7/12/23

Kỷ niệm ngày tháng cũ - Thành lập Quán T2

Thành Lập Quán T2

Một sự kiện nổi bật của sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt đó là sự ra đời của quán Cà Phê Văn Nghệ T2. Quán T2 là quán cà phê văn nghệ đầu tiên của sinh viên ở Việt Nam. Hai người thành lập quán T2 là Nguyễn Lập Chí và Nguyễn Tường Cẩm.

Tuần đầu, lên sân khấu quán T2 chỉ là những tay văn nghệ hát hay không bằng hay hát, đánh trống như gõ thùng, gảy đàn từng tưng. Sau đó, quán đông khách hơn, văn nghệ khá hơn. Ca sĩ thì có Kha Tư Giáo, Dương Ngô Đông, Trần Ngọc Phong, Lưu Văn Dân … Đàn, trống có Trần Văn Chung, Trần Văn Lưu. Đặc biệt có tay đàn cổ điển Cao Hoàng của Văn Khoa làm không khí quán T2 thêm đa dạng và trí thức.

Chỉ một tháng sau, sân khấu T2 có diễn kịch. Diễn viên Lưu Văn Dân, Nguyễn Lập Chí và diễn viên nữ Nguyễn Thị Thiên Nhiên diễn những vở hài kịch của Nguyễn Lập Chí. Ca sĩ, đàn sĩ, kịch sĩ là sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt. Chỉ có hai ca sĩ thượng đẳng không phải là sinh viên đó là Lê Uyên và Phương. Vợ chồng ca sĩ này thường tới quán T2 “ thực tập “ để sau đó về Sài Gòn và trở thành đôi song ca nổi tiếng. 

Những tháng sau, quán T2 tiếp đón các phái đoàn sinh viên từ các nơi đến thăm viếng Đại Học Đà Lạt, các văn nghệ sĩ, du khách. Các nghệ sĩ lớn như Pham Duy, Trịnh Công Sơn, Miên Đức Thắng, Bùi Thiện, Đoàn Chính … đã trình diễn trên sân khấu quán T2. Quán T2 đã mở đầu cho các quán văn nghệ của sinh viên ở Sài Gòn như quán Văn ở Văn Khoa nơi mà Khánh Ly hát. 

Cẩm kể về việc thành lập Quán T2 : “ Đến số báo thứ tám của tờ báo Diễn Đàn Sinh Viên, anh Nguyễn Văn Bôn bị bạo bệnh (đau màng óc) đột ngột từ trần. Tờ báo không có người phụ trách trình bầy. Tôi mời Nguyễn Lập Chí cộng tác. Được Chí nhận lời tiếp tay. Tôi mang stencil đến phòng của Chí để nhờ thực hiện. Trong lúc bàn chuyện phiếm về các sinh hoạt của Viện Đại Học, tôi đề nghị với Chí “ Chúng ta nhẩy ra hoạt động văn nghệ bằng cách mở quán cà phê có sân khấu trình diễn văn nghệ.” Đúng ý, nên Chí hưởng ứng ngay. 

Rồi hai đứa bàn chuyện tài chánh. Khi đó, tôi có 5.000 đồng tiền để dành. Chí có cái nhẫn kim cương nếu đem bán hoặc đem cầm cũng có trên 10.000 đồng. Dụng cụ âm nhạc, Chí có đầy đủ và sẽ về Saigon mang lên Dalat. Bà chủ nhà nơi tôi thuê mới xây xong căn nhà mới bên cạnh. Định ngăn nhiều phòng cho sinh viên thuê. Nên có thể thuê mở quán cà phê trước khi cho các sinh viên thuê … Rồi bàn tên quán. Tôi đề nghị tên QUÁN SINH VIÊN cũng như tờ báo Diễn Đàn Sinh Viên để mọi người nhất là chính quyền biết : đây là những sinh hoạt của sinh viên. Không phải lo xin giấy phép mở quán và đóng thuế. Chí đồng ý và bổ túc thêm chữ T2 cho có thêm nhiều ý nghĩa cùng tên tờ báo “ Tí Ti “ do Chí thực hiện. Chúng tôi đi tìm bà chủ nhà để hỏi thuê. Bà chủ nhà rất vui tính và quý mến chúng tôi. Riêng cá nhân tôi, ông bà chủ nhà coi như con, giúp đỡ tôi thường xuyên mọi thứ. Nên khi hỏi thuê nhà để mở quán cà phê, bà ta chịu liền. Tự động giảm giá từ 4.000 đồng như dự trù xuống còn 2.500 đồng / một tháng kể cả điện nước. Và còn nói : ” Nếu không lo đủ chi phí, sẽ giảm xuống 2.000 đồng”

Bàn xong kế hoạch, chúng tôi vào gặp Cha Viện Trưởng xin ý kiến và nhờ Cha tiếp tay hỗ trợ. Chúng tôi cũng trình bầy cho Cha rõ mục đích mở quán không phải để kiếm ăn mà là tạo sinh hoạt văn nghệ cho sinh viên. Nghe điều đó, Cha rất hài lòng và sẵn sàng hỗ trợ : kể cả tiền thuê nhà nếu không đủ chi phí. Cha móc túi ủng hộ trước 3.000 đồng để “ Khai trương “, để mọi sinh viên được giải khát miễn phí trong ba ngày liên tiếp. Cha cũng cho mượn đàn trống và các dụng cụ âm nhạc (đàn điện…) để làm phương tiện hoạt động.

Quán Sinh Viên T2 được thành lập trong một phút bốc đồng của hai thằng thích hoạt động với sự ham vui của bà chủ nhà. Thêm vào đó là tình yêu thương bao la của Cha Viện Trưởng đối với các sinh viên.

Mở quán không mục đích kinh doanh kiếm lời. Mà chỉ để làm phương tiện hoạt động. Nên chúng tôi không lạm dụng xin tiền của Cha. Cũng không lợi dụng móc tiền của các bạn vì giá rất bình dân. Cũng không lợi dụng các buổi trình diễn của các văn nghệ sỹ như Trịnh Công Sơn, Phạm Duy …. để tăng giá đặc biệt. Quán tiếp đón tất cả mọi người đến tham dự dù có tiền giải khát hay không. Đó là ý nghĩa của chữ T2 . Chính vì thế, mọi người đều quý mến và ủng hộ Quán.

Mặc dù liên hệ đến tiền bạc, nhưng chưa bao giờ có sự bất đồng ý kiến giữa Chí và tôi. Chúng tôi tự lo đủ chi phí, không phải làm phiền đến Cha. Nếu dư dả thì tu bổ, sắm sửa thêm cho đầy đủ tiện nghi. Quán mỗi ngày một đông, không đủ chỗ ngồi cho khách. Bà chủ nhà sửa sang lại nơi tôi đang ở (tôi rời sang phòng khác) và mở thêm thông căn phòng phía sau cho chúng tôi dời quán sang rộng thêm được 30 chỗ ngồi thay vì địa điểm cũ chỉ chứa được 120 chỗ ngồi….Vậy mà bà chủ vẫn không tính thêm tiền mướn. Còn địa điểm cũ bên cạnh trở thành văn phòng HỘI THANH NIÊN THIỆN CHÍ DALAT cũng do tôi thành lập. 

Mỗi dịp Giáng Sinh, Cha Lập tặng 1.000 đồng để nhờ bà chủ nhà nấu cháo gà hay làm bánh mỳ thịt cho sinh viên ăn miễn phí vào đêm Giáng Sinh. Hoặc trong những dịp các phái đoàn đến thăm Viện Đại Học và đến Quán T2 sinh hoạt với sinh viên. Những khi ấy đều giải khát miễn phí vì Cha đã yểm trợ 500 hay 1.000 đồng tùy theo số người đến tham dự. Như Vậy Quán T2 được mở ra không phải chỉ có Chí và Cẩm, mà còn phải kể thêm Cha Lập Viện Trưởng.

Nỗi khó khăn của Quán T2 là tình hình biến động, nhất là từ tết Mậu Thân 1968. Thị Xã Dalat giới nghiêm hàng đêm nên Quán phải đóng cửa. Chúng tôi cũng như các bạn mục đích lên Dalat học và thi đậu, chứ không không phải để mở quán cà phê để kiếm sống. Do đó, mùa thi phải đóng cửa chỉ mở hai đêm cuối tuần. Nếu đóng cửa hoài chắc không đủ tiền để trả thuê cửa tiệm. Chắc chắn chúng tôi phải chạy lên Viện Đại Học tìm Cha Lập để cầu cứu bởi lúc nào Ngài cũng sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi cũng như các sinh viên trong mọi trường hợp khó khăn. Tốt nghiệp xong, tôi cũng như đa số các bạn cùng khóa đủ tuổi phải lên đường nhập ngũ Khóa 9 – 68 ở Quang Trung và Thủ Đức. 

Vì quá hoạt động không đủ thì giờ học nên Chí thi rớt. Trốn ở lại Dalat để tránh né động viên. Không thể tự điều khiển Quán T2 cùng với sự chán nản thi rớt. Nên Chí tự động dẹp Quán và hoàn trả lại Viện Đại Học những gì Cha đã cho mượn. 

Tuy Quán T2 đã bị dẹp nhưng những kỷ niệm tuyệt đẹp của thời dĩ vãng vẫn còn sống mãi trong chúng ta .

Trích "Tuyển tập truyện ngắn - Sinh viên Xa nhà" của Nguyễn Đức Quang (GC) 

Nhà Văn Nữ - Trần Thị Diệu Tâm



nh trên trang Văn Bút VN Hải Ngoại Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ

Đó là cái nhãn hiệu mà người ta gán cho tôi khi tôi có tập truyện ngắn đầu tiên được in ra. Điều này tôi thấy vui vui, mình viết khơi khơi, lung tung lang tang mà được cái mác như vậy. Thật ra, tôi chỉ là một người thích kể chuyện, nhà văn nữ, danh xưng này quá cao sang, quá tầm với tôi.

Chuyện viết, trước đây còn ở trong nước, không bao giờ tôi nghĩ đến, nhưng khi qua ở nơi đây, một xứ sở văn minh, thấy cái gì cũng lạ cũng mới và cũng hơi kỳ. Cảm thấy như mình vừa tái sinh vào một kiếp người khác, do trước đây đã tạo được duyên lành. Trong những mối tạo duyên đó, tôi là người thích đọc truyện, nên giờ đây mình là người thích kể chuyện, tôi được luân hồi ngay ở kiếp này không cần phải chờ đợi sau cái chết!

Có nhiều khuynh hướng trong cách viết câu chuyện kể, do ảnh hưởng hoàn cảnh sống, do ảnh hưởng suy nghĩ cá nhân. Trước kia lúc bắt đầu viết, tôi dùng trí tưởng tượng khá nhiều, từ một hình ảnh trong đời thường tôi có thể kể ra một câu chuyện hẳn hoi có thứ tự lớp lang. Đa số chuyện dạo ấy, tôi kể về tình yêu vì cho rằng không có gì đẹp hơn loại tình cảm này ! Lẽ dĩ nhiên tình yêu trong trí tưởng được vẽ vời rất nhiều điều đẹp đẽ xúc động. Trong đời thường, làm chi có những mối tình đẹp như thế. Kể ra cũng có hơi ba xạo! Tuy nhiên, mẫu truyện nào cũng đều dựa vào một hình ảnh có thực đã thấy trong quá khứ hay hiện tại. Có chuyện tình bịa đặt hoàn toàn đọc lại thấy cảm động lắm, chẳng hạn như Tìm Trong Quá Khứ, khung cảnh là bệnh viện tâm thần Saint Anne (vì chỗ tôi làm việc gần bệnh viện này, thấy bệnh nhân đi dạo ra vô). Khi viết ra những câu chuyện tình lãng mạn, tôi nghe tuồng như mình tham dự trong đó, mình đang là diễn viên chính. Vậy mới ham viết!

