Dạo:
Chùa hoang lặng lẽ đưa chân,
Sau lưng một chuỗi phong trần dở dang.
Cóc cuối tuần:
寂 寞
隱 隱 藍 旁 黯 月 崩,
冷 廚 破 像 送 遊 僧.
忉 忉 老 蝶 尋 青 谷,
瀝 瀝 殘 霜 沐 廢 陵.
喔 喔 芻 雞 吟 祕 偈,
嗸 嗸 石 犬 吠 孤 鵬.
經 開 桌 上 無 人 讀,
空 屋 寒 風 半 熄 燈.
陳 文 良
Âm Hán Việt:
Tịch Mịch
Ẩn ẩn lam bàng ảm nguyệt băng,
Lãnh trù phá tượng tống du tăng.
Đao đao lão điệp tầm thanh cốc,
Lịch lịch tàn sương mộc phế lăng.
Ác ác sô kê ngâm bí kệ,
Ngao ngao thạch khuyển phệ cô bằng.
Kinh khai trác thượng vô nhân độc,
Không ốc, hàn phong, bán tức đăng.
Trần Văn Lương
Dịch nghĩa:
Yên Lặng
Lờ mờ bên cạnh chùa con trăng buồn rầu đổ xuống (chết),
Bếp lạnh và (pho) tượng vỡ tiễn đưa ông tăng hành cước lên đường.
Con bướm già đau đáu đi tìm hang động xanh tươi,
Sương tàn tí tách thấm trên lăng tẩm đã bỏ phế.
Eo óc con gà bện bằng rơm ngâm nga câu kệ thần bí,
Oang oang con chó đá sủa (để dọa) con đại bàng cô độc.
Cuốn sách kinh mở ra trên bàn không người đọc,
Nhà trống, gió lạnh, ngọn đèn đã tắt một nửa.
Phỏng dịch thơ:
Tịch Mịch
Chùa đổ nát, vết trăng tà ảm đạm,
Cảnh điêu tàn cùng khách tạm chia tay.
Con bướm già tìm hạnh phúc quắt quay,
Sương lất phất quét phai màu mộ cũ.
Ngâm nga kệ, gà rơm xua giấc ngủ,
Dọa chim trời, chó đá sủa miên man.
Quyển kinh không người đọc mở trên bàn,
Đèn lụi tắt, gió tràn qua vách trống.
Trần Văn Lương
Cali, 05/2013
Lời than của Phi Dã Thiền Sư :
Ngôi chùa bỏ phế, ông tăng hành cước ghé tạm một đêm rồi ra đi,
để lại một quyển kinh còn mở dở và một ngọn đèn tắt nửa chừng.
Than ôi, kiếp người chẳng giống thế ru ?
No comments:
Post a Comment