6/26/23
6/25/23
Vấn Đề Lương Tâm
Bên nước Sudan (*), có vùng nghèo đói,
Nhiều chuyện sảy ra, quá đỗi kinh hoàng!
Một ngày kia, nơi bãi rác, gò hoang,
Có em bé, bị bỏ rơi khốn khổ,
Đói khát gục đầu, em thoi thóp thở,
Sự sống còn, sắp tan biến như sương!
Ác nghiệt thay! Trong giây phút thảm thương,
Có con kên kên, từ đâu đáp tới.
Đậu ngay sau lưng, hau hau chờ đợi,
Em ngã ra, nó rỉa thịt ngon lành!
Cùng lúc ấy, nhà nhiếp ảnh trứ danh,
Kevin Carter bất ngờ có mặt
Anh thấy ngay, cảnh vô cùng bắt mắt
Ngàn năm một thuở, bố cục tuyệt vời!
Đưa máy ảnh lên, anh bấm liên hồi
Tay nghề cao, thu tấm hình tuyệt tác!
Ý nghĩa bức tranh cực kỳ tàn ác,
Song nhờ nó, anh đoạt giải Pulitzer.
“Kên kên rình mồi...” nổi tiếng bất ngờ,
Tên tuổi Kevin, lên đỉnh cao vinh dự!
Nhưng... khách ngắm tranh nhiều người giận dữ,
Nguyền rủa Kevin, đã hành động sai lầm!...
Qúa tàn nhẫn, khi thấy cảnh thương tâm,
Mê chụp ảnh, không cứu nguy em bé!
Nghe phiền trách, anh âm thầm lặng lẽ
Không thanh minh, chẳng tỏ thái độ nào
Lời thế nhân... những tưởng sẽ quên mau
Nào ai biết, lương tâm anh ân hận.
Kết quả bất ngờ, là... anh tự vẫn!
Chỉ ba tháng, sau khi lãnh giải Pulitzer!
33 tuổi đời, với di bút đơn sơ:
“Chuyện thật buồn, tôi vô cùng hối tiếc!”
-o--o--o-
Vấn đề “Lương tâm phán xét” nào ai biết!
Nhiều khi khủng khiếp, hơn cả "Án Lịnh Tòa"!
(*) – Sudan : Quốc gia khối Ả Rập, miền Đông Bắc Á Phi, nằm bên bờ Hồng Hải (Red Sea) ; lãnh thổ 728,251 dậm vuông, dân số 43 triệu.
Trần Quốc Bảo
6/24/23
84 năm Đây Thôn Vĩ Dạ
1)-Vĩ Dã Thôn (kỳ 1)
2)-Vĩ Dã Thôn (kỳ 2)
3)- Vĩ Dã Thôn (kỳ 3) 4)-Vĩ Dã Thôn (kỳ 4)
5)-Vĩ Dã Thôn (Kỳ 5) Lê Đình Thông Paris , 04.2017.
3)- Vĩ Dã Thôn (kỳ 3) 4)-Vĩ Dã Thôn (kỳ 4)
5)-Vĩ Dã Thôn (Kỳ 5) Lê Đình Thông Paris , 04.2017.
Đã được đăng trong
''Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại'' do Câu Lạc Bộ Van Hóa
Việt Nam Paris ấn hành năm 2022
''Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại'' do Câu Lạc Bộ Van Hóa
Việt Nam Paris ấn hành năm 2022
6/23/23
6/22/23
4 PHONG VỊ BÁNH BÁ TRẠNG, MÓN ĂN NGÀY TẾT ĐOAN NGỌ CỦA NGƯỜI HOA CHỢ LỚN
Bánh ú bá trạng là loại bánh nổi tiếng của người Hoa ở Chợ Lớn. Loại bánh này chỉ được gói bán vào dịp Tết Đoan Ngọ hàng năm. Ý nghĩa của loại bánh này cũng giống như món bánh ú tro của người Việt . Bánh bá trạng có nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau nhưng thường sẽ có hình tam giác tương tự như bánh ú tro và được gói bằng lá tre.
Bánh ú bá trạng - tinh hoa ẩm thực người Hoa vào dịp Tết Đoan Ngọ. Nhưng không phải cùng khẩu vị đâu nhé, họ sẽ chia ra theo từng vùng địa lý để chiếc bánh đúng với xực phàn của mình.
Có thể khác nhau về hình dạng nhưng bánh ú bá trạng đều được làm từ nếp dẻo và đậu phộng bên ngoài, trong nhân có trứng muối, đậu xanh, hạt điều, thịt heo và một số nguyên liệu khác.
Nhân bánh ú bá trạng rất đa dạng và ngày càng được biến tấu với nhiều nguyên liệu khác nhau tùy theo sở thích.
Vỏ ngoài của bánh sẽ là nếp và đậu được tuyển chọn từng hạt căng tròn. Nếp và đậu đều được ngâm qua một đêm cùng với các vị thảo dược cho ngấm và mềm trước khi làm bánh. Khi ăn, ngoài vị bùi của đậu bạn còn cảm nhận được vị mặn của thuốc bắc và mùi thơm thảo dược.
Người Hoa ở Chợ Lớn - Sài Gòn sẽ thường ăn bánh bá trạng theo khẩu vị của vùng: Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam, Phước Kiến, Nyonya, Kee.
Khẩu vị bánh bá trạng Quảng Đông
Bánh bá trạng của người gốc Hoa Quảng Đông ở Chợ Lớn nguyên liệu thường có đậu xanh cả hạt hoặc đậu xanh nghiền. Cách gói thường là dạng gói dài ít hình chóp nón như bánh ú.
Phần nhân bao gồm nếp (nêm muối, dầu tỏi), mỡ heo, thịt nạc, đậu xanh, lạp xưởng. Hương vị của bánh này thơm ngon và nếp tơi không dính. Bánh bá trạng của người Quảng Đông theo truyền thống chiếc bