Showing posts with label Kỷ niệm ngày tháng cũ. Show all posts
Showing posts with label Kỷ niệm ngày tháng cũ. Show all posts

12/27/23

Kỷ niệm ngày tháng cũ - Đại Hội Thể Thao Liên Viện

Niên khóa đầu tiên của Khóa 1 CTKD (1964-1965). Viện Đại Học DaLat đứng ra tổ chức Thể Thao Liên Viện gồm các Viện Đaị Học Saigon, Viện Đaị Học Huế, Viện Đại Học DaLat. *

Trong một bức hình của một đặc san kỷ niệm của Viện Đại Học DaLat (Kỷ yếu Viện Đại Học DaLat 1958-1968) tôi thấy người cầm bảng cho phái đoàn lực sĩ của Viện Đại Học DaLat là mỹ nhân ÁNH TUYẾT (K1, cố phu nhân của ông VĨNH Tây (K1).  Hàng sau có 2 ông mà tôi nhận diện được là ông HUỲNH THOẢNG (K1) và ông NGÔ ĐÌNH NĂNG (K1). Kỳ dư các ông các bà lực sĩ khác vì hình mờ nên không thấy được!

Unbenannt

Niên khoá sau 1965-1966, tôi "bị" (ghi tên cho đông đảo, xôm tụ) tham dự với "tư cách lực sĩ" (lực sĩ gì mà ốm nhom ốm nhách) của Viện Đại Học DaLat với hai bộ môn : bơi lội, điền kinh chạy 100 mét nước rút và marathon. 

Nhờ vậy mà sau này "lặn sâu", "chạy làng" hơi nhiều). Lần tổ chức Thể Thao Liên Viện này do Viện Đại Học Saigon đứng ra "đăng cai". 

Tất cả các lực sĩ của các Viện (ngoài Viện Đại Học Saigon và Viện Đại Học Vạn Hạnh, thành lập tháng 9/1964) đều trú ngụ tại Sân Vận Động Cộng Hòa , đường Nguyễn Kim. 

Các lực sĩ của các quốc gia trên thế giới trước khi tranh tài trong nước hay ở ngoại quốc đều phải cấm trại. Tuy nhiên,các lực sĩ của Viện Ta thì chơi ngược lại ! Đáp máy bay C.130 từ phi trường Cam Ly đến Saigon, xe buýt chở về sân vận động Cộng Hòa, nhận phòng, rồi... dzọt. Chỉ có giờ ăn trưa và ăn tối thì mới thấy một số các ông lực sĩ của Viện Ta xuất hiện để ăn. Vì thức ăn toàn hảo hạng dành cho các lực sĩ theo tiêu chuẩn quốc tế, bảo đảm đầy đủ calorie, nào là bíp tết, khoai chiên, cá , rau cải, trứng, đường sữa, phó mát, bơ...Còn tiền riêng thì đi du hý ! 

Có ông lặn kỹ quá đến nỗi không nhớ lịch trình mình thi đấu ngày nào, giờ nào; vội xẹt ngang hỏi, nếu ngày mai thi, thì tối ngủ lại sân vận động...Vì năng "luyện tập" như vậy nên Viện Ta bàn tính nhường nhịn khiêm tốn nên nhường huy chương cho các Viện khác hơi nhiều ! 

Phần tôi, khi bắt đầu gõ nhịp chạy 100 mét nước rút (không có bắn súng hơi) mới dợm chân được vài bước thì, xui quá, "vọp bẻ" nên đành tức tưởi nhìn lực sĩ khác đoạt mất huy chương vàng! 

Có một tay sinh viên Kiến Trúc Saigon tên là HAY (không nhớ họ) cùng dự thi môn chạy marathon với tôi. Tên nầy ghê gớm lắm! Tôi nhìn hắn chạy thử 10 vòng chu vi sân vận động (hình như 800 mét mỗi vòng) mà thấy khiếp. Hắn chạy đều đều mấy vòng đầu, đến còn hai vòng chót nữa thì hắn chạy nước rút! Chạy xong, hắn lên khán đài ngồi gần tôi mà không thấy mệt gì cả, hơi thở vẫn điều hoà. Tôi ngạc nhiên hỏi hắn thì hắn bí mật cho biết vì nhịp tim của hắn rất đặc biệt, tim đập rất chậm nên không thấy mệt. Phần tôi thì nhịp tim đập nhanh! Nhất là khi nào đối diện với một người đẹp thì nó càng gia tốc hơn. Vì vậy hôm sau, tới giờ thi, thấy hắn, tôi nể mặt, nhường huy chương cho hắn. Dại gì ló đầu ra khi biết chắc mình thua một ngàn phần trăm rồi! 

Một sự kiện rất đặc biệt được thông báo cho các lực sĩ của các Viện là Tướng Nguyễn Cao Kỳ lúc đó là Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương, sẽ đến găp gỡ và nói chuyện với sinh viên vào một buổi tối. Chiều đó, tôi ở lại sân vận động để có dịp nhìn và nghe ông Tướng nói chuyện nhưng thấy các toán vệ sĩ, các toán lính đi dò mìn chung quanh sân vận động, tôi thấy "lạnh cẳng " nên...dzọt sớm !

Kết quả hơn hai tuần thi đấu, dường như Viện Ta đoạt huy chương rất "nhẹ nhàng". NGUYỄN KHOA VĂN (K2) đoạt huy chương đồng về môn bơi lội.

Niên khoá 1966-1967, tới phiên Viện Đại Học Huế đứng ra tổ chức. Ngoài Viện Đại Học Huế, chủ nhà, còn có các Viện Đại Học khác như Saigon, Vạn Hạnh và DaLat. Lần nầy phái đoàn lực sĩ nam nữ của Viện Ta rất đông. Cũng dễ hiểu thôi. Saigon thì quen thuộc quá rồi. Còn Huế thì ít người có cơ hội biết...Đây là một dịp may hiếm có. Với thành tích lừng lẫy qua cuộc tranh tài năm ngoái tại Saigon, tôi lại được chọn một lần nữa và cũng thi các bộ môn cũ bơi lội và chạy.

Đoàn lực sĩ của Viện Ta tham dự các bộ môn thi đấu như sau :

NAM LỰC SĨ
- Bóng tròn: Vũ Trong Thức (K1)Trần Thiện Tường (K1)Trần Văn Tài 2..
- Bóng rổ: Trần Khải Nguyên (K1) Huỳnh Thoảng (K1) Ngô Đình Năng (K1)
Châu Văn Nghiệm (K10) Đỗ Khắc Khương (K2)...
- Bóng bàn: Vũ Trọng Thức (K1) Trần Văn Lược (K1) Đặng Minh Phương (K1)...
- Bóng chuyền: Vũ Trọng Thức (K1) Nguyễn Phước Tuyển (K2) Trần Khải Nguyên (K1)...
- Nhu Đạo: Nguyễn Quốc Vọng(K1) Mai Trung Cường(K1) Hoàng Ngọc Phan 2
...Triệu (VK) và Nguyễn Đình Cận(K1)..
- Điền Kinh: Trần Quang Cảnh (K1,Cảnh Hù) Hoàng Đình Thường, Hiệp2
- Bơi lội: Nguyễn Văn Hiệp (K2)...
- Badminton: Lý Đăng Khoa (K2)...
Đặc biệt ông Vũ Trọng Thức (K1) mặc dù người nhỏ con nhưng hầu như môn nào ông cũng bao giàn hết.
(Trich email của Cao Đình Phúc gửi, nói về Vũ Trọng Thức: "Hiep oi”.

Nói về mục này là phải nhớ tới Vũ Trọng Thức K1 (dân thể thao đủ môn: bóng bàn, đá bóng ...mặc dù bé tí teo nhưng thời đó dữ dằn lắm, lại còn được đại diện sinh viên VN qua Nhật thi đấu (môn gì không biết) nhưng chắc chắn là chỉ có một mình nó được cử đi để cầm cờ VN vào ngày khai mạc (năm nào không rõ) và đoàn VN cũng chỉ có một mình ên ... dễ sợ chưa ?")

Đặc biệt xin lỗi những anh có tham dự nhưng không có tên, vì không nhớ hết. Xin lên tiếng.Có vài anh khóa 3 nữa...

NỮ LỰC SĨ
- Điền Kinh: Phạm Thị Sáng (K1), Văn Thị Xuân Thuỳ (VK), Bùi Ngọc Nga K1, Thân Thị Thiên Nhiên (K1)...
- Badminton:..Kim Loan (VK, dân Nhatrang), Chu Nguyệt Nga (K2 hay 3)?...
Còn các bộ môn khác,  không nhớ môn nào và các nữ lực sĩ nào tham dự...

Ngoài ra có một số các chị mặc dù có tham dự nhưng không thi đấu một môn nào cả, điển hình là chị Trần Khánh Tuyết (K1) như email chị viết như sau:
" Các Thụ Nhân lực sĩ xa xưa thân,
Tui chỉ nhớ Cha bảo tui phải theo Đoàn ra Huế để... lo cho anh em. Mò hoài trong ký ức chỉ nhớ được hình ảnh mình chạy tới, chạy lui...ném nước đá (hay nước lạnh?) cho các bạn. Còn lo thêm cái gì khác thì không nhớ ra nổi! Rõ khổ cho Cha! Bao nhiêu là tin cậy vào TN con này, cả đời chỉ rong chơi!"...Hình như có cả chị Lạc Kim Anh (K1) phu nhân của anh Các nữa, chắc cũng chạy tới chạy lui...Như vậy có thể nói lực sĩ thi đấu và "lực sĩ chạy tới chạy lui " quân số ngang ngửa với nhau...

Trước khi ra quân cũng phải tập dượt như ai. Về môn bơi lội thì chịu thua. Không biết hồi đó ở DaLat có piscine nào không. Không lẽ tôi phải về Nhatrang để tập dượt. Tự cho phép mình miễn tập môn này. Chỉ còn môn điền kinh, môn này dưới quyền "sinh sát" của ông Hồ Quang Nhựt (K1), người rất nổi tiếng, nay là thầy sáu vĩnh viễn - phó tế bên Công Giáo). Chạy nước rút thì tập trong sân vận động bên kia bờ hồ. Chạy việt dã (marathon) chung quanh bờ hồ. Ông Nhụt lái chiếc Vespa xanh, "đệ tử" của ông ...Hồ là...HOÀI NAM (K2, không nhớ họ) ngồi phía sau. Tôi chạy mấy vòng chu vi bờ hồ, mệt bở hơi, bèn lỉnh vào một gốc cây để thở và trốn...Các môn khác như bóng bàn, bóng rổ, bóng chuyền, nhu đạo...thì tập dượt trong Đaị Học Xá...