Có điều, ngôn ngữ chữ viết ít khi bắt kịp với nhịp độ suy tưởng, luôn chậm chạp, trong khi dòng suy nghĩ luôn biến động theo cảm hứng. Tìm câu chữ thích hợp cho suy nghĩ, cho sáng tạo là điều không dễ dàng gì. Viết, luôn luôn là một hành trình đi tìm kiếm. Tìm kiếm cái gì, điều gì? Đó là một câu hỏi với tôi, tôi không biết giải đáp.

Nhưng bây giờ, bây giờ bộ não tôi không còn khả năng phong phú để tưởng tượng như thế. Giờ đây, trước căn bệnh mất trí nhớ có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với người lớn tuổi, tôi muốn xét lại mình xem còn nhớ hay quên chuyện này chuyện nọ. Mấy cái chuyện tôi kể lại đây đều dựa trên những điều có thực, và có lẽ… không xạo chút nào.

Tôi nhớ rõ dạo đó ở Paris, tại trung tâm giúp đỡ người tỵ nạn Đông Dương gồm Việt, Miên, Lào, tôi đang đứng lớ ngớ đọc thông cáo tìm việc, bỗng dưng một ông Tây đi ngang, gọi tôi vào văn phòng, và giới thiệu cho một nơi quen biết làm việc. Sau mới biết ông ấy là giám đốc của trung tâm. Nhờ vậy tôi có dịp tập sự. Tôi đi làm, buổi sáng đầu tiên đứng chờ chuyến xe tàu điện, cảm thấy hãnh diện chi lạ. Hãnh diện như cậu bé lần đầu đi đến trường trong đoạn văn của Thanh Tịnh “Tôi đi học”. Vì từ lúc lấy chồng, tôi bỏ việc không đi làm ở nhà chăm con, đến 75 chồng bị đi tù, vợ ngụy không có chỗ đứng trong xã hội cộng sản, nên chuyện đi làm là một ước mơ. Bây giờ sang đây, tôi đi làm, kiếm một ít tiền trang trải chi tiêu cho gia đình là thực hiện được mơ ước của mình.

Tôi làm việc tại một nơi bán nhiều sách báo, mỗi ngày những đợt giao sách báo mới. Mỗi khi cầm một cuốn sách, tôi chú ý cái đề tựa, tự hỏi không biết tác giả viết gì trong đó. Có khi mượn đem về nhà đọc. Tiếng Pháp không mấy rành, tôi luôn tra từ điển, ông Mai Trung Ngọc, nhà xuất bản Nam Á, là người cho tôi cuốn tự điển hữu ích đó khi mới đặt chân tới Paris. Tự điển Pháp-Việt không giải thích rõ ràng, dùng tự điển Larousse dễ hiểu hơn, lại học thêm nhiều chữ cùng gốc. Sách họ viết bên này khác hơn bên nhà trước đây, tác giả phân tích tâm lý nội tâm nhiều hơn. Tôi thích loại truyện như vậy. Trong những tờ báo phát hành ngày chủ nhật, có tờ Journal du Dimanche, dạo đó hay đăng những truyện ngắn, có nhiều truyện thú vị về cuộc sống đời thường. Đâu cần phải có những éo le gay cấn mới là truyện. Truyện không cần cốt chuyện, nếu viết hay là hay rồi.

Trên những chuyến tàu đi về, đoàn người làm việc tấp nập không ai chú ý ai vội vã đi vội vã về, tôi chú ý tới người mù với cây gậy ngắn huơ qua huơ lại trong không gian tìm lối đi, họ thành thạo biết trạm nào phải xuống, trạm nào phải lên để đổi tuyến xe. Tôi viết câu chuyện ngắn “Người mù trong thành phố Paris”. Và kết luận: Nghĩ đến những người trong nước có mắt nhìn mà phải sống cuộc đời thua xa người mù nơi này ! Truyện đăng ở một tờ báo nổi tiếng lúc bấy giờ, đó là tờ Phụ Nữ Diễn Đàn.

Ông Chử Bá Anh, chủ bút tờ Phụ Nữ Diễn Đàn ở Virginia Hoa Kỳ cho đăng những truyện ngắn đầu tay của tôi. Trước đó, tôi hỏi ông nên lấy bút hiệu như thế nào, lấy tên Nhà Tôi ghi là bà …, vì từ khi lấy chồng sinh con đẻ cái, tôi ăn theo chế độ của chồng, tên tôi mất hút từ lâu. Ông Chử nói mình viết thì lấy tên mình, cớ gì lấy tên chồng làm bút hiệu. Tôi nghe lời. Ông Chử chính là người khuyến khích tôi rất nhiều. Sau khi gửi đăng vài truyện, tôi nhận được tiền nhuận bút, mỗi trang 50 đô, vài truyện cũng được vài trăm. Số tiền này tôi trân trọng lắm, cất giữ không dám tiêu pha gì, xem như một món nữ trang quý không dám đeo vào người. Tiền này có giá trị cao, giá trị về tinh thần. Nó là những vé xe tàu đưa tôi đến những vùng đất xa lạ, trong đó một mình tôi tự do rong chơi.

