đến Tiết Đông Chí về, sẽ lại chuẩn bị để đón mừng năm mới !

Ngoài việc được gọi là Tiết Trùng Dương 重陽節 ra, Trùng Cửu còn được gọi là Tiết Đạp Thu 踏秋節, có nghĩa là Đạp lên lá vàng khô của mùa Thu, tức là Đi dạo chơi trong mùa Thu trước khi trời trở lạnh. Trong dân gian xưa còn gọi ngày này là Ngày Của Người Già : LÃO NHÂN TIẾT 老人節 hoặc KÍNH LÃO TIẾT 敬老節. Có thể là do sau khi mùa màng được thu hoạch vào mùa Thu, con cháu có nhiều món ngon vật quý để dâng hiến cho Ông Bà, hoặc đã có tiền để chăm lo săn sóc đến đời sống của Ông Bà hơn. Khi ông bà cha mẹ già đã quá cố, thì con cháu cũng nhân dịp Đạp Thu mà kéo nhau lên núi để Tảo Mộ (Ở những nơi có đồi núi thì người chết được chôn cất ở trên cao, vùng đồng bằng để trồng trọt canh tác. Cho nên ta thấy Cụ Nguyễn Du tả cảnh Tảo mộ của Tiết Thanh Minh là : " Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng hồ rắc tro tiền giấy bay, là thế !). Vì vậy, mà Tiết Trùng Cửu còn được gọi là Tiết ĐĂNG CAO 登高節. Ngoài ra, Tiết Trùng Cửu còn được gọi là Tiết THÙ DU 茱萸節, Tiết CÚC HOA 菊花節....

Cây lá và trái Thù Du (giống trái cherry ở Mỹ )

THÙ DU là loại cây ăn trái được thu hoạch vào khoảng cuối tháng 6. Cây lá có tính sát trùng tiêu độc, ngừa phong đón gió, nên trong ngày Lễ Trùng Cửu dân gian hay bẻ một nhánh lá nhỏ giắt bên mình để "trừ tà", để được bình an khoẻ mạnh nên ngày lễ nầy còn được gọi là Thù Du Tiết 茱萸節 là vì thế. 

Trong bài thơ "Bốn mùa ăn chơi" của người xưa thì câu thứ 3 là "Thu ẩm Hoàng Hoa tữu". Hoàng Hoa tức là Hoa Cúc đó, loại hoa có màu vàng và nở vào mùa thu, nên được dùng để ủ rượu uống cho ấm vào những ngày cuối thu lạnh lẽo nầy, để ngừa cảm cúm, như ta chích "flu shot" vào mùa nầy ở Mỹ vậy ! Nên Tiết Trùng Cửu còn được gọi là Cúc Hoa Tiết 菊花節 là vì thế !

Hoa Cúc và tục lệ uống rượu Cúc trong ngày Trùng Cửu

Theo truyền thuyết thì ...
Vào thời Nam Bắc Triều, người của Nam Triều là Ngô Quân Chi thuộc nước Lương, ghi trong " Tục Tề Hài Ký " rằng : Đời Đông Hán, ở huyện Nhữ Nam có một người tên là Hoàn Cảnh, cha mẹ đều chết vì bệnh ôn dịch ở cuối thu, nên anh ta quyết định lên núi tầm sư học đạo để trừ ôn dịch ôn thần. Đạo nhân Phí Trường Phòng dạy cho phép tiên dưỡng sinh và y học. Một năm, sau Trung Thu, đạo nhân gọi Hoàn Cảnh đến mà bảo rằng : mùng 9 tháng 9 năm nay, ôn thần lại đến gieo rắc bệnh dịch, con hãy về quê mà cứu nhân độ thế. Nói đoạn bèn trao cho anh ta một cây Thanh Long Kiếm, một bao lá Thù Du và một bình Rượu Cúc, căn dặn mọi người phải lên cao mà tránh nạn.
Đến hôm mùng 9 tháng 9, Hoàn Cảnh gọi hết bà con lối xóm cùng đăng cao lên núi, giắt cho mỗi người một lá Thù Du và uống một ly rượu Cúc, rồi đơn thân độc mã đứng chặn ở sườn núi, chiến đấu và tiêu diệt ôn thần. Từ đó về sau không ai còn bị chết về bịnh dịch nữa, và cũng từ đó về sau mới có tục Đăng Cao, cài lá Thù Du lên áo và uống rượu Cúc trong ngày Tiết Trùng Cửu cho đến hiện nay.


******
Trong văn học, nhất là trong Đường Thi, ngày Trùng Cửu luôn luôn được nhắc đến một cách thân thiết gần gũi qua các thi nhân nổi tiếng như Lưu Trường Khanh 劉長卿  với ...
      
九日登李明府北樓              CỬU NHẬT ĐĂNG LÝ MINH PHỦ BẮC LÂU

          九月登高望,          Cửu nguyệt đăng cao vọng,
          蒼蒼遠樹低。          Thương thương viễn thọ đê.
          人煙湖草裡,          Nhân yên hồ thảo lý,
          山翠現樓西。          Sơn thuý hiện lầu tê.(tây)
                      
Diễn nôm :
                  NGÀY CHÍN LÊN BẮC LÂU CỦA LÝ MINH PHỦ

                          Tháng chín lên cao ngắm,
                          Xanh xanh cây cỏ xa.
                          Hồ mờ sương người vắng,
                          Lầu tây núi biếc nhòa !
 
