Showing posts with label Thơ Hán văn. Show all posts
Showing posts with label Thơ Hán văn. Show all posts

9/2/22

Sinh Tử - 生 死

 Dạo:

    Nhìn chân chẳng thấy bóng mình,

Nào hay thiên cổ đăng trình còn đâu!

 

Cóc cuối tuần:

 

     生 死

陽 光 滿 碧 空,
老 者 忽 忡 忡,
腳 下 無 人 影,
未 知 命 已 終.

陳 文 良

 

 

Âm Hán Việt:

 

         Sinh Tử

Dương quang mãn bích không, 

Lão giả hốt xung xung,

Cước hạ vô nhân ảnh,

Vị tri mệnh dĩ chung.

      Trần Văn Lương

 

 

Dịch nghĩa:

 

           Sống Chết

Ánh nắng đầy trời xanh,

Người già chợt lo lắng,

(Vì) dưới chân không thấy có bóng người,

(Vẫn) chưa hay là mạng đã hết.

 

Phỏng dịch thơ:

 

         Sống Chết

Lang thang dưới nắng hạ nung trời,

Ông lão chợt nghe dạ rối bời,

Nhìn đất, rụng rời, không thấy bóng,

Nào hay chết sống đã hai nơi.

          Trần Văn Lương

            Peru, 9/2022

 

 

Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư:

    Nắng chang chang mà người đi không thấy bóng!

    Quả có lý này ư ? Sinh ư ? Tử ư ? Làm sao phân biện?

    Tiếc thay Đạo Ngô! (*)

 

Chú thích:

(*) Bích Nham Lục, tắc 55, Đạo Ngô Bất Đạo:

Cử:

Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đến một nhà để điếu tang.

Tiệm Nguyên vỗ quan tài gỗ nói:

    -  Sống ư chết ư?

Đạo Ngô bảo:

    - Sống cũng không nói, chết cũng không nói.

Tiệm Nguyên bảo:

    - Tại sao không nói?

Đạo Ngô bảo:

    - Không nói không nói.

Về  đến nữa đường, Tiệm Nguyên bảo:

    - Hòa thượng mau nói cho tôi. Nếu không nói, tôi đánh

hòa thượng.

Đạo Ngô bảo:

    - Đánh thì cứ đánh, nhưng nói vẫn không nói.

Tiệm Nguyên bèn đánh.

Sau đó Đạo Ngô thiên hóa,Tiệm Nguyên đến Thạch Sương

kể lại lời trước.

Thạch Sương bảo:

    - Sống cũng không nói, chết cũng không nói.

Tiệm Nguyên bảo:

    - Tại sao không nói?

Thạch Sương bảo:

    - Không nói không nói.

Tiệm Nguyên dưới lời bèn có tỉnh.

Ngày kia Tiệm Nguyên cầm xuổng vào Pháp đường, đi từ phía

đông qua phía tây, từ phía tây qua phía đông.

Thạch Sương bảo:

    - Làm gì vậy?

Tiệm Nguyên bảo:

    - Tìm linh cốt của tiên sư.

Thạch Sương bảo:

    - Nước lớn chập chùng, sóng bạc tận trời, tìm linh cốt gì

của tiên sư?

Tuyết Đậu phê bình rằng: “ Trời xanh, trời xanh!”

Tiệm Nguyên bảo:

   - Vì thế cần phải nỗ lực.” 

Thái Nguyên Phù nói: “ Linh cốt tiên sư vẫn còn.” 

5/20/22

Dạ Hành Nhân - 夜 行 人

Dạo:

Sá chi trăm trượng đầu sào,
Ngại gì Đạo Lớn cửa vào vốn không!
Cóc cuối tuần:

夜 行 人

恬 恬 冬 冷 蓋 荒 村,
急 急 行 人 夜 裏 奔.
悄 悄 破 雲 尋 隱 月,
芒 芒 枯 葉 等 游 魂.
文 殊 妙 語 棼 無 著,
外 道 空 心 識 世 尊.
撒 手 懸 崖 昏 霧 散,
忽 知 大 法 本 無 門.

陳 文 良

3/17/22

Tống Biệt 送 別

Dạo

Giặc qua, thiên cổ réo mời,
Kẻ nơi phố thị, người nơi chiến trường

Cóc cuối tuần

送 別

賊 兵 已 越 邊,
君 打 仗 明 天.
烏 克 蘭 逢 難,
人 人 更 黯 然.

死 亡 在 面 前,
誰 此 夜 能 眠.
離 酒 和 君 飮,
壺 乾 慘 淚 漣.