Dạo ấy tờ báo PNDĐ được bán rất chạy ở Paris vì tin tức nhanh chóng về chính trị, lại có nhiều tiết mục, từ đàn ông tới bà già đều thích đọc. Nhiều người phải xin đặt mua báo trước tại nhà sách Nam Á, vì đến mua trễ không còn. Ông Chử là người có đầu óc tổ chức rất giỏi, không có tờ báo Việt ngữ nào viết tin nhanh bằng tờ PNDĐ. Hầu như các báo ở Cali đều lấy tin từ CBA News, có lần tôi nghe ông nói đến tương lai có “internet” mà lạ.
Lúc vợ chồng chúng tôi qua Hoa Kỳ lần đầu thăm con gái bên đó, ông đã cho đăng vài hàng chữ trên tờ báo địa phương cùng số phôn nhà con chúng tôi, vậy là các báo khác đăng theo. Hôm sau điện thoại reo không ngớt hỏi thăm. Con gái phải ghi tên vào giấy để nhớ người gọi tới. Ai cũng gửi lời mừng, có người tưởng nhà tôi chết trong tù (vì một truyện ngắn tôi tả cảnh đi thăm nuôi chồng, nhưng chồng lại chết trong tù). Chúng tôi không quen được chào đón thăm hỏi có vẻ ồn ào như vậy, và nhất là phải gọi cám ơn từng người quen có lòng nhớ mình. Nhưng ông Chử chứng tỏ qua điều này, cho thấy truyền thông (của ông) đóng vai trò quan trọng trong cộng đồng. Vài năm sau, vì bị bệnh hen suyễn lâu ngày, lại ham mê công việc, ít chú ý về sức khỏe, ông đã mất trong đêm khuya trong căn phòng riêng của ông. Ra đi khi tuổi mới 67 là hơi sớm, (năm 1996). Chúng tôi buồn không ít. Nhờ ông chúng tôi gặp nhau, và nhờ ông tôi được làm quen với chữ nghĩa.

Dạo ấy, Nhà Tôi bị động viên ra trường Thủ Đức, có sự vụ lệnh đổi lên dạy trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Ông Chử biết tin ra tận phi trường Liên Khương đón anh ấy về trường Văn Học, vô lớp dạy ngay không kịp về nhà thay áo quần dân sự. Lúc ấy, tôi đang ở Huế, bà Dì tôi là một nữ tu từ Pháp về dạy tại trường Couvent des Oiseaux, bà gọi tôi lên Đà Lạt để học phân khoa Chính Trị Kinh Doanh mới mở tại Viện Đại Học. Sau đó tôi gặp ông Chử, và ông nhờ tôi dạy Anh văn cho lớp đệ thất đệ lục trường Văn Học của ông. Tôi nhận lời ông, và gặp gỡ anh ấy, nhà tôi. Một người từ Sài Gòn lên, một người từ Huế vô, hai người gặp nhau tại một thành phố đẹp mộng mơ, yêu nhau là đúng số mệnh rồi.

Bà Dì tôi là người có đầu óc cấp tiến khá đặc biệt. Đó là “Mẹ Marie Thành”, sau này Bà phiên âm tên Marie thành chữ Mai, Thành là tên một vị nữ thánh tử đạo VN. Tại sao tên thánh của các nữ tu VN luôn lấy tên các vị thánh người nước ngoài mà không lấy tên vị thánh nước mình. Một cải cách của bà, bà tỏ ra một người có tinh thần ái quốc dân tộc, luôn tìm hướng đi mới cho giáo hội VN. Bà có nhiều tài năng trên nhiều lãnh vực, đi nhiều nơi trên thế giới, có tài thuyết giảng và thuyết phục người khác nghe lời mình, và nhất là có tài mở hầu bao của các hội dòng giàu có phương Tây giúp đỡ cho dân nghèo VN. Cuộc đời của Dì tôi là cả một hành trình vừa tu hành vừa hoạt động xã hội đáng ngưỡng mộ, bà mất ngày 14/01/2019. Đó là một phụ nữ có lý tưởng, lý tưởng từ lúc còn là cô giáo Bùi Thị Như-Kha của trường Đồng Khánh ngày xưa, mang nặng trong lòng quyết tâm phục vụ xã hội. Bà đi tu để hiến dâng mình cho mục đích lý tưởng ấy.

Trong chủ đích gọi tôi vào ở nội trú trong trường Couvent des Oiseaux để đi học đại học, bà mong muốn tôi có cơ hội tiếp xúc với dòng tu, mong sau này có thể theo chân bà. Tôi được học riêng thêm Pháp ngữ tại đây, và được bà chỉ dẫn cũng như khuyên bảo đôi điều quy tắc của của nhà dòng. Tuy nhiên ý muốn cải tạo tôi thành nữ tu của bà bị thất bại hoàn toàn. Mỗi người chọn con đường mình đi. Thế mà, sau này mới đây, tôi có một giấc mơ với hồi kết hẳn hoi : Tôi trở về chốn ấy, xin bà Bề Trên dòng tu này cho tôi ở lại làm vệc vĩnh viễn không ra ngoài xã hội nữa. Nhưng quá muộn rồi.

Nhà dòng “Notre Dame de Langbiang” (Dòng Đức Bà Lâm Viên) xây dựng ngôi trường Couvent des Oiseaux tại Đà Lạt chiếm cứ cả một ngọn đồi thông bên cạnh suối Cam- Ly (ngọn đồi này do một cựu học sinh tặng cho nhà dòng, đó là Nam Phương Hoàng Hậu) sau này có thêm trường Regina Mundi tại 228 Công Lý Sàigon (bị CSVN đổi tên là Lê thị Hồng Gấm). Cả hai ngôi trường Pháp ngữ này đào tạo các nữ sinh từ cấp tiểu học lên cấp trung học. Trong số nữ sinh thời ấy ở Đà Lạt, tôi nhận biết có cô bé Tuấn Anh, con gái của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (cô rất giống bố), Geneviève NHT, con gái của luật sư Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch của “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”. Hai ông bố là đối thủ chính trị, nhưng có hai cô con gái học chung một trường. Hầu như con gái của các tướng lãnh cao cấp, hay của doanh thương giàu có miền Nam đều gửi con vào học tại trường này. Với sự giáo dục nghiêm ngặt của các nữ tu trí thức ở Pháp về, phụ huynh yên tâm hy vọng con mình được học nhiều điều hay đẹp, không những học chữ mà còn học cả nhân cách tốt.