                                                Đỗ Chiêu Đức diễn nôm 
Còn Thi tiên Lý Bạch với ...

 
九月十日即事    (Ngày 10 tháng 9) CỬU NGUYỆT THẬP NHẬT TỨC SỰ
        
             昨日登高罷,           Tạc nhật đăng cao bãi
          今朝再舉觴。           Kim triêu tái cử trường.
          菊花何太苦,           Cúc hoa hà thái khổ,
          遭此兩重陽。           Tao thử lưỡng Trùng Dương .  
   
Chú Thích :
Mùng 9 tháng 9 gọi là Tiết Trùng Dương, hái hoa cúc, uống rượu cúc, nhưng...
Mùng 10 tháng 9 gọi là Tiểu Trùng Dương, lại hái hoa cúc, lại uống rượu cúc.
Chỉ trong hai ngày, hoa cúc BỊ HÁI, BỊ VÙI DẬP đến 2 lần. Lý Bạch ví thân phận đi đày của mình giống như là hoa cúc liên tiếp bị vùi dập vậy, nên mới hạ 2 câu cuối là : "Cúc hoa hà thái khổ, Tao thử lưỡng Trùng Dương". Có nghĩa : Hoa Cúc sao mà lại khổ thế, phải gặp cái nạn của 2 lễ Trùng Dương nầy !
KHỔ 苦 là Khổ sở, Cực khổ. KHỔ cũng có nghĩa là ĐẮNG nữa ! Tân là Cay, nên Tân Khổ là Cay Đắng, Đắng Cay!
Diễn nôm :
                      Chuyện của ngày mười tháng chín
                            Hôm qua sau leo núi,
                            Sáng nay lại nâng ly.
                            Hoa Cúc sao mà khổ,
                            Trùng Dương đến nhị kỳ !
                                                Đỗ Chiêu Đức diễn nôm

Nhưng nổi tiếng và tiêu biểu nhất cho lễ Trùng Cửu là bài thơ của Thi Phật Vương Duy....

《九月九日憶山東兄弟》CỬU NGUYỆT CỬU NHẬT ỨC SƠN ĐÔNG HUYNH ĐỆ
       
               獨在異鄉為異客         Đôc tại dị hương vi dị khách,
           每逢佳節倍思親。   Mỗi phùng giai tiết bội tư thân.
               遙知兄弟登高處     Diêu tri Huynh đệ đăng cao xứ,
           遍插茱萸少一人。   Thiên tháp thù du thiểu nhất nhân !
                         
Chú Thích :
Khi làm bài thơ nầy Vương Duy chỉ mới 17 tuổi, đang xa nhà đến Trường An để mưu cầu công danh. Nhà ông ở Bồ Châu, phía đông của núi Hoa Sơn, nên mới đề tựa là " Ức Sơn Đông Huynh Đệ ". Bài thơ nổi tiếng với 2 câu đầu mà không có người du tử nào không trầm trồ với 2 từ " dị hương, dị khách ".

Nghĩa bài thơ :
Mùng chín tháng chín nhớ anh em ở phía đông núi.
Ta một mình ở nơi đất lạ làm người khách lạ, nên mỗi lần gặp Lễ Tết là lại nhớ người thân thêm bội phần. Ta biết rằng ở nơi xa xôi kia, anh em ta đang đăng cao trong ngày lễ nầy, và mỗi người đều có giắt một nhánh Thù Du lên áo, chỉ thiếu có một người không được giắt là ta đây mà thôi !

 Diễn nôm :
                Xứ lạ quê người làm khách lạ,
                   Mỗi lần lễ tết nhớ khôn nguôi.
                   Anh em mùng chín đăng cao đó,
                   Đều giắt thù du thiếu một người !
   Lục bát  :
                   Đơn thân xứ lạ quê người,
                   Mỗi khi lễ tiết ngậm ngùi nhớ nhau.
                   Quê xa huynh đệ đăng cao,
                   Thù du giắt áo nghẹn ngào riêng ta !
                                                   Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm


    Để kết thúc bài viết, mời tất cả cùng đọc bài thơ CỬU NHẬT ĐĂNG CAO của Thi Thiên Tử Vương Xương Linh sau đây :

  九 日 登高            CỬU NHẬT ĐĂNG CAO         
                                                      
青山遠近帶皇州,   Thanh sơn viễn cận đới hoàng châu,
霽景重陽上北樓。   Tễ cảnh trùng dương thướng bắc lâu.
雨歇亭臯仙菊潤,   Vũ yết đình cao tiên cúc nhuận,
霜飛天苑御梨秋。   Sương phi thiên uyển ngự lê thu.
茱萸插鬓花宜寿,       Thù du tháp mấn hoa nghi thọ,
翡翠橫釵舞作愁。   Phỉ thúy hoành thoa vũ tác sầu.
謾說陶潛籬下醉,   Mạn thuyết Đào Tiềm ly hạ túy,
何曾得见此风流。    Hà tằng đắc kiến ​​​​thử phong lưu ! 
*CHÚ THÍCH :
- Hoàng Châu 皇州 : là Vùng châu thổ của hoàng thành.
- Tễ Cảnh 霽景 : là Cảnh trí lúc trời vừa mới tạnh mưa.
- Đình Cao 亭臯 : là Bờ, luống chung quanh đình.
- Thiên Uyển 天苑 : là Vườn hoa của Thiên Tử.
- Ngự Lê 御梨 : là Cây lê trồng trong vườn ngự uyển.
- Thù Du 茱萸 : là loại cây ăn trái được thu hoạch vào khoảng cuối tháng 6. Cây lá có tính sát trùng tiêu độc, ngừa phong đón gió, nên trong ngày Lễ Trùng Cữu dân gian hay bẻ một nhánh lá nhỏ giắt bên mình để "trừ tà", để được bình an khoẻ mạnh nên ngày lễ nầy còn được gọi là Tiết Thù Du. Thù Du là trái cherry ở Mỹ đó.
- Mạn Thuyết 謾說 : Ta còn nói thành Mạn Đàm, là nói lan man, nói chơi về người nào hoặc việc gì đó.
- Đào Tiềm 陶潛 : tức Đào Uyên Minh, là một ẩn sĩ cao nhã đời Tấn, thích hoa cúc và chuyên trồng cúc ở bờ giậu phía đông, nổi tiếng với câu : Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến nam sơn 採菊東籬下 悠然見南山. Có nghĩa : Hái cúc ở rào phía đông, xa xa trông thấy núi nam.