敵 火 力 雖 強,
不 能 透 衛 牆.
征 人 償 國 債,
鮮 血 洒 當 場.

炸 彈 震 長 空,
故 居 沒 影 蹤.
征 夫 凶 信 到,
征 婦 早 身 亡.

陳 文 良

2/18/22

Bạch Đầu

Dạo:

Bạc đầu núi vẫn trơ trơ,
Bạc đầu người lại bơ vơ đáy mồ.

Cóc cuối tuần:

白 頭
雪 蓋 白 頭 峯,
登 山 白 髮 翁.
白 頭 峯 永 皜,
白 髮 老 終 亡.

陳 文 良

9/30/21

Đáo Lai

Dạo:

Qua bao chướng ngại trùng trùng,
May thay người đã cuối cùng đến nơi.

Cóc cuối tuần.


Dịch nghĩa:

Đến Nơi


Vội vàng muốn đi xem sóng Chiết giang, (1)
Sáng tối giày cỏ lướt trên đường như gió thổi.
Hè rực rỡ, đông điêu tàn, lòng luôn bền vững,
Núi cùng, sông tận, chân vẫn còn mạnh mẽ.
Rồng rắn điềm đạm gặp (chim) cánh vàng, (2)
Lừa ngựa lặng lẽ qua cầu đá. (3)
Đêm đen, ngọn gió thiền thổi tắt ngọn đuốc,
Hiểu biết của một đời chợt hoàn toàn tan biến. (4)

5/13/21

Đái Thạch Bổ Thiên

Dạo:
Vênh vang đội đá vá trời,
Nào hay sức mọn đá rơi nát đầu.
Cóc cuối tuần:

戴 石 補 天

長 空 一 破 禍 聯 翩
戴 石 狂 蛙 欲 補 天.
志 大 可 憐 才 力 淺,
石 沉 勁 竭 便 歸 仙.

陳 文 良

Âm Hán Việt:


Đái Thạch Bổ Thiên

Trường không nhất phá, họa liên phiên,
Đái thạch, cuồng oa dục bổ thiên.
Chí đại, khả liên tài lực thiển,
Thạch trầm, kính kiệt, tiện quy tiên.

Trần Văn Lương

Dịch nghĩa:

Đội Đá Vá Trời (*)

Trời xanh vừa mới vỡ, tai họa kế tiếp nhau,
Đội đá, con ếch ngông muốn vá trời.
Chí thì lớn, (nhưng) đáng thương tài sức kém,
Đá nặng, sức kiệt, lập tức bỏ mình.

Ghi chú:

(*) Theo thần thoại Trung Hoa, thì câu chuyện vá trời (Luyện Thạch Bổ Thiên 煉石補天) đại khái như sau:

Nơi thượng giới, một ngày kia thủy thần Cung Công (共工) làm phản đem quân gây loạn. Hỏa thần Chúc Dung (祝融) bèn đưa quân ra đánh dẹp, cuối cùng đã thắng. Cung Công bị thua, tức giận va đầu vào núi Bất Chu (不周) ở phía Tây. Núi này là một trong mấy cây trụ chống trời nay bị Cung Công đụng gãy, làm một góc trời bị vỡ. Do đó, nước của dòng Thiên Hà theo chỗ vỡ đó chảy xuống trần, gây nên bao thảm họa.

Trước cảnh tai ương nước lửa, bà Nữ Oa (女媧) không nỡ nhìn dân chúng khổ, bèn quyết chí vá lại trời. Bà bay đi khắp nơi, tìm đá ngũ sắc để làm vật liệu và cuối cùng đã vá lại được bầu trời. Nhưng núi Bất Chu đã bị đổ, bầu trời thiếu chân chống nên Nữ Oa lại lấy chân của con rùa lớn (ngao 鰲) để thế vào.

Từ đó nước của Thiên Hà không còn chảy xuống trần để gây họa cho dân nữa.

Phỏng dịch thơ:

Đội Đá Vá Trời


Chín tầng chợt vỡ, khổ nơi nơi,
Đội đá, ếch toan chuyện vá trời.
Mộng lớn, nhưng tài hèn đức mọn,
Đá chèn, sức mỏn, xác thân phơi.

Trần Văn Lương
Cali, 5/2021



Lời than của Phi Dã Thiền Sư:


Thương thay con ếch muốn làm bà Nữ Oa đội đá vá trời!

Mộng thì lớn, nhưng than ôi, tài hèn đức bạc nên cuối cùng đành phải mất mạng dưới tảng

đá mình đội!