Từ phi trường Cam Ly, khoảng 10 giờ sáng, chiếc vận tải cơ C130 chở phái đoàn lực sĩ Viện Đại Học Dalat (khoảng 60 năm nữ lực sĩ ?) đáp xuống phi trường Phú Bài sau khoảng gần 5 giờ bay. Phi công chính và phi công phụ là người Mỹ, thuộc Không Lực Hoa Kỳ. Các phi công mở cửa phòng lái, ai muốn lên xem thì tự nhiên. Có một vài nữ lực sĩ lên xem và có chị còn ngồi vào ghế phi công phụ (Không biết về sau này có chị nào "lái phi công" không ?). 

Vừa bước ra khỏi phi cơ thì nữ lực sĩ Văn Thị Xuân Thuỳ (Văn Khoa, một hoa khôi của Viện, dân Nhatrang, hiện ở Sacramento, Bắc CALI)...xỉu liền (lực sĩ Viện ta thì cỡ này không hà!). Lực sĩ Nguyễn Đình Cận không biết từ đâu (chắc hờm sẵn rồi) phóng nhanh đến đỡ người đẹp trong đôi vòng tay dũng mãnh của chàng y hệt như nàng Juliette từ ban công nhảy đại xuống (chết bỏ, tình yêu mãnh liệt như vậy đó !) trong vòng tay đón chờ của Roméo...Vài phút sau thì Juliette Xuân Thuỳ tỉnh lại...Vì lu bu lo lấy đồ đạc cá nhân nên tôi không biết chàng Roméo Cận có áp dụng phương pháp hô hấp nhân tạo mouth to mouth hay không?

Xe buýt chở phái đoàn về trú tại Trường Kiểu Mẫu bên tả ngạn sông Hương. 

Khách sạn Hương Giang lúc này đang còn xây cất...Buổi chiều, phái đoàn của Viện Đaị Học Huế, chủ nhà, mời khách bữa cơm tối trong một lớp học trên lầu của trường, với những món đặc sản Huế...Giờ đây nhớ lại bữa cơm chiều sơ giao đó mà thấy hồn cứ lâng lâng...Một chàng lực sĩ ngồi thì có hai nàng tiên nữ xứ Thần Kinh ngồi hai bên, cứ như là Hoàng Thượng ngự yến ...Tiếng nói ngọt ngào, nhỏ nhẹ, nghe như rót mật vào tai...làm các chàng Dalat đê mê, đờ đẫn...Tôi phải lắc lắc cái đầu để tỉnh táo lại, cố giữ vững "lập trường, đề cao cảnh giác, biết đâu địch đang gài mỹ nhân kế đây. "Nhưng vẫn còn văng vẳng nghe tiếng oanh vàng thỏ thẻ bên tai"  Anh nhợ bữa mô thi ẹ ẹ một chút hay bỏ thi cũng được, hỉ ". 

Vì em,  cỡ nào anh cũng  tới  hết !...Còn các nữ lực sĩ của Viện ta thì cũng vậy, có hai chàng trai núi Ngự Bình kèm cặp hai bên, chắc lại chơi cái chiêu .."đực rựa kế..". Địch ghê gớm thật ! Yến tiệc xong xuôi, các hoàng hậu, thứ phi và cung tần mỹ nữ lui vào chốn khuê phòng, còn các hoàng thượng thì lo đi ngủ...đò ! (cho chắc ăn). Tôi và hai tay "cốt đột" khác (xin chịu, cố gắng nhớ lắm mà không nhớ nổi là 2 tên nào) đi lên đường Huỳnh Thúc Kháng - Hàng Bè để mướn đò. Sực nhớ một con số nhà trên con đường này, tôi tìm đến và bấm chuông...Hai phút trôi qua, không động tĩnh. Tôi bấm lần thứ hai, nghe tiếng chuông reo, nhưng im lìm...

Tôi bỏ đi...Câu chuyện như thế này: năm trước (65-66) tôi với 2 tay cùng khóa đang ngao du khu Hoà Bình trong một buổi sáng sớm nắng đẹp. Bỗng dưng có một bóng hồng từ xa đi lại, nhắm ngay tôi mà đi tới...Hai tay kia dạt ra (sợ văng miểng). Tôi thủ thế. Một thoáng thật nhanh, tôi nhìn khuôn mặt của người đẹp xem có quen quen không, xem có phải là "nạn nhân" bị tôi "chạy làng" không. Hên quá ,không phải! Lại lo,có phải" nữ sát thủ" được thuê mướn không ? "Anh có phải sinh viên DaLat ?". Một giọng Huế cất lên nhẹ nhàng như gió thoảng. Tôi gật đầu như cái máy. Nàng là sinh viên Huế lên Dalat chơi và hỏi đường. Tôi dẫn đi một đoạn rồi chia tay .Nàng cho tôi biết tên nàng là... DIỆM TR. nhà số...đường Huỳnh Thúc Kháng..."Khi mô anh ra Huệ, nhớ đến nhà em chơi...". Nay tôi đã đến nhưng không gặp. Âu cũng là ...duyên số !(Tôi có hỏi về nàng với các bạn sinh viên Huế được biết nàng là ái nữ của Giáo sư Khoa Trưởng Văn Khoa Huế).