* NGHĨA BÀI THƠ :
NGÀY CHÍN LÊN CAO
Núi xanh gần gần xa xa như là một vành đai bao quanh mảnh đất của hoàng thành. Cảnh vật sau cơn mưa của Tiết Trùng Dương khi lên lầu phía bắc để ngắm nhìn. Những luống hoa cúc tiên bên đình mượt mà hơn sau cơn mưa, và những trái lê trong vườn ngự uyển ửng hồng hơn khi nhuốm sương thu. Nhánh thù du cài lên tóc mai cùng với hoa cúc là hoa trường thọ, giống như là cành trâm phỉ thúy lắc lư trên mái tóc khi đang ca múa càng gợi niềm sầu. Đừng nói là Đào Tiềm say dưới giậu hoa cúc là vô cớ, vì trong đời ta há dễ được mấy lần nhìn ngắm cái cảnh phong lưu tao nhã nầy ?!


Vương Xương Linh là nhà thơ biên tái nổi danh thời Thịnh Đường, nổi tiếng là Thánh thủ của thơ Thất ngôn Tứ tuyệt và là Thi Thiên Tử của đương thời, cùng với Thi Tiên Lý Bạch, Thi Phật Vương Duy, Cao Thích, Sầm Tham và Vương Chi Hoán giao tình rất hậu. Những bài thơ tả cảnh ghi lại các phong tục dân gian như bài thơ nầy rất hiếm thấy trong thi phẩm của ông, nên được mọi người rất trân qúi.


DIỄN NÔM :
Mùng Chín Đăng Cao

Núi xanh vây phủ lấy hoàng châu,
Trời tạnh Trùng Dương lên bắc lâu.
Đình cúc sau mưa vàng sắc mượt,
Ngự lê sương nhuốm ửng màu thu.
Thù du cài lẫn hoa trường thọ,
Phỉ thúy vắt chung tóc gợi sầu.
Chả trách Đào Tiềm say dưới giậu,
Bao lần được thấy nét phong lưu ?!
Lục bát :
Núi xanh cao thấp bốn phương,
Hoàng thành trời tạnh Trùng Dương lên lầu.
Sau mưa luống cúc tươi màu,
Nhuốm sương lê cũng đỏ au trong vườn.
Thù du cài tóc thọ trường,
Lắc lư phỉ thúy vấn vương mối sầu.
Đào Tiềm say khước vì đâu
Trong đời há dễ qua cầu phong lưu ?!

Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 Hẹn bài viết tới !

                                                                        Đỗ Chiêu Đức 杜紹德




9/27/23

Tạp Ghi và Phiếm Luận : - TẾT TRUNG THU


TẾT TRUNG THU chữ Nho gọi là TRUNG THU TIẾT 中秋節. Một năm có 4 mùa, gọi là Tứ Qúy 四季, mỗi một qúy có 3 tháng, chia làm Mạnh, Trọng, Qúy 孟、仲、季 3 phần; nên theo Âm lịch, Tháng Bảy là Mạnh Thu 孟秋, tháng Tám là Trọng Thu 仲秋 và Tháng Chín là Qúy Thu 季秋. Tết Trung Thu nằm trong Tháng Tám nên còn gọi là Tiết Trọng Thu 仲秋節.

Tết Trung Thu năm nay nhằm ngày 29.09.2023.

TẾT TRUNG THU là ngày rằm (15) tháng Tám Âm lịch với tiết trời trong vắt, nên ta thấy trăng tròn, to và sáng hơn những tháng trước đó, vì thế nên dân gian còn gọi đêm rằm tháng Tám là NGUYỆT TịCH 月夕, có nghĩa là Đêm Trăng, vì mọi người cùng nhau ngắm trăng nên còn gọi là Tiết NGOẠN NGUYỆT 玩月, và vì dân gian có tục lệ cúng trăng nên lại có tên là Tiết BÁI NGUYỆT 拜月, nhất là các cô gái đương xuân mới lớn, lòng xuân phơi phới bái nguyệt để gởi gắm những ước nguyện trong lòng, nổi tiếng nhất trong lịch sử cổ xưa là Điêu Thuyền Bái Nguyệt 貂嬋拜月. Nên ngày rằm tháng Tám còn được gọi là ngày NỮ NHI TIẾT 女兒節, là ngày lễ hội của các cô gái mới lớn.