Chữ danh cùng tham vọng làm hại con người đến thế ư?

Biết sáng suốt để tự lượng sức mình quả thật khó thay, hỡi ơi!

******



Dạo:

Phải đâu đáy giếng nghếch trời,

Chẳng qua mệnh số xô rơi xuống trần!

Vịnh Cậu Ông Trời

Gặp thời điên đảo khắp muôn nơi,

Dẫu trót mang danh Cậu của Trời,

Lạc giọng giữa cuồng phong bão loạn,

Uềnh oang, ồm ộp, ruột gan phơi.

AiCơ HoàngThịnh
Melb, 5/2021

3/13/21

Tam Nhân Đối Ẩm

Lá Thư Thụ Nhân

*
Tam Nhân Đối Ẩm

Anh Nguyễn Thanh Nhàn mến,

Nhận được thư anh là tôi trả lời liền. Trước hết, tôi cám ơn anh về một món nợ cũ : anh đã đến thăm anh Nguyễn Tường Cẩm lúc còn tỉnh. Trước khi đi, anh hỏi trên diễn đàn có ai muốn nhắn nhủ gì không ? Tôi nhờ anh hỏi Cẩm còn nhớ hay đã quên tôi. Anh cho biết là Cẩm gật đầu. Lúc sinh tiền, năm nào Cẩm cũng gửi cho tôi tấm thiệp xuân chụp cả đại gia đình, mỗi năm con cháu thêm đông.

Trong điện thư gửi trên Diễn Đàn bữa qua, anh nhắc lại hồi còn đi học, anh thấy tôi bên kia đường. Tôi chỉ là một học trò bình thường. Giá có phép thần thông, biết được tấm lòng của anh, tôi đã chạy sang để nói chuyện rồi.

Anh quê ở Mỏ Cầy, quê hương của mấy câu ca dao :

Bến Tre giàu mía Mỏ Cầy
Giàu nghêu Thanh Phú, giàu xoài Cái Mơn
Bình Đại biển cá sông tôm
Ba Tri ruộng muối, Giồng Trôm lúa vàng.

Nói như vậy để thấy anh là người chân thật. Anh lại có trí nhớ tuyệt vời. Anh kể giai thoại bầu cử Tổng Hội Sinh Viên giữa anh Hồ Văn Nhựt và tôi.

Cũng trong trí nhớ mênh mông của anh mới có câu chuyện tình cảm giữa anh và ‘‘một em gái học Văn khoa’’. Em Văn khoa hỏi anh xuất xứ bài thơ ‘‘Nguyệt Hạ Độc Chước’’ của Lý Bạch lúc anh chị ‘‘còn nằm trên giường’’.

Tôi có giỏi giang gì đâu. Chẳng qua tôi là người ngoài cuộc nên có ý kiến khách quan. Chỉ có vậy thôi. Anh hỏi thì tôi xin góp ý :

‘‘Trên giường’’ là không gian tình tứ, thơ mộng. Cô gái văn khoa chọn không gian này nói chuyện thơ chỉ là ‘‘tức cảnh sinh tình’’ mà thôi. Anh học CTKD. Cô nàng Văn khoa. Anh không trả lời được không có gì là đáng trách. Trong môn ‘‘Tu từ Văn thể’’, giáo sư có nói gì về Lý Bạch đâu. Chỉ vì không trả lời được mà anh tự cho mình là ‘‘một thứ lường gạt’’ là không đúng. Tôi thiết nghĩ người con gái Văn khoa yêu anh ở chỗ anh rất mực thành thực:

Tu thân rồi mới tề gia
Lòng ngay nói thật gian tà mặc ai.

Nhận được thư anh, tôi bỏ cả bữa ăn tối, trả lời tức thì.

Nhân đọc lại bài thơ Lý Bạch, tôi chuyển thể lục bát, viết tặng riêng người bạn chân thật mà tôi quý mến : anh Nguyễn Thanh Nhàn.


























Chuyển thể lục bát :

Ngắm trăng bình rượu còn đầy
Vườn hoa thơm ngát mê say một mình
Hằng Nga cùng bóng với hình
Tam nhân nhấm nháp một bình rượu cay

Chị Hằng ở tận cung mây
Bóng không biết uống, ta say một mình
Cùng trăng ta kết nghĩa tình
Niềm vui xuân mới có mình có ta

Nghe ta hát khúc xuân ca
Hằng Nga không muốn lìa xa cõi trần
Ta say múa với cung đờn
Nhịp nhàng nhảy múa bóng vờn cung mây

Khi say bè bạn ngất ngây
Còn khi tỉnh giấc đông tây giao hòa
Tình thân mãi mãi chẳng nhòa
Thề non hẹn biển Thiên Hà gặp nhau.

dịch thơ (11/03/2021)

1/21/21

Lời Hứa Không Tròn

Kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần.