Ngôi trường này trước đây được xem là nơi đào tạo con cái gia đình quý tộc, hiện nay lại trở thành nơi dành cho con cái dân tộc thiểu số, tức dân tộc miền núi rừng Tây Nguyên!

Sau khi gặp mặt Nhà Tôi tại khung trường Văn Học một thời gian, chúng tôi “hẹn hò”. Hẹn hò hoài cũng ái ngại cho phần con gái, vì nghe nói anh ấy đã cho de vài cô rồi. Tôi đòi “ra công khai” (cụm chữ này tôi chôm được của cô Nông Thị Xuân, bồ của ông Hồ Chí Minh, sau khi cô sinh được một cậu con trai, cô Xuân “đòi ra công khai” nhưng không được ông Hồ bằng lòng, sai bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn giết cô và quẳng xác ra đường, phao tin cô bị xe cán chết. Đòi hỏi công khai được gia đình bên anh ấy chấp nhận lo chuyện cưới hỏi. Anh ấy đưa tôi về Sài Gòn, bảo đến thăm ông bà cụ thân sinh anh, lại cẩn thận dặn dò: em nên mặc áo dài có cổ, đừng mặc áo dài không cổ như kiều bà Ngô Đình Nhu . Biết gia đình anh nền nếp cổ xưa, tôi chọn chiếc áo dài lụa màu xanh lá chuối non có cổ. Hôm ấy anh nói một câu, tôi nhớ mãi đến bây giờ, nghe sao mà tình tứ quá: Em như cốm xanh. Vâng, là cốm xanh ngày ấy, còn ngày hôm nay là cơm nguội khô cắn vào gãy cả răng!

Ôi thời trẻ trung, tình yêu sao mà đẹp đến thế . Nhà Tôi là người dạy môn toán, (một thứ khoa học dựa trên các con số) lại là người tính tình khá mơ mộng, thích làm thơ. Lúc quen nhau, anh đọc cho tôi nghe những vần thơ tình anh làm ngày trước, và kể thêm khi dạy cùng ông thầy Vũ Khắc Khoan ở Trường Sơn (Sài Gòn), thầy đề nghị lăng- xê thơ anh trên báo, nhưng anh lắc đầu, điều quan trọng nhất của anh là kiếm tiền giúp gia đình bố mẹ và các em. Vậy mà sau khi lấy tôi về làm vợ, chẳng bao giờ anh làm nổi thêm một câu thơ nào đọc cho tôi nghe. Tôi có hơi ân hận vì mình đã hủy diệt nguồn thi hứng của anh ấy!

Trở lại câu chuyện đang kể.

Sau khi ông Chử mất, không có ai đủ khả năng điều hành tờ báo, nên đình bản luôn. Người phối ngẫu của ông là nữ sĩ Vi Khuê, bà có nhiều tác phẩm thơ danh tiếng, thơ của bà đẹp, trang nhã dịu dàng. Nữ sĩ đúng là một mẫu người của thơ và mộng. Nghe kể lại mối tình của hai ông bà cũng đẹp như thơ. Xưa ở Huế, bà làm xướng ngôn viên đài phát thanh, ông nghe giọng đọc của bà mỗi ngày mà mê, mê tiếng và mê luôn người, nên rước bà làm vợ. Qua định cư ở Virginia, hai ông bà cùng nhau sinh hoạt tích cực trong lãnh vực văn hóa và giáo dục, được nhiều người quý trọng, trong đó có tờ báo PNDĐ rất thành công. Sau khi ông mất, bà Vi Khuê thỉnh thoảng liên lạc với tôi qua điện thoại. Sau này bà bị mất trí nhớ nhiều, nên cũng vắng. Bà ra đi năm 2018.

Có lần muốn thử nghiệm sự mất mát, sự ra đi vĩnh viễn của một người, tôi cầm điện thoại gọi vào số máy của ông Chử bên đó. Tiếng chuông reo lên liên hồi, từng chập… không còn bắt máy a-lô như mọi lần. Tiếng chuông reo vào khoảng không trống vắng. Một người đã ra đi, không còn tiếng nói, không còn có mặt. Tôi lấy bút đỏ gạch bỏ một hàng chữ số trong cuốn sổ điện thoại. Từ đó đến nay, đến hiện tại, biết bao người quen đã đi ra khỏi đời sống này, tôi đã gạch bỏ nhiều lần số điện thoại cùng với tên của họ. Biết bao giờ thì số điện thoại của tôi bị gạch bỏ như thế?

Ngày đó, ông Mai Trung Ngọc chủ nhà xuất bản Nam Á-Paris bảo tôi gom góp hết các truyện ngắn, đánh máy lại cho vào disquette đưa cho ông in thành sách. Thật là may mắn. Ông là một người hào phóng, hứa trả cho tác giả một số tiền mà tôi không ngờ, 20.000 franc, (viết chữ là hai chục ngàn franc). Một số tiền hơn gấp 4 lần tháng lương tôi đi làm bấy giờ. Tôi tự hỏi mình có thật là nhà văn hay chưa? Có tác phẩm được nhà xuất bản in ra và trả tiền cao như vậy thì đủ biết, cần chi phải giả vờ khiêm tốn ! Sau khi in sách xong, ông MTN tổ chức cho tôi Ra Mắt Sách, rất nhiều thân hữu tham dự. Thật tình mà nói, ông ấy có ý tốt muốn giúp chúng tôi, chứ với người viết khác, ông không hào phóng như thế. Nay ông đã mất sau cơn đột quỵ đau tim, một cái chết bất ngờ nhanh chóng và không chút đau đớn. Trong tang lễ ông chủ nhà xuất bản sách Nam Á Paris, người em trai đọc vài lời tiễn biệt anh, có nhắc đến tên tôi như là một khai phá của nhà xuất bản. Giống y chang một nhạc sĩ đã khám phá được một giọng ca. Tôi ngồi nghe mà lòng ngậm ngùi.