Môt trong những khúc hát nổi tiếng ở các giáo phường của đời Đường là Bái Tân Nguyệt 拜新月, có nghĩa là "Lạy mừng trăng mới", có nguồn gốc xa xưa từ đời Tần Hán, mãi cho đến đời Đường mới thịnh hành tục lệ cúng trăng nầy. Gọi là cúng vầng trăng mới, chứ thực ra chỉ có ngày Thất Tịch, mùng bảy tháng bảy âm lịch là trăng mới thôi, còn thì đa số các bà các cô cúng trăng vào ngày Trung Thu rằm tháng tám. Cúng để ước nguyện gặp được người chồng tốt, hay gia đạo bình an hạnh phúc, nhất là luôn luôn được đoàn viên sum họp một nhà, như khi nàng cung nữ của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều được tuyển vào cung đã mơ ước cùng nhà vua :

Mượn điều Thất Tịch mà thề bách niên !

Còn các cô gái đương xuân với lòng xuân phơi phới thì bái lạy vầng trăng bất cứ lúc nào để ước ao và để gởi trao tâm nguyện, như bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt rất nổi tiếng của Lý Đoan (李端) đời Đường sau đây :

開簾見新月, Khai liêm kiến tân nguyệt,
即便下階拜。 Tức tiện hạ giai bái.
細語人不聞, Tế ngữ nhân bất văn,
北風吹裙帶。 Bắc phong xuy quần đái.


Có nghĩa :
Vén rèm ra thấy vầng trăng mới, nàng bèn bước ngay xuống thềm mà vái lạy. Lầm rầm khấn khứa nhỏ to không ai nghe biết được gì, chỉ thấy dải lụa đào thắt lưng phất phơ trước làn gió bấc mà thôi !

Dịch thơ:
Cuốn rèm thấy ánh trăng trong,
Xuống thềm qùy lạy lầm rầm ước ao.
Khấn chi ai biết được nào...
Bắc phong phe phẩy lụa đào phất phơ !

Trăng rằm Trung Thu còn là một khối Đoàn Viên 團圓, ĐOÀN là Khối tròn, VIÊN là Tròn trịa không sứt mẻ. Nên ĐOÀN VIÊN là một khối tròn đầy đặn hoàn hảo. Gia Đình Đoàn Viên 家庭團圓 là tất cả những thành viên trong gia đình đều về hội tụ đầy đủ không thiếu ai cả. Nên TẾT TRUNG THU còn được gọi là ngày TẾT ĐOÀN VIÊN 團圓節. Người du tử ngày xưa lang bạt giang hồ, hay những thương nhân buôn bán phương xa... nhưng đến Tiết Trung Thu cũng phải rán cố gắng quay về để gia đình được đoàn viên mà cùng ngắm trăng tròn đón Tết. Những ai không về được nhà thì ngắm trăng Trung Thu cũng nhớ về quê nhà, như Thi Tiên Lý Bạch đã viết trong bài Tĩnh Dạ Tư 靜夜思 :

床前明月光, Sàng tiền minh nguyệt quang,
疑是地上霜。 Nghi thị địa thượng sương.
舉頭望明月, Cử đầu vọng minh nguyuệt,
低頭思故鄉。 Đê đầu tư cố hương !

Có nghĩa :
Trước đầu giường nhìn ánh trăng sáng bàng bạc khắp nơi, cứ ngỡ như là sương gieo đầy mặt đất. Ngẩn đầu lên nhìn vầng trăng sáng tròn trịa, nên cúi đầu xuống lại nhớ đến cố hương ! Nhớ đến gia đình không thể về được để đoàn viên như vầng trăng đầy đặn.

Dịch thơ:
Trước giường nhìn trăng sáng,
Ngỡ sương gieo khắp nơi,
Ngẩn trông trăng đầy đặn,
Nhớ quê dạ bời bời !

Còn Thi Thánh Đỗ Phủ trong bài Nguyệt Dạ Ức Xá Đệ 月夜憶舍弟 (Đêm trăng nhớ về em trai) nổi tiếng với 2 câu thơ bất hủ là :

露從今夜白, Lộ tòng kim dạ bạch,
月是故鄉明。 Nguyệt thị cố hương minh.

Có nghĩa :
Đêm nay sương trắng từ đây,
Quê nhà trăng mới sáng đầy khắp nơi !

Từ nay sương thu trắng sẽ phủ khắp nơi, nhưng chỉ có vầng trăng ở quê nhà là sáng nhất mà thôi ! Cũng cùng một ánh trăng, nhưng trong mắt kẻ tha hương vầng trăng của xứ người vẫn lạnh lẽo cô đơn và luôn gợi nhớ đến vầng trăng ấm áp vui tươi ở quê nhà. 

Nhất là những người yêu nhau càng nhớ nhau lắm trong những đêm trăng. Như trong bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn 望月懷, ngắm trăng mà nhớ về nơi xa của Trương Cửu Linh 張九齡 thi nhân đời Đường với 4 câu đầu như sau :

海上生明月, Hài thượng sanh minh nguyệt,
天涯共此時。 Thiên nhai cộng thử thời.
情人怨遥夜, Tình nhân oán diêu dạ,
竟夕起相思。 Cánh tịch khởi tương tư...

Có nghĩa :
Trăng lên trên biển khơi,
Cùng lúc khắp chân trời.
Người yêu xa vắng quá,
Đêm thương nhớ khôn nguôi !......