Đò cắm sào giữa giòng sông Hương. Ánh trăng rằm lung linh mặt nước. Nhìn lên bầu trời, dung nhan của chị Hằng tròn trịa, tươi tắn, trong vắt...Gió thổi nhè nhẹ mát rượi. Không gian tĩnh mịch.Tâm hồn chùng xuống. Ánh đèn cầu Trường Tiền hiu hắt xa xa. Chúng tôi ngả lưng ở khoang cuối của con đò.  Khoang giữa là của gia đình bác chủ đò. Bác khoảng trên sáu mươi. Tóc, râu đã bạc. Cô cháu gái trạc 16, mái tóc dài xoã một bên đang ngồi học bài dưới ánh đèn dầu. Một bức tranh đẹp tuyệt vời. Chúng tôi di chuyển ra khoang trước ngồi ở mũi đò. Một lúc sau có 2 chiếc xuồng nhỏ tấp vào hai bên mũi thuyền. Những chiếc xuồng này bán đồ nhậu như hột vịt lộn, khô mực...và các đặc sản Huế như nem, bánh nậm. Chúng tôi mua một số với vài chai bia "con cọp”...Cứ tưởng mình như người Lý Bạch uống rượu làm thơ dưới trăng! (không biết ông Lý Bạch uống rượu có "mồi" hay không.)

Tới ngày thi bơi lội. Từ ngày ra Huế tôi chẳng thèm bơi tập dượt làm gì vì biết chắc mình sẽ cầm đèn đỏ. Lo rong chơi đây đó. Sáng sớm chưa kịp súc miệng đánh răng rửa mặt là cả đám chúng tôi nhào ra ngồi trên lan can phía bên này của cầu Trường Tiền, ngắm nhìn những tà áo dài trắng của các nữ sinh, sinh viên đạp xe từ phía bên kia của cầu, phía chợ Đông Ba, về hướng chúng tôi như một đàn bướm trắng. Đẹp quá! Khu chúng tôi ở, trường Kiểu Mẫu, là một khu có nhiều các trường Trung Học và Đại Học Luật, Văn Khoa, Sư Phạm, trường Khải Định.Trường Đồng Khánh, Trường Đoàn Thị Điểm, bưu điện, nhà sách...(Không biết có đúng không, các anh chị em TN Huế ?) 

Một hôm "bè lũ" chúng tôi đi viếng chùa Thiên Mụ. Giòng sông Vân Thánh nước trong vắt chảy lững lờ soi hình các cô nữ sinh áo dài trắng, tóc dài nghiêng nghiêng vành nón đang đi ngược về phía chúng tôi. Bè lũ chúng tôi đành nằm dài xuống đất, đưa máy ảnh lên chụp vì chụp thẳng không được, chiếc nón bài thơ che gần hết khuôn mặt rồi...Mà sao cô nào cô nấy đều đẹp, đẹp đều...


Có bốn tuyển thủ của bốn Viện ghi danh tham dự môn bơi lội 100 mét tự do. Tôi biết là tôi chết chắc rồi! Làm sao mà địch nổi với tay sinh viên bơi lội nổi tiếng của Viện Đại Học Huế tên là THẮNG (không nhớ họ, sau này là bác sĩ quân y, có phu nhân là một người đẹp nổi tiếng ở Huế, tên là Ngọc Ng. ái nữ của ông chủ rạp xi nê Tân Tân Huế. Muốn biết, xin hỏi ông Vĩnh Hộ (K2).  Còn hai địch thủ kia, một của Viện Đại Học Saigon, một của Viện Đại Học Vạn Hạnh. 

Loa réo tên. Chỉ có tôi và 2 địch thủ của Huế và Sàigòn. Còn ông Vạn Hạnh thì mất tiêu..(tôi xin thề là không thương lượng cũng như không thuê "sát thủ" hại ông này !). Tôi mừng thầm. Chỉ có 3 huy chương...Chạy đằng trời khỏi nắng. Tiếng gõ lớn, cả ba chúng tôi phóng xuống.Thiệt hú hồn! Cái quần tắm của tôi lâu ngày không xử dụng, giây thun hơi chùng nên khi phóng xuống nó muốn...tuột ra...Hai lực sĩ Huế và Sàigòn bơi nhanh như rái, thoáng đã về đến đích. Còn tôi thì tà tà, lội đi đâu mà vội mặc dù trên bờ, phe mình cổ vũ quá ể, lẹ lẹ đi Hiệp, lẹ lẹ đi mày! Tôi cười...tình...Dĩ nhiên là hưởng huy chương đồng. Thấy chưa, hay không bằng hên!