Dạo:

Trách em sao vội về trời,
Trách anh sao mãi còn nơi dương trần.

I. Cóc cuối tuần Phú Lang Sa:

La Promesse Rompue

(Cho những ai đang buồn đau vì lẻ bạn)

Que c'est loin le jour où nous deux,
Les yeux imprégnés de tendresse,
Et le cœur inondé d'ivresse,
Nous avons échangé nos vœux.

Nous nous sommes alors promis
Que, durant ce séjour sur terre,
Quoi qu'il nous advienne, ma chère,
Nous ne serions point désunis.

Mais parvient soudain ton trépas,
La vie dès lors n'est qu'un orage.
Hélas, je manque le courage
De suivre d'emblée dans tes pas.

Est-ce par toi, brisant le vœu,
Ou par moi, rompant la promesse,
Que nous devons vivre en détresse,
Toi dans les cieux, moi dans ce lieu?

Chérie, je ne sais pas pourquoi
Dieu t'a déplacée de ce monde,
Laissant cette âme vagabonde
Traînasser ici-bas sans toi.

Trần Văn Lương
Cali, 1/2021

12/11/20

Tượng Bùn - 泥 像

Kính gửi quý anh chị con cóc cuối tuần.

Dạo:
Tưởng rằng tượng đất đã chìm,
Lang thang khắp nẻo kiếm tìm uổng công.
Cóc cuối tuần:

泥 像


泥 像 落 江 中,
須 臾 不 見 蹤.
薄 舟 逢 巨 浪,
炎 日 炕 憔 容.
鬼 魅 終 由 鏡,
家 珍 永 在 胸.
歸 叢 林 忽 懂,
像 總 未 離 宮.

陳 文 良

12/2/20

Mộ Yên - 暮煙 | Khói Chiều

 


日 斜 倚 棹 滄 茫 立,
冉 冉 寒 江 起 暮 煙。

Nhật tà ỷ trạo thương mang lập,
Nhiễm nhiễm hàn giang khởi mộ yên.

Nguyễn Trãi 阮廌
(1380-1442)

Khói sóng trường giang buổi xế chiều
Sông sầu nước cuốn dạ cô liêu.



LĐT


* * *


Bếp lửa nhà ai khói thở dài
Vương cùng gió cuốn nhớ miên man
Trời chiều chạng vạng chim về tổ
Tuổi tác qua đi một quãng dài
Nhớ nước bây chừ là kỷ niệm
Thương nhà tứ tán chẳng còn ai
Mùa đông đất khách buồn tê tái
Tuyết sương tô vẽ nét bi ai.




Mùa đông Paris (2020)

8/13/20

Khúc Ca Chiều

 Dạo:

       Chiều tàn, khúc hát buồn rơi,

Hoang mang cất bước, lệ khơi đôi dòng.

Cóc cuối tuần:

 

     

,

.

,

.

,

.

,

.

               

 

Âm Hán Việt:

           Mộ Ca

Nhật tàng, địa ám, lãnh phong xuy,

Lão giả lộ bàng một xứ quy.

Luy nhạn ly quần truy cựu tích,

Hắc vân kiến bích trở tàn huy.

Nhân tâm dĩ biến, phì nhan hách,

Quốc vận hoàn nguy, bạch phát hy.

Hải thượng phù bi ca nhất khúc,

Man han cử túc, lệ châu thùy.

 Trần Văn Lương

7/21/20

Thời gian Đại dịch : Thu sầu


Thời gian Đại dịch :
Thu sầu




水調歌頭-中秋
明月幾時有,
把酒問青天。
不知天上宮闕,
今夕是何年。
我欲乘風歸去,
又恐瓊樓玉宇,
高處不勝寒。
起舞弄清影,
何似在人間。

轉朱閣,
低綺戶,
照無眠。
不應有恨,
何事長向別時圓。
人有悲歡離合,
月有陰晴圓缺,
此事古難全。
但願人長久,
千里共嬋娟。
蘇东坡

Thủy điệu ca đầu - Trung thu
Minh nguyệt kỷ thời hữu?
Bả tửu vấn thanh thiên.
Bất tri thiên thượng cung khuyết,
Kim tịch thị hà niên.
Ngã dục thừa phong quy khứ,
Hựu khủng quỳnh lâu ngọc vũ,
Cao xứ bất thắng hàn.
Khởi vũ lộng thanh ảnh,
Hà tự tại nhân gian.