Sau này, tôi ao ước truyện của mình được đăng ở các báo có tính cách văn chương như Văn Học (Nguyễn Mộng Giác), Hợp Lưu ( Khánh Trường), Văn (Nguyễn Xuân Hoàng). Được đăng trên các báo này có lẽ có giá trị hơn. Tôi không biết có hơn chăng, nhưng phải bỏ tiền mua báo ủng hộ hằng năm, để báo sống mà đăng bài cho mình. Nay Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng đã vào thiên thu.

Paris bấy giờ có nhiều sinh hoạt về văn nghệ rất vui, tôi luôn tham dự vì được làm quen giới văn nghệ sĩ. Giới này là những người hoạt động trong lãnh vực văn hóa nghệ thuật, gồm có ca sĩ hay ca hát tài tử nói chung. Người ca hát rất được hân hoan chào đón tôn trọng trong những đám đông họp mặt, nhìn họ đứng dưới ánh đèn sân khấu trông rất hay, và sau khi hát, họ cúi đầu nhận những tràng vỗ tay rào rào. So với họ, thì người viết văn tụt giá lắm. Không phải ai cũng là độc giả mình, không phải ai cũng biết mình, không phải ai cũng khen mình viết hay. Do đó tôi cũng muốn chuyển sang lãnh vực hát ca cho vui, khi mình hát xong, được nghe tiếng vỗ tay rào rào phía dưới. Dự tính mua dàn máy Ka-ra-ô-kê đem về nhà hát theo, nhưng tiếc thay ông nhà tôi không mấy ưa loại hát ca này. Vả lại mở máy tập hát, e rằng hàng xóm láng giềng đưa đơn kiện cũng mệt, xứ sở này khó lắm, việc chi cũng bị thưa kiện. Nhớ trước đây, một cô láng giềng xinh đẹp người Trung Hoa được anh chồng mua cho một chiếc piano ở nhà đàn cho đỡ buồn, cô hay đàn những bản nhạc tôi ưa thích, nhưng sau đó bị các nhà hàng xóm trên lầu dưới lầu cùng ký tên trong đơn khởi kiện tới cảnh sát. Tôi không ký. Cô than thở nói tiếng Pháp chữ được chữ mất, rằng người Pháp ở đây không thích nghe nhạc. Tôi khuyên cô nên mua một cái villa để chơi đàn.

Tôi dẹp mộng ước hát ca, đành ngồi âm thầm một mình mà viết độc thoại tình ca. Thực ra, trong thâm tâm, tôi luôn mơ ước trong đời mình có một cây đàn piano trong nhà, chí ít cũng một cây guitar, vừa đàn vừa hát những bản nhạc yêu thích. Ước mơ được ca hát không thành tựu. Không được chuyện này tôi xoay qua chuyện khác, đó là đi học vẽ, nhưng rồi cũng dở dang. Tôi có máu nghệ sĩ, nhưng nghệ sĩ dỏm, vì chẳng món nào học đến nơi đến chốn cho ra hồn. Nghệ sĩ thực thụ, cần phải có đam mê, tận hiến cuộc sống cho đam mê đó. Viết văn cũng vậy, dâng cả đời mình cho chữ nghĩa mới được gọi là nhà văn đúng nghĩa.

Bốn tập truyện ngắn với tên tác giả TTDT, nằm im lìm trên kệ sách nhà, không hiểu sao, đã nhiều năm nay tôi không mở ra đọc lại. Một lần tôi can đảm lấy xem, ngạc nhiên như đọc truyện của một ai khác viết, không phải là mình (kể chuyện tào lao vậy mà cũng in luôn đến 4 tập). Nhìn thấy tủ sách các loại, ngẫm buồn cho thế sự văn minh hiện đại. Các nhà bán sách Việt ngữ hầu như đều đóng cửa dẹp tiệm, ở Paris hay ở Cali đều không còn thấy nữa, không tìm thấy nữa. Anh Phạm Xuân Hy, tác giả chuyên về dịch thuật Liêu Trai Chí Dị, là người yêu chuộng sách vở, lưu trữ sách rất trang trọng. Anh gọi tôi đề nghị tặng một số sách báo cũ, nhưng tôi cám ơn anh, và từ chối vì tủ sách chật cứng dù đã đem tặng thư viện của GXVN khá nhiều. Không biết rồi anh tặng sách cho ai. Những cuốn sách muôn năm cũ / biết để đâu bây giờ ? Đúng là lâm vào cái thế lưỡng nan : Bỏ sách thì thương, mà vương sách thì tội. Tội nghiệp cho cái thân phận sách báo. Hơn nữa, sách nó nặng lắm, cầm vài cuốn thấy oải rồi. Thế hệ đọc sách không còn nữa. Giờ đây, ai cũng lo dọn dẹp nhà cửa cho gọn ghẽ, chuẩn bị cho tâm an để làm một chuyến viễn du không bao giờ trở lại.

Trong các chuyến tàu mê- trô dưới lòng đất Paris, tôi vẫn thấy nhiều phụ nữ cầm sách trên tay đọc chăm chú. Họ là người Pháp đọc sách tiếng Pháp, không phải người Việt đọc sách Việt. Dân cư người Việt di tản ít ỏi, lại phải hội nhập với dòng đời nơi đây, ra đường phải nói tiếng bản địa. Thế hệ người Việt nói tiếng Việt dần dà không còn chỗ đứng. Chúng ta nay còm cõi, già cỗi, tay chân bắt đầu run rẩy, cầm cuốn sách lâu thấy mỏi rồi, mắt lại kém, lem nhem. Những buổi Ra Mắt Sách là những buổi chợ chiều. Những cuốn sách thật tiếng Việt trước đây chọn nơi này làm đất tạm dung, nay thật sự chẳng còn nơi nào để dung thân.