Phần thi đấu nhu đạo. Ông Hoàng Ngọc Phan (K2 là ba của võ sĩ Lê Cung) thi đấu với ông Nghĩa (sinh viên kiến trúc Saigon, biệt danh là Nghĩa Trâu. Ông này khỏe như...trâu, môn nào cũng dự thi, còn hơn ông Vũ Trọng Thức nhà ta một bậc). Ỷ sức khoẻ và chiều cao ông này cứ nhào vào ôm ông Phan mà đè, chẳng có chiêu thức võ nghệ nào! Phe mình la ó phản đối kịch liệt! Cuối cùng cũng chấp nhận kết quả thua cuộc !

Đến môn thi Badminton (cầu lông) thì mới rõ "lòng dạ đàn ông"! Người ta thường nói "Lòng dạ đàn bà" chứ có bao giờ nói "lòng dạ đàn ông" đâu. Tuyển thủ của Viện ta (hình như là)...Kim Loan (VK) và "đối phương" là nữ sinh viên Huế tên là Thủy Tiên, một trong những người đẹp của xứ Huế ! Quả đẹp thật ! Tóc ngắn, khuôn mặt trái xoan, da trắng, hàng mi lông mày đen, cong vút, lại điểm thêm một nốt ruồi duyên ở cằm phải. Môi đỏ như son. Thân hình cân đối. Mặc đầm trắng kiểu thể thao, váy cao trên đầu gối, khoe cặp đùi thon và đều đặn...Thế có chết người không chớ! Đám "lựu đạn" chúng tôi thay vì ngồi bệt xuống đất bên phía gà nhà ủng hộ, lại kéo qua bên kia hết ráo, lại còn ủng hộ "kẻ thù' nữa chứ ! Mỗi lần người đẹp Thủy Tiên nhảy lên đập banh, gió thổi tốc lên, là chúng tôi muốn thót tim, may mà không có tên nào đứng tim,"tử trận" tại chỗ ! 

Kết quả nhãn tiền. Phe ta thua vì "lòng dạ" của ...mấy thằng sinh viên Dalat! " ...Ai bảo em là giai nhân..."

Kết thúc các cuộc thi đấu, chúng tôi được Viện Đại Học Huế cung cấp xe, chở đi thăm viếng các danh lam thắng cảnh của Huế : Hồ Tịnh Tâm, Đàn Nam Giao, lăng Tự Đức, Cửa Thuận An, Đồi Vọng Cảnh...Đi bộ tà tà trên đường Trần Hưng Đạo, Phú Văn Lâu, vào chợ Đông Ba mua chiếc nón bài thơ, ăn cơm Âm Phủ, chạy xe Honda vòng chảo tại sân vận động Tự Do...

Điều đáng nói là trong chuyến đi Huế tham dự thể thao, có một chuyện tình đẹp như mơ, kết thúc có hậu, đơm hoa kết trái, bây giờ con cháu đầy đàn. Chàng và nàng đều ở vào lứa tuổi đôi mươi. Nàng là sinh viên K1 CTKD. Chàng là Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Huế.

Xin đọc email của chị Thân Thị Thiên Nhiên(K1):
"Đại Hội thể thao Huế có tôi tham dự với môn chạy bộ. Được biết là chị PTS chạy bị té, anh D (chồng chị bây giờ) là chủ tịch sinh viên Huế đến cấp cứu và săn sóc suốt đời luôn..."
Và đây là điện thư của nàng :
"Nhắc chi chuyện té lúc chạy tiếp sức 400 mét Thiên Nhiên ơi!  Xui một phút kéo theo chuyện mang gông suốt đời. Hôm nào rảnh tui sẽ kể cho nghe chi tiết vụ này. Thiệt là xui! Cho gửi lời thăm ông xã. Thân. S."

Hiep 2
* Viện Đại Học Cần Thơ thành lập vào cuối tháng 3 năm 1966 nên không tham dự Thể Thao Liên Viện các niên khoá 1965-1966,1966-1967. Niên khoá 1967-1968 Viện Đaị Học Cần Thơ đứng ra tổ chức nhưng tình hình chiến sự lúc bấy giờ và nhất là sau trận Mậu Thân, việc tổ chức Thể Thao Liên Viện bị hủy bỏ cho đến ngày 30/4/1975.
(Bài này đã được đăng ngày 14-09-2012 trên TNBMNC)

7/12/23

Kỷ niệm ngày tháng cũ - Thành lập Quán T2

Thành Lập Quán T2

Một sự kiện nổi bật của sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt đó là sự ra đời của quán Cà Phê Văn Nghệ T2. Quán T2 là quán cà phê văn nghệ đầu tiên của sinh viên ở Việt Nam. Hai người thành lập quán T2 là Nguyễn Lập Chí và Nguyễn Tường Cẩm.

Tuần đầu, lên sân khấu quán T2 chỉ là những tay văn nghệ hát hay không bằng hay hát, đánh trống như gõ thùng, gảy đàn từng tưng. Sau đó, quán đông khách hơn, văn nghệ khá hơn. Ca sĩ thì có Kha Tư Giáo, Dương Ngô Đông, Trần Ngọc Phong, Lưu Văn Dân … Đàn, trống có Trần Văn Chung, Trần Văn Lưu. Đặc biệt có tay đàn cổ điển Cao Hoàng của Văn Khoa làm không khí quán T2 thêm đa dạng và trí thức.

Chỉ một tháng sau, sân khấu T2 có diễn kịch. Diễn viên Lưu Văn Dân, Nguyễn Lập Chí và diễn viên nữ Nguyễn Thị Thiên Nhiên diễn những vở hài kịch của Nguyễn Lập Chí. Ca sĩ, đàn sĩ, kịch sĩ là sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt. Chỉ có hai ca sĩ thượng đẳng không phải là sinh viên đó là Lê Uyên và Phương. Vợ chồng ca sĩ này thường tới quán T2 “ thực tập “ để sau đó về Sài Gòn và trở thành đôi song ca nổi tiếng. 

Những tháng sau, quán T2 tiếp đón các phái đoàn sinh viên từ các nơi đến thăm viếng Đại Học Đà Lạt, các văn nghệ sĩ, du khách. Các nghệ sĩ lớn như Pham Duy, Trịnh Công Sơn, Miên Đức Thắng, Bùi Thiện, Đoàn Chính … đã trình diễn trên sân khấu quán T2. Quán T2 đã mở đầu cho các quán văn nghệ của sinh viên ở Sài Gòn như quán Văn ở Văn Khoa nơi mà Khánh Ly hát. 

Cẩm kể về việc thành lập Quán T2 : “ Đến số báo thứ tám của tờ báo Diễn Đàn Sinh Viên, anh Nguyễn Văn Bôn bị bạo bệnh (đau màng óc) đột ngột từ trần. Tờ báo không có người phụ trách trình bầy. Tôi mời Nguyễn Lập Chí cộng tác. Được Chí nhận lời tiếp tay. Tôi mang stencil đến phòng của Chí để nhờ thực hiện. Trong lúc bàn chuyện phiếm về các sinh hoạt của Viện Đại Học, tôi đề nghị với Chí “ Chúng ta nhẩy ra hoạt động văn nghệ bằng cách mở quán cà phê có sân khấu trình diễn văn nghệ.” Đúng ý, nên Chí hưởng ứng ngay. 

Rồi hai đứa bàn chuyện tài chánh. Khi đó, tôi có 5.000 đồng tiền để dành. Chí có cái nhẫn kim cương nếu đem bán hoặc đem cầm cũng có trên 10.000 đồng. Dụng cụ âm nhạc, Chí có đầy đủ và sẽ về Saigon mang lên Dalat. Bà chủ nhà nơi tôi thuê mới xây xong căn nhà mới bên cạnh. Định ngăn nhiều phòng cho sinh viên thuê. Nên có thể thuê mở quán cà phê trước khi cho các sinh viên thuê … Rồi bàn tên quán. Tôi đề nghị tên QUÁN SINH VIÊN cũng như tờ báo Diễn Đàn Sinh Viên để mọi người nhất là chính quyền biết : đây là những sinh hoạt của sinh viên. Không phải lo xin giấy phép mở quán và đóng thuế. Chí đồng ý và bổ túc thêm chữ T2 cho có thêm nhiều ý nghĩa cùng tên tờ báo “ Tí Ti “ do Chí thực hiện. Chúng tôi đi tìm bà chủ nhà để hỏi thuê. Bà chủ nhà rất vui tính và quý mến chúng tôi. Riêng cá nhân tôi, ông bà chủ nhà coi như con, giúp đỡ tôi thường xuyên mọi thứ. Nên khi hỏi thuê nhà để mở quán cà phê, bà ta chịu liền. Tự động giảm giá từ 4.000 đồng như dự trù xuống còn 2.500 đồng / một tháng kể cả điện nước. Và còn nói : ” Nếu không lo đủ chi phí, sẽ giảm xuống 2.000 đồng”

Bàn xong kế hoạch, chúng tôi vào gặp Cha Viện Trưởng xin ý kiến và nhờ Cha tiếp tay hỗ trợ. Chúng tôi cũng trình bầy cho Cha rõ mục đích mở quán không phải để kiếm ăn mà là tạo sinh hoạt văn nghệ cho sinh viên. Nghe điều đó, Cha rất hài lòng và sẵn sàng hỗ trợ : kể cả tiền thuê nhà nếu không đủ chi phí. Cha móc túi ủng hộ trước 3.000 đồng để “ Khai trương “, để mọi sinh viên được giải khát miễn phí trong ba ngày liên tiếp. Cha cũng cho mượn đàn trống và các dụng cụ âm nhạc (đàn điện…) để làm phương tiện hoạt động.

Quán Sinh Viên T2 được thành lập trong một phút bốc đồng của hai thằng thích hoạt động với sự ham vui của bà chủ nhà. Thêm vào đó là tình yêu thương bao la của Cha Viện Trưởng đối với các sinh viên.

Mở quán không mục đích kinh doanh kiếm lời. Mà chỉ để làm phương tiện hoạt động. Nên chúng tôi không lạm dụng xin tiền của Cha. Cũng không lợi dụng móc tiền của các bạn vì giá rất bình dân. Cũng không lợi dụng các buổi trình diễn của các văn nghệ sỹ như Trịnh Công Sơn, Phạm Duy …. để tăng giá đặc biệt. Quán tiếp đón tất cả mọi người đến tham dự dù có tiền giải khát hay không. Đó là ý nghĩa của chữ T2 . Chính vì thế, mọi người đều quý mến và ủng hộ Quán.

Mặc dù liên hệ đến tiền bạc, nhưng chưa bao giờ có sự bất đồng ý kiến giữa Chí và tôi. Chúng tôi tự lo đủ chi phí, không phải làm phiền đến Cha. Nếu dư dả thì tu bổ, sắm sửa thêm cho đầy đủ tiện nghi. Quán mỗi ngày một đông, không đủ chỗ ngồi cho khách. Bà chủ nhà sửa sang lại nơi tôi đang ở (tôi rời sang phòng khác) và mở thêm thông căn phòng phía sau cho chúng tôi dời quán sang rộng thêm được 30 chỗ ngồi thay vì địa điểm cũ chỉ chứa được 120 chỗ ngồi….Vậy mà bà chủ vẫn không tính thêm tiền mướn. Còn địa điểm cũ bên cạnh trở thành văn phòng HỘI THANH NIÊN THIỆN CHÍ DALAT cũng do tôi thành lập. 

Mỗi dịp Giáng Sinh, Cha Lập tặng 1.000 đồng để nhờ bà chủ nhà nấu cháo gà hay làm bánh mỳ thịt cho sinh viên ăn miễn phí vào đêm Giáng Sinh. Hoặc trong những dịp các phái đoàn đến thăm Viện Đại Học và đến Quán T2 sinh hoạt với sinh viên. Những khi ấy đều giải khát miễn phí vì Cha đã yểm trợ 500 hay 1.000 đồng tùy theo số người đến tham dự. Như Vậy Quán T2 được mở ra không phải chỉ có Chí và Cẩm, mà còn phải kể thêm Cha Lập Viện Trưởng.

Nỗi khó khăn của Quán T2 là tình hình biến động, nhất là từ tết Mậu Thân 1968. Thị Xã Dalat giới nghiêm hàng đêm nên Quán phải đóng cửa. Chúng tôi cũng như các bạn mục đích lên Dalat học và thi đậu, chứ không không phải để mở quán cà phê để kiếm sống. Do đó, mùa thi phải đóng cửa chỉ mở hai đêm cuối tuần. Nếu đóng cửa hoài chắc không đủ tiền để trả thuê cửa tiệm. Chắc chắn chúng tôi phải chạy lên Viện Đại Học tìm Cha Lập để cầu cứu bởi lúc nào Ngài cũng sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi cũng như các sinh viên trong mọi trường hợp khó khăn. Tốt nghiệp xong, tôi cũng như đa số các bạn cùng khóa đủ tuổi phải lên đường nhập ngũ Khóa 9 – 68 ở Quang Trung và Thủ Đức. 

Vì quá hoạt động không đủ thì giờ học nên Chí thi rớt. Trốn ở lại Dalat để tránh né động viên. Không thể tự điều khiển Quán T2 cùng với sự chán nản thi rớt. Nên Chí tự động dẹp Quán và hoàn trả lại Viện Đại Học những gì Cha đã cho mượn. 

Tuy Quán T2 đã bị dẹp nhưng những kỷ niệm tuyệt đẹp của thời dĩ vãng vẫn còn sống mãi trong chúng ta .

Trích "Tuyển tập truyện ngắn - Sinh viên Xa nhà" của Nguyễn Đức Quang (GC) 

7/10/23

Kỷ niệm ngày tháng cũ - Sinh viên xa nhà: Khu Montmartre Đà Lạt, thành lập Hội Thanh Niên Thiện Chí

Bài viết Sinh Viên Xa Nhà – Khu Montmartre Đà Lạt là tổng hợp của các đoạn trích từ các bài của các anh : Tạ Duy Phong, Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Văn Sơn, Hoàng Ngọc Nguyên, Nguyễn Thanh Nhàn, Phan Thạnh …

Xin chân thành cám ơn các anh có đoạn văn trích trong bài viết.

Quang Già Cơ

Viện Đại Học Đà Lạt

Sinh Viên Xa Nhà

Khu Montmartre Đà Lạt


Ngày còn học trung học, đọc tiểu thuyết Mây Ngàn của tác giả Tôi Chưa Hề Yêu Ai (Đái Đức Tuấn - TCHYA), tôi mơ ước được đặt chân đến khu nghệ sĩ, khu sinh viên của thành phố Paris. Những sinh viên Việt Nam sống trong khu sinh viên nghèo của thành phố Paris. Cuộc sống sinh viên Việt trên đất khách nghèo túng vất vả, nhưng sao tôi vẫn mơ ước. Cho đến nay, tôi vẫn chưa thực hiện được ước mơ đó.

Năm 1964, tôi ghi danh theo học khóa I trường Chánh Trị Kinh Doanh, Viện Đại Học Đà Lạt. Viện Đại Học Đà Lạt là Viện Đại Học của Thiên Chúa Giáo. Đa số sinh viên của Viện ( 90% ) là những sinh viên ở tỉnh thành khác đến theo học tại Viện. 

Tôi ở Lữ Quán Thanh Niên. Khu Lữ Quán Thanh Niên và Khu Võ Tánh chỉ cách viện khoảng nửa cây số, nên nam nữ sinh viên thuê phòng tại hai khu này rất đông.