Chuyển chu các,
Đê ỷ hộ,
Chiếu vô miên.
Bất ưng hữu hận,
Hà sự trường hướng biệt thời viên.
Nhân hữu bi, hoan, ly, hợp,
Nguyệt hữu âm, tình, viên, khuyết,
Thử sự cổ nan toàn.
Đãn nguyện nhân trường cửu,
Thiên lý cộng thiền quyên.
 Tô Đông Pha

Dịch thơ :
Trăng rằm có tự bao giờ ?
Ngà ngà men ruợu hỏi trời cao xanh
Cung Hằng có biết hay chăng ?
Đêm nay lạc lối nói năng làm gì
Gió ơi hãy cuốn ta đi
Còn e lạnh giá vu vi vô thường
Quay cuồng vũ khúc nghê thường
Bóng trăng đuổi bắt dễ thường cũng lâu
Trăng soi gác tía nhà lầu
Thấu chăng tâm sự đêm thâu nỗi thầm
Trăng tròn vằng vặc ngày rằm
Trong giờ ly biệt vô tâm nói cười
Vui buồn tan hợp kiếp người
Trăng tròn rồi khuyết đầy vơi tần ngần
Tri âm đi trọn cuộc trần
Thu sầu rồi vẫn xoay vần sầu thu.

 Lê Đình Thông


Không gian Đại Dịch : Nhớ Quê


Không gian Đại Dịch :
Nhớ Quê
 

Dịch âm :
Vọng Giang Nam - Siêu Nhiên đài tác
Xuân vị lão,
Phong tế liễu tà tà.
Thí thượng Siêu Nhiên Đài thượng khán,
Bán hào xuân thủy nhất thành hoa,
Yên vũ ám thiên gia.

Hàn thực hậu,
Tửu tỉnh khước tư ta.
Hưu đối cố nhân tư cố quốc,
Thả tương tân hoả thí tân trà,
Thi tửu sấn niên hoa.
Tô Đông Pha

Dịch thơ :
Tình xuân chẳng muộn đâu nào
Gió xuân vờn nhẹ dạt dào liễu buông
Đài cao quanh quẩn ngắm trông
Tường hoa nở khắp bến sông mặn mà
Khói sông che khuất quê nhà
Qua cơn hàn thực phôi pha mịt mờ (1)
Mùa xuân tàn úa cung tơ
Men nồng chợt tỉnh giấc mơ đêm trường
Người xưa biền biệt sầu thương
Khói trà mà tưởng mù sương quê nhà
Lửa hồng nhen nhúm miên man
Xuân tàn uống rượu ngâm tràn cung mây.
 Lê Đình Thông
(1)  Tiết hàn thực : ngày 3 tháng 3 âm lịch.
Dân gian thường làm bánh trôi nước.
  
Không gian Đại Dịch :
Nhớ Quê

望江南-超然臺作
春未老,
風細柳斜斜。
試上超然臺上看,
半壕春水一城花,
煙雨暗千家。

寒食後,
酒醒卻咨嗟。
休對故人思故國,
且將新火試新茶,
詩酒趁年華。
 蘇东坡

Dịch âm :
Vọng Giang Nam - Siêu Nhiên đài tác
Xuân vị lão,
Phong tế liễu tà tà.
Thí thượng Siêu Nhiên Đài thượng khán,
Bán hào xuân thủy nhất thành hoa,
Yên vũ ám thiên gia.

Hàn thực hậu,
Tửu tỉnh khước tư ta.
Hưu đối cố nhân tư cố quốc,
Thả tương tân hoả thí tân trà,
Thi tửu sấn niên hoa.
Tô Đông Pha

Dịch thơ :
Tình xuân chẳng muộn đâu nào
Gió xuân vờn nhẹ dạt dào liễu buông
Đài cao quanh quẩn ngắm trông
Tường hoa nở khắp bến sông mặn mà
Khói sông che khuất quê nhà
Qua cơn hàn thực phôi pha mịt mờ (1)
Mùa xuân tàn úa cung tơ
Men nồng chợt tỉnh giấc mơ đêm trường
Người xưa biền biệt sầu thương
Khói trà mà tưởng mù sương quê nhà
Lửa hồng nhen nhúm miên man
Xuân tàn uống rượu ngâm tràn cung mây.


(1)          Tiết hàn thực : ngày 3 tháng 3 âm lịch.
Dân gian thường làm bánh trôi nước.