Từ xưa đến nay, vầng trăng Trung Thu cũng gợi nên biết bao ý thu cho thi nhân, hãy đọc bài thơ "Thập Ngũ Dạ Vọng Nguyệt Ký Đỗ Lang Trung 十五夜望月寄杜郎中 của Vương Kiến 王建 sau đây sẽ rõ :


中庭地白樹棲鴉, Trung đình địa bạch thụ thê nha,
冷露無聲濕桂花. Lãnh lộ vô thanh thấp quế hoa.
今夜月明人盡望, Kim dạ nguyệt minh nhân tẫn vọng,
不知秋思落誰家. Bất tri thu tứ lạc thuỳ gia ?!

Có nghĩa :
Trong sân sáng trắng qụa nương cây,
Lặng lẽ sương sa hoa quế lay.
Trăng sáng đêm nay ai chẳng ngắm,
"Ý thu" ai biết ... lạc nhà ai ?!

Càng thi vị hóa ánh trăng hơn với bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt "Ức Đông Sơn 憶東山" của Thi Tiên Lý Bạch :

不向東山久, Bất hướng Đông Sơn cửu,
薔薇幾度花。 Tường vi kỷ độ hoa.
白雲還自散, Bạch vân hoàn tự tán,
明月落誰家。 Minh nguyệt lạc thùy gia ?!

Có nghĩa :
Đông Sơn lâu qúa không qua,
Tường vi mấy độ hoa đà phôi phai.
Ngẩn ngơ mây trắng còn bay...
Trăng vàng rụng xuống nhà ai đêm này ?!


Vầng trăng, ánh trăng, bóng trăng... trong văn học và cả trong dân gian cũng có rất nhiều tên để gọi. TRĂNG chữ Nho là NGUYỆT 月, theo thần thoại Trung Hoa trong mặt trăng có cây quế, nên còn gọi trăng là Vầng NGUYỆT QUẾ 月桂, và vì trong trăng còn có những vùng tranh tối tranh sáng, nên lại gọi là QUẾ PHÁCH 桂魄, như 2 câu đầu trong bài thơ Thu Dạ Khúc 秋夜曲 của Vương Nhai 王涯 đời Đường là :

桂魄初生秋露微, QUẾ PHÁCH sơ sanh thu lộ vi,
輕羅已薄未更衣。 Khinh la dĩ bạc vị canh y.

Có nghĩa :
TRĂNG vừa mới mọc sương thu nhẹ,
Mỏng mảnh áo là chửa kịp thay.

Ngoài QUẾ PHÁCH, trăng còn được gọi là QUẾ CUNG 桂宫 mà thi sĩ Tản Đà nhà ta đã gọi là CUNG QUẾ trong bài thơ "Muốn Làm Thằng Cuội":

Đêm thu buồn lắm! CHỊ HẰNG ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
CUNG QUẾ đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều tả nàng cung nữ thất sủng trong cung với tâm trạng :

Trong CUNG QUẾ âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần...

CHỊ HẰNG tức Hằng Nga, người Hoa ít khi gọi bằng HẰNG NGA 姮娥, mà thường gọi Chị Hằng là THƯỜNG NGA 嫦娥. Như trong bài thơ "Thường Nga 嫦娥" của Lý Thương Ẩn trong buổi tàn Đường :

雲母屏風燭影深, Vân Mẫu bình phong chúc ảnh thâm,
長河漸落曉星沉. Trường hà tiệm lạc hiểu tinh trầm.
嫦娥應悔偷靈藥, THƯỜNG NGA ưng hối thâu linh dược,
碧海青天夜夜心. Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm !








Có nghĩa :
Bình phong Vân mẫu nến lay thềm,
Sao rụng Ngân hà trở sáng thêm.
Trộm thuốc HẰNG NGA chừng tiếc nuối,
Trời xanh biển biếc hận đêm đêm !

Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du gọi Trăng là GƯƠNG NGA, BÓNG NGA. Trong buổi đầu khi Kim Kiều gặp gỡ; lúc trở về nhà, đêm đó khi :

GƯƠNG NGA chênh chếch vòm sông,
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.
Hải đường lã ngọn đông lân,
Giọt sương trĩu nặng cành xuân la đà...
thì Thúy Kiều đã :
Một mình lặng ngắm BÓNG NGA,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời !...

Theo thần thoại Trung Hoa, Thường Nga hay Hằng Nga là vợ của anh hùng xạ nhựt Hậu Nghệ 后羿, người đã bắn rơi chín cái mặt trời là chín con qụa lửa thiêu đốt nhân gian, nên được bà Tây Vưong Mẫu tặng cho viên thuốc trường sinh bất tử. Hằng Nga đã lén trộm thuốc của chồng uống vào, nên thân hình nhẹ nhõm bay lên và bay tuốt... vào cung trăng lạnh lẽo, rồi trở thành chủ nhân của cung Quảng Hàn và con Thỏ Ngọc giả thuốc trường sinh. Vì tích nầy mà mặt trăng còn được gọi là QUẢNG HÀN CUNG 廣寒宫 hay CUNG QUẢNG, như khi Thúy Kiều nhớ Thúc Sinh lúc chàng về thăm Hoạn Thư :

Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như CUNG QUẢNG Ả HẰNG nghĩ nao !
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa Vành Trăng khuyết, ba sao giữa trời !