Thế nhưng tại quê nhà, với khối dân số trên 90 triệu người, sách vẫn còn chỗ đứng, người đọc vẫn còn nhiều. Có chị bạn nói nên in sách ở Việtnam, có thể được phổ biến rộng rãi hơn nhiều. Một nhà thơ chỗ quen biết cũng hỏi tôi, nếu muốn, sẽ giới thiệu nhà xuất bản. Việc in ấn trong nước bây giờ với kỹ thuật tân tiến đẹp và giá rẻ. Nhưng tôi ái ngại. Từ lâu rồi, tôi không còn liên lạc với quê nhà. Xa cách quá, không vì xa cách bởi không gian mà xa cách bởi muôn vàn khác biệt. Tôi đang sống với cộng đồng nơi đây, không sống với với cộng đồng tại Việt Nam.

Xin hẹn một ngày đẹp trời, tôi sẽ viết tiếp câu chuyện, hy vọng đường đời còn tiếp diễn …./.

Trần Thị Diệu Tâm

7/11/23

Có những ngày buồn - KHÓC TIỄN BẠN HIỀN

Vô cùng thương tiếc với đôi lời cảm xúc tự đáy lòng.

KHÓC TIỄN BẠN HIỀN

Ngọn nến lung linh, nén hương nghi ngút,
CẨM đã đi về cõi Phúc Bình yên !
Một phút thinh lặng, tiễn biệt Bạn hiền,

CẨM ƠI !

Bạn đã miên viễn vào miền vô ưu !
Chia ly ai chẳng u sầu,
Mặc dầu vẫn biết :
Đời người Ai cũng phải qua cầu Tử - Sinh.

Nhìn ánh nến lung linh mờ tỏ,
Nghe như trong ngọn gió thoáng qua,
Mơ hồ vọng tiếng Bạn ta,
Nhắc ngày tháng cũ đậm đà tình thân.

Nhớ một thuở Thụ Nhân Đà Lạt,
Quán T 2 đàn hát hội hè,
Là nơi tụ họp bạn bè,
Thi, Văn, tán, viết chẳng chê món nào.

BẠN còn đứng đầu tàu tổ chức,
Hội Thiện Chí góp sức giúp người.
Lại thêm đám cưới để đời,
Như chơi mà thật tuyệt vời Hôn Nhân.

Gần tám mươi năm thế trần hiện diện,
Nay đi vào vùng miên viễn xa xăm…

Được tin Bạn mất,

Dù đã nhủ lòng đừng khóc, nhưng :
“niềm đau xót tự tâm can,
Nên không ngăn được hai hàng lệ rơi.”
Nay Bạn đã xa rời thế tục,

Hồn thảnh thơi hưởng phúc vĩnh hằng.
Giã từ một kiếp phù vân,
Về nơi an tịnh chẳng cần bon chen.

Tiễn Bạn đi :

Dâng nén hương, đốt ngọn đèn tưởng nhớ:
Những ngày xưa cũ :
Nhà Thụ Nhân một thuở sum vầy.
Rồi đây cũng sẽ có ngày,

Cùng nhau hội ngộ : Cha, Thầy, đồng môn.
Xác thân tan, Anh Hồn bất tử,
Đã có duyên gặp gỡ năm nào…
Chia ly lòng thấy nao nao,

Dù rằng rồi cũng đi vào thiên thu !
Cõi Âm, Dương mặc dù cách biệt,
Tình Thụ Nhân tha thiết tỏ bày,
Kính người khuất mặt khuất mày,

Dài lâu giữ mãi tình nầy không tan.
Cầu chúc Bạn Niết Bàn hưởng phúc,
Hết ưu tư trong, đục tình đời,
Hương linh thanh thoát thảnh thơi,

TẠ TỪ XIN TỎ NHỮNG LỜI CHÂN TÂM.

Tình thâm vĩnh biệt
Chân thành tưởng kính.
Hàn sĩ Phan Thạnh

Xin được phép thay mặt bằng hữu K.1 CTKD
Và những Thụ Nhân Đà Lạt có lòng tưởng nhớ…
CHÂN TÌNH TIỄN BIỆT BẠN HIỀN

Hàn Sĩ Phan Thạnh



7/10/23

Chiếc võng


Chiếc võng đong đưa dệt ý thơ
Bầu trời trong vắt thoảng cung tơ
Hàng cây xanh mướt thôi xào xạc
Chỉ có trúc xanh vẫn ước mơ.

Chiếc võng ngả nghiêng lúc xế chiều
Nước hồ trong vắt dáng cô liêu
Một mình thơ thẩn đong đưa mãi
Kẽo kẹt qua đi bắc nhịp cầu.

Xa vắng vần thơ lúc xế chiều
Một ngày vắt vẻo cũng qua mau
Năm năm tháng tháng trôi đi mãi
Chiếc võng còn chia nỗi tịch liêu.

Lê Đình Thông

Kỷ niệm ngày tháng cũ - Sinh viên xa nhà: Khu Montmartre Đà Lạt, thành lập Hội Thanh Niên Thiện Chí

Bài viết Sinh Viên Xa Nhà – Khu Montmartre Đà Lạt là tổng hợp của các đoạn trích từ các bài của các anh : Tạ Duy Phong, Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Văn Sơn, Hoàng Ngọc Nguyên, Nguyễn Thanh Nhàn, Phan Thạnh …

Xin chân thành cám ơn các anh có đoạn văn trích trong bài viết.

Quang Già Cơ

Viện Đại Học Đà Lạt

Sinh Viên Xa Nhà

Khu Montmartre Đà Lạt


Ngày còn học trung học, đọc tiểu thuyết Mây Ngàn của tác giả Tôi Chưa Hề Yêu Ai (Đái Đức Tuấn - TCHYA), tôi mơ ước được đặt chân đến khu nghệ sĩ, khu sinh viên của thành phố Paris. Những sinh viên Việt Nam sống trong khu sinh viên nghèo của thành phố Paris. Cuộc sống sinh viên Việt trên đất khách nghèo túng vất vả, nhưng sao tôi vẫn mơ ước. Cho đến nay, tôi vẫn chưa thực hiện được ước mơ đó.