Khu này, có trường nữ trung học Bùi Thị Xuân, trường trung học Bồ Đề, chùa Linh Sơn. Khu này có Lữ Quán Thanh Niên của nhà nước dành cho những người có lợi tức trung bình và thấp đến ăn ở, có những quán ăn nhỏ nấu ăn cho sinh viên. Khu này có quán cà phê T2 của sinh viên. Khu này có trụ sở của Sinh Viên Công Tác Xã Hội và trụ sở Hội Thanh Niên Thiện Chí. Khu này có những nhóm văn nghệ, những nhóm báo chí, kịch sĩ, họa sĩ … vv… Những sinh viên ở những khu khác như Nam Đại Học Xá, Nữ Đại Học Xá, Khu B …vv… có máu văn nghệ, văn chương đều về sinh hoạt tại khu Lữ Quán Thanh Niên – Võ Tánh. Những văn nghệ sĩ có tiếng tăm của Miền Nam đến thăm Đà Lạt cũng đến ở, thăm và sinh hoạt ở khu vực này. Anh Khoáng, sinh viên văn khoa, đặt tên cho khu này là Montmartre Đà Lạt.

Tôi chắc chắn sinh viên ở khu Sinh Viên Võ Tánh - Lữ Quán Thanh Niên Đà Lạt có cuộc sống sung sướng, đầm ấm, thân mật hơn những khu của sinh viên Việt Nam du học ở Pháp được nhà văn TCHYA tả trong quyển Mây Ngàn. Khu Montmartre Đà Lạt có nhiều nhân tài, có nhiều mối tình tốt đẹp và rất hiếm có mối tình đau khổ. Có một điều tôi muốn nói là tình bạn, tình đồng môn tại Khu Monmastre Đà
Lạt nói riêng và Viện Đại Học Đà Lạt nói chung, gắn bó tuyệt vời. Điển hình anh Nguyễn Tường Cẩm một trong những sinh viên ưu tú của khu Montmartre Đà Lạt. Anh đã đóng góp và cống hiến tài năng và công sức của anh cho Viện Đại Học Đà Lạt. Anh có mối tình đẹp. Cuộc sống của anh đã nói lên tình bạn cao quí của sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt.

Thành Lập Hội Thanh Niên Thiện Chí

Nguyễn Tường Cẩm nổi lên như một chuyên viên tổ chức hoạt động xã hội. Họ tên Nguyễn Tường khiến mọi người tưởng anh là cháu của nhà cách mạnh Nguyễn Tường Tam. Anh Cẩm bà con với giáo sư kinh tế Nguyễn Cao Hách, anh không thuộc giòng họ Nguyễn Tường Tam. Theo anh tuy không có họ hàng với nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam, nhưng tình thân giữa anh và gia đình Nguyễn Tường Tam còn hơn ruột thịt. Anh là bạn thân với cô Thoa con gái Nhất Linh. Bà Nguyễn Thị Thế em gái của Nhất Linh rất quý mến anh. Bà Thế đã nhận anh làm con nuôi.

Hoàng Ngọc Nguyên viết : “Mọi người khóa 1 ai cũng biết Cẩm. Người không biết Cẩm trong khóa 1 của trường CTKD chắc có lẽ chỉ có những người ở Saigon ghi danh nhưng không đi học. Ngay cả Nguyễn Đức Quang (Du Ca), về sau này người ta mới biết, còn Cẩm là người được mọi người biết rất sớm.

Tên tuổi của anh gắn liền với sự hình thành của Hội TNTC. Chính nhờ hoạt động công tác xã hội của TNTC mà hàng trăm sinh viên nam nữ xa nhà vừa cảm thấy ít trống trải vừa có ý niệm xã hội là gì khi có dịp đến gần với đời sống của người dân một vùng cao nguyên đất đỏ có cả người kinh người thượng chung sống đề huề.

Và cũng nhờ hoạt động của hội mà người dân ngay cả ở những nơi xa xôi hẻo lánh cũng có thể thấy được những người trẻ có học thoát ra khỏi tháp ngà như thế nào. Những nơi như Suối Thông A, Suối Thông B, Tùng Nghĩa, Đơn Dương, Dam Pao, dốc Nhà Bò, dốc Nhà Xác, trường Xuân An… đã trở thành những “địa danh lịch sử” của hội Thanh Niên Thiện Chí Đà Lạt”.

Anh Cẩm và chị Lan Anh lên Đà Lạt mang theo lời ủy thác của ban lãnh đạo Hội Thanh Niên Thiện Chí Sài Gòn gồm các anh Nguyễn Hy Văn, Trần Văn Ngô, Hà Tường Cát, Dương Mạnh Hùng :” Cẩm và Lan Anh lên Đà Lạt học, cố hoạt động, quy tụ anh em thành lập Hội Thanh Niên Thiện Chí Đà Lạt “. Cẩm đã thực hiện lời ủy thác rất thành công. Tháng đầu tiên anh tổ chức nhiều trại công tác xã hội, những buổi đi pinic, những buổi thảo luận. Anh trở thành nhân vật nổi bật nhất của Viện. Hội Thanh Niên Thiện Chí qui tụ được nhiều sinh viên nam nữ tham gia.

Đây là tổ chức làm công tác xã hội lớn nhất của Viện Đại Học. Hội Thanh Niên Thiện Chí có văn phòng tọa lạc trên đường Võ Tánh.


(còn tiếp: Quán T2)