Vì có con Thỏ Ngọc giã thuốc trong trăng, nên mặt trăng còn được gọi là NGỌC THỐ 玉兔. Khi Vương Quan kể lể về thân thế của ca nhi Đạm Tiên đã kết bằng 2 câu :

Trãi bao THỎ LẶN ÁC TÀ,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm !

THỎ LẶN là Trăng lặn, ÁC TÀ là Mặt Trời chiều; Trăng lặn là hết đêm, Mặt Trời về chiều là hết ngày. Nên THỎ LẶN ÁC TÀ chỉ ngày tháng qua đi. "Trãi bao THỎ LẶN ÁC TÀ," là biết bao là ngày tháng đã qua đi !

Cũng theo thần thoại Trung Hoa, trong cung trăng lại có con Thiềm Thừ 蟾蜍 (con cóc) ba chân; vì các hố thiên thạch trên bề mặt mặt trăng trông giống như các hoa văn trên lưng con Thiềm Thừ; Lại có tích cho rằng vì Hằng Nga trộm thuốc bay lên cung trăng nên mới bị trời phạt biến thành con Thiềm Thừ tinh. Vì thế người Hoa còn gọi Cung Trăng là THIỀM CUNG 蟾宫. Trong bài thơ Ức Giang Thượng Ngô Xử Sĩ 憶江上吳處士của Thi Nô Giả Đảo 賈島 có câu :

閩國揚帆去, Mân quốc dương phàm khứ,
蟾蜍虧復圓。 THIỀM THỪ khuy phục viên.

Có nghĩa :
Mân Nam giương buồm tách bến,
THIỀM THỪ đang khuyết đã tròn.

Còn trong truyện Nôm khuyết danh Trinh Thử của ta cũng có câu :

THIỀM CUNG bóng đã tà tà,
Khuyên rằng mau trở lại nhà với con.

Trong cung trăng còn có một nhân vật nam là Ngô Cương 吴剛, vốn là lính gác Nam Thiên môn, tình cờ gặp được Hằng Nga qúa đẹp, nên ở lại cung trăng chơi một ngày, bị Ngọc Đế phạt phải đốn cây Quế trong cung Quảng Hàn. Tương truyền hễ Ngô Cương ban cành quế cho ai thì người đó sẽ thi đỗ Trạng Nguyên, vì thế mà hình thành thành ngữ THIỀM CUNG CHIẾT QUẾ 蟾宫折桂. Có nghĩa là "Bẻ Quế Cung Thiềm" để chỉ những người thi đậu. Trong truyện Nôm khuyết danh Phạm Tải Ngọc Hoa của ta cũng có câu :

Những mong BẺ QUẾ nên danh,
Mà đền công dưỡng sinh thành hai thân.

Qua đến Việt Nam ta thì Ngô Cương thành Chú Cuội, và Cành Quế thành Cành Đa. Cũng trong bài thơ "Muốn Làm Thằng Cuội" của Tản Đà cũng có câu :

CUNG QUẾ đã ai ngồi đó chửa ?
CÀNH ĐA xin chị nhắt lên chơi !

Tục lệ cúng trăng đã có từ xa xưa, nhưng đến đời Tùy, Đường mới thật sự thịnh hành các lễ ngoạn nguyệt, thưởng nguyệt, bái nguyệt; và đến đời Nam Bắc Tống thì tất cả nam phụ lão ấu, giàu nghèo qúy tiện gì đều cúng trăng vào đêm rằm tháng tám, cầu cho gia đạo bình an, đoàn viên hạnh phúc. Vật cúng thường là các loại qua qủa 瓜果 là dưa trái có hình tròn, như bưởi bồng, thị (trái hồng), dưa hấu, khoai môn được xắt thành từng khoanh tròn, bánh in bánh đậu xanh, bánh được làm bằng các loại mứt, loại hạt... có hình tròn gọi là BÁNH TRUNG THU tượng trưng cho trăng tròn và cũng là niềm mơ ước cho gia đình cũng mãi mãi được đoàn viên hạnh phúc. Đến đời Minh, Thanh thì các tục lệ đón Tết Trung Thu càng đa dạng hơn với các hoa đăng đủ loại, múa lân múa rồng, thả đèn trời để cầu an...

TẾT TRUNG THU qua đến Việt Nam ta thì lại diễn tiến thành TẾT NHI ĐỒNG với các lồng đèn đủ loại... Người lớn thì cũng mừng trăng cúng trăng và thưởng thức Bánh Trung Thu, nhưng trẻ em thì lại vui mừng hơn vì được dịp rước đèn như lời hát...

TẾT TRUNG THU đốt đèn đi chơi,
Em đốt đèn đi khắp phố phường...


Trước mắt, người Châu Á chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở rải rác khắp các châu lục; nhất là sau 1975, người Việt Nam ta cũng hiện diện khắp nơi trên thế giới. Tuy định cư ở nước ngoài, nhưng cứ mỗi lần Trung Thu ngắm cảnh trăng tròn thì lại nhớ đến chốn cũ quê xưa, nhớ về làng xưa người cũ... rồi cũng phải đành âm thầm ngâm hai câu thơ của Tô Đông Pha trong Thủy Điệu Ca Đầu 水調歌頭 để cùng an ủi nhau :

但願人長久, Đản nguyện nhân trường cửu,
千里共嬋娟。 Thiên lý cộng THUYỀN QUYÊN.*

Có nghĩa :
Những mong người mãi trường tồn,
Cùng chung ngàn dặm trăng tròn một thôi !