Năm 1964, tôi ghi danh theo học khóa I trường Chánh Trị Kinh Doanh, Viện Đại Học Đà Lạt. Viện Đại Học Đà Lạt là Viện Đại Học của Thiên Chúa Giáo. Đa số sinh viên của Viện ( 90% ) là những sinh viên ở tỉnh thành khác đến theo học tại Viện. 

Tôi ở Lữ Quán Thanh Niên. Khu Lữ Quán Thanh Niên và Khu Võ Tánh chỉ cách viện khoảng nửa cây số, nên nam nữ sinh viên thuê phòng tại hai khu này rất đông.

Khu này, có trường nữ trung học Bùi Thị Xuân, trường trung học Bồ Đề, chùa Linh Sơn. Khu này có Lữ Quán Thanh Niên của nhà nước dành cho những người có lợi tức trung bình và thấp đến ăn ở, có những quán ăn nhỏ nấu ăn cho sinh viên. Khu này có quán cà phê T2 của sinh viên. Khu này có trụ sở của Sinh Viên Công Tác Xã Hội và trụ sở Hội Thanh Niên Thiện Chí. Khu này có những nhóm văn nghệ, những nhóm báo chí, kịch sĩ, họa sĩ … vv… Những sinh viên ở những khu khác như Nam Đại Học Xá, Nữ Đại Học Xá, Khu B …vv… có máu văn nghệ, văn chương đều về sinh hoạt tại khu Lữ Quán Thanh Niên – Võ Tánh. Những văn nghệ sĩ có tiếng tăm của Miền Nam đến thăm Đà Lạt cũng đến ở, thăm và sinh hoạt ở khu vực này. Anh Khoáng, sinh viên văn khoa, đặt tên cho khu này là Montmartre Đà Lạt.

Tôi chắc chắn sinh viên ở khu Sinh Viên Võ Tánh - Lữ Quán Thanh Niên Đà Lạt có cuộc sống sung sướng, đầm ấm, thân mật hơn những khu của sinh viên Việt Nam du học ở Pháp được nhà văn TCHYA tả trong quyển Mây Ngàn. Khu Montmartre Đà Lạt có nhiều nhân tài, có nhiều mối tình tốt đẹp và rất hiếm có mối tình đau khổ. Có một điều tôi muốn nói là tình bạn, tình đồng môn tại Khu Monmastre Đà
Lạt nói riêng và Viện Đại Học Đà Lạt nói chung, gắn bó tuyệt vời. Điển hình anh Nguyễn Tường Cẩm một trong những sinh viên ưu tú của khu Montmartre Đà Lạt. Anh đã đóng góp và cống hiến tài năng và công sức của anh cho Viện Đại Học Đà Lạt. Anh có mối tình đẹp. Cuộc sống của anh đã nói lên tình bạn cao quí của sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt.

Thành Lập Hội Thanh Niên Thiện Chí

Nguyễn Tường Cẩm nổi lên như một chuyên viên tổ chức hoạt động xã hội. Họ tên Nguyễn Tường khiến mọi người tưởng anh là cháu của nhà cách mạnh Nguyễn Tường Tam. Anh Cẩm bà con với giáo sư kinh tế Nguyễn Cao Hách, anh không thuộc giòng họ Nguyễn Tường Tam. Theo anh tuy không có họ hàng với nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam, nhưng tình thân giữa anh và gia đình Nguyễn Tường Tam còn hơn ruột thịt. Anh là bạn thân với cô Thoa con gái Nhất Linh. Bà Nguyễn Thị Thế em gái của Nhất Linh rất quý mến anh. Bà Thế đã nhận anh làm con nuôi.

Hoàng Ngọc Nguyên viết : “Mọi người khóa 1 ai cũng biết Cẩm. Người không biết Cẩm trong khóa 1 của trường CTKD chắc có lẽ chỉ có những người ở Saigon ghi danh nhưng không đi học. Ngay cả Nguyễn Đức Quang (Du Ca), về sau này người ta mới biết, còn Cẩm là người được mọi người biết rất sớm.

Tên tuổi của anh gắn liền với sự hình thành của Hội TNTC. Chính nhờ hoạt động công tác xã hội của TNTC mà hàng trăm sinh viên nam nữ xa nhà vừa cảm thấy ít trống trải vừa có ý niệm xã hội là gì khi có dịp đến gần với đời sống của người dân một vùng cao nguyên đất đỏ có cả người kinh người thượng chung sống đề huề.

Và cũng nhờ hoạt động của hội mà người dân ngay cả ở những nơi xa xôi hẻo lánh cũng có thể thấy được những người trẻ có học thoát ra khỏi tháp ngà như thế nào. Những nơi như Suối Thông A, Suối Thông B, Tùng Nghĩa, Đơn Dương, Dam Pao, dốc Nhà Bò, dốc Nhà Xác, trường Xuân An… đã trở thành những “địa danh lịch sử” của hội Thanh Niên Thiện Chí Đà Lạt”.

Anh Cẩm và chị Lan Anh lên Đà Lạt mang theo lời ủy thác của ban lãnh đạo Hội Thanh Niên Thiện Chí Sài Gòn gồm các anh Nguyễn Hy Văn, Trần Văn Ngô, Hà Tường Cát, Dương Mạnh Hùng :” Cẩm và Lan Anh lên Đà Lạt học, cố hoạt động, quy tụ anh em thành lập Hội Thanh Niên Thiện Chí Đà Lạt “. Cẩm đã thực hiện lời ủy thác rất thành công. Tháng đầu tiên anh tổ chức nhiều trại công tác xã hội, những buổi đi pinic, những buổi thảo luận. Anh trở thành nhân vật nổi bật nhất của Viện. Hội Thanh Niên Thiện Chí qui tụ được nhiều sinh viên nam nữ tham gia.

Đây là tổ chức làm công tác xã hội lớn nhất của Viện Đại Học. Hội Thanh Niên Thiện Chí có văn phòng tọa lạc trên đường Võ Tánh.


(còn tiếp: Quán T2)