Chỉ cần còn sống để ngắm trăng, thì tuy có cách trở xa xôi ngoài ngàn dặm, ta cũng nên cảm thấy yên ủy vì cũng cùng ngắm chung một vầng trăng nầy mà thôi !

Cầu mong cho tất cả mọi người đều có được một cái TẾT TRUNG THU sum vầy vui vẻ, ĐOÀN VIÊN như ánh trăng rằm tháng Tám vằng vặc mãi trên không.

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức




* THUYỀN QUYÊN 嬋娟 : là từ chỉ các cô gái có thân hình yểu điệu đẹp đẽ; ở đây Tô Đông Pha mượn để chỉ vầng trăng tròn, sáng và đẹp của đêm Trung Thu. Bài từ "Thủy Điệu Ca Đầu 水調歌頭" của Tô Đông Pha 蘇東坡 đã được nhạc sĩ Lương Hoằng Chí 梁弘志 phổ nhạc và danh ca Đài Loan Đặng Lệ Quân 鄧麗君 hát. Mời tất cả cùng thưởng thức ... 鄧麗君 《但願人長久》 ~ 千里共嬋娟 ♥ Teresa Teng

8/1/23

THẮM THOÁT NĂM MƯƠI NĂM

Một bài thơ trường thiên tả lại mối tình đầu của tác giả thời niên thiếu, trọ học  Cần Thơ. 


                                      Thắm thoát thời gian khéo hững hờ
                                      Bóng câu, cửa sổ, thoáng như mơ
                                      Năm mươi năm cũ tình đeo đẳng
                                      Còn ngỡ hôm nào, khi tuổi thơ....
                                       ........................................................
                               Năm mươi năm cũ tình chưa cũ
                               Còn nhớ không em tự thuở nào
                               Hai đứa tung tăng cùng đến lớp
                               Tan trường chung lối vẫn bên nhau.

                                       Em như Ngọc Nữ ngây thơ quá
                                       Đuổi bướm vờn hoa dại bên rào
                                       Anh thì ngờ nghệch nhìn ngơ ngác
                                       Chỉ cười khi thấy bướm bay cao.

                                 Phụng phịu dỗi hờn như trách móc
                                 Suốt buổi lặng thinh chẳng nói gì
                                 Anh ghẹo em cười ba bốn bận
                                 Khi nhìn " Hồ điệp mãn viên phi "....(1)
                                 .....................................................
                                        Lần lữa, thời gian êm ả trôi
                                        Em tròn mười sáu, anh thế thôi,
                                        Sáng chiều hai buổi Phan Thanh Giản
                                        Bốn lượt đi về vẫn có đôi.

                                   Xe đạp song song giữa nắng chiều
                                   Thướt tha trong gió nhẹ hiu hiu
                                   Phất phơ áo trắng bay theo gió
                                   Xao xuyến lòng anh tuổi chớm yêu !

                                           Ngây thơ nào biết đến tình ai
                                           Em vẫn vô tư rạng nét ngài
                                           Nhìn anh vẫn mỉm cười trong nắng
                                           Để mặc gió lùa tóc rối bay...

                                     Mười sáu em như nụ mai xanh
                                     Trong trắng trinh nguyên giấc mộng lành
                                     Đâu biết lòng anh đang rạo rực
                                     Mỗi chiều trong nắng gió mong manh.

                                            Từ đó anh thường hay ngẩn ngơ
                                           " Thi nhân Tiền Chiến " lẫn trong mơ
                                             Anh ngồi chép mãi thơ người khác
                                             Đâu biết chuyện mình cũng nên thơ.

                                     Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trong Lư....
                                     Đọc cả Đường thi lẫn Tống từ....
                                     Chép mãi trăm lần " Tình thứ nhất ,
                                      Đem cho em kèm với một lá thư... "(2)

                                              Một buổi chiều kia anh đánh bạo
                                              Kẹp thư trong sách tỏ tình... thân
                                              Thẹn thùa ba, bốn, năm  ngày tiếp
                                              Em chẳng nhìn anh lấy một lần !...

                                       Im lặng, khiến lòng anh thấp thỏm
                                       Hỏi thì...Em lại bẳng như không :
                                       " Thấy ghét ! ". Em làm anh bối rối,
                                       Nhưng " ghét " là... yêu đó, phải không ?
                                      ..........................................................

                                                Rồi những chiều xuân ta có nhau
                                                " Thầy Cầu " vườn biếc, lá lao xao
                                                " Ninh Kiều " gió lộng, bao lưu luyến
                                                " Nhẹ bước " Đàn Tiên ", những buổi nào !(3)

                                      Anh với em như Điệp với Lan
                                   " Thanh mai trúc mã " đẹp muôn vàn
                                      Võ vẽ thơ Đường anh đọc thấy
                                      Chuyện mình sao giống khúc " Trường Can "...(4)

                    Em bảo, em yêu thơ Thái Can
                    Thương người thiếu nữ khóc hoa lan
                    Ghét anh Hồ Dzếnh " Tình... dang dở "
                    Chê chàng Nguyễn Bính "... bước sang ngang "(5)

                                        Em muốn duyên ta kết Tấn Tần
                                        Muôn đời vạn kiếp mãi không phân
                                        Xinh như Ngọc Nữ Tiên Đồng ấy
                                        Sớm dạo vườn đào, tối sông Ngân...

                                                Tiếc thay anh chẳng phải Tiên Đồng
                                                Mơ mộng em anh khéo viển vông !
                                                Mười sáu yêu nhau chừng quá sớm
                                                Nên ngòi ly biệt đã khơi dòng...

                                        Ấy thế, tình ta sớm nhạt màu
                                        Người đời miệng tiếng lắm xôn xao
                                       " Hộ đối môn đăng " muôn kiếp vẫn
                                        Là rào ngăn cách kẻ yêu nhau !

                                                 Em là gái " Khuê môn bất xuất " !
                                                 Phận anh nghèo " Bạch diện thư sinh "
                                                 Thói đời đen bạc cho nên nỗi
                                                 Dang dở vì đâu một chữ tình ?!


                                         Mười bảy anh thi rớt Tú Tài
                                         Lên đường viễn xứ một thân trai
                                         Cầu thực tha phương trong khói lửa
                                         Lòng còn trĩu nặng bóng hình ai !....

                                                  Nỗi biệt ly nào chẳng xót xa
                                                  Tiễn đưa không một chén quan hà (6)
                                                  Nhìn nhau cố nén lòng không khóc
                                                  Không khóc mà sao mắt cứ nhòa...
                                                  ...........................................................

                                   Từ ấy, đường đời ai nấy đi
                                   Các thành gia thất các tương nghi (7)
                                   Chạnh lòng giây phút khi nghe trẻ
                                   Hát bài " Hồ điệp mãn viên phi " !

                                           Trải bao thế thái với nhân tình
                                           Dâu bể, nổi chìm, lắm đảo khuynh
                                           Mới hay " Tình... đẹp, khi...dang dở " 
                                           Trách chi Hồ Dzếnh thuở bình sinh !

                                   Năm mươi năm cũ, tình đeo đẳng
                                   Lòng vẫn tơ vương... chiếc áo dài !
                                   Mỗi lúc nắng chiều phơn phớt gió
                                   Bồi hồi lại nhớ...áo ai bay !

                                             Những lúc trà dư tửu hậu tan
                                             Chạnh niềm cô lữ, buổi xuân tàn
                                             Chiều nay chợt thấy lòng xao xuyến
                                             Ngậm ngùi đọc lại khúc " Trường Can "...

                                    " Mai Trúc "  ngày xưa đã dở dang
                                     Phương trời cách biệt vẫn băn khoăn
                                     " Thanh Mai " vẫn thắm như ngày trước ?
                                     " Trúc Mã " giờ đây...đã cỗi cằn !
                                      ......................................................

                                              Thắm thoát thời gian khéo hững hờ
                                              Bóng câu, cửa sổ, thoáng như mơ
                                              Năm mươi năm cũ... tình đeo đẳng
                                              Còn ngỡ hôm nào, khi tuổi thơ !!!
                                                                                              
                                                                                      
                                                                                   Đỗ Chiêu Đức



GHI CHÚ :

            (1) " Hồ điệp mãn viên phi " là : Bướm bay đầy vườn, tên một bài hát của các học sinh Tiểu học trường Hoa trước đây, giống như bài " Kìa con bướm vàng..." , của ta vậy.

             (2) Trích dở bài thơ " Một mối tình " của nhà thơ Xuân Diệu :

                             Anh có một tình yêu thứ nhất
                             Đem cho em kèm với một là thơ
                             Em không lấy và tình anh đã mất
                             Tình đã cho không lấy lại bao giờ !

            (3) " Vườn Thầy Cầu , Bến Ninh Kiều, Đàn Tiên " là những nơi để dạo chơi, giải trí, cắm trại... của thanh niên học sinh ở Cần Thơ hồi khoảng thập niên 50-60. Hiện nay, chỉ còn lại có Bến Ninh Kiều.

           (4) " Thanh Mai Trúc Mã " là thành ngữ điển tích xuất xứ từ bài thơ Ngũ Ngôn Cổ Phong của Lý Thái Bạch đời Đường. Bài thơ có tên là " Trường Can Hành ", trong đó có hai câu :

                           Lang kỵ TRÚC MÃ lai                  郎騎竹馬來,
                           Nhiễu sàng lộng THANH MAI       繞床弄青梅.

thường dùng để chỉ trai gái quen nhau từ thuở nhỏ, lớn lên yêu nhau hoặc thành chồng vợ với nhau. Sau này dùng rộng ra còn để chỉ VỢ CHỒNG và được nói gọn lại thành " MAI TRÚC" hay " TRÚC MAI ", như trong truyện Kiều của Nguyễn Du :

                               Một nhà sum họp TRÚC MAI
                          Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông !
      Hoặc :
                                 Tưởng rằng MAI TRÚC lại vầy
                            Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau !

          (5) Trích dở câu thơ nổi tiếng của nhà thơ HỒ DZẾNH : " Tình chỉ đẹp khi còn dang dở ". Mới yêu nhau, ai cũng chê câu nầy cả, cũng như đều chê tên tập thơ cũng là tựa của bài thơ nổi tiếng của thi sĩ NGUYỄN BÍNH là " Lỡ bước sang ngang ".

          (6) Lấy ý thơ trong truyện Kiều của Nguyễn Du :

                                       Tiễn đưa một chén quan hà
                                  Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình !

          (7) " Các thành gia thất các tương nghi 各成家室各相宜 " là Mỗi người đều thành gia lập thất và đều có một gia đình êm ấm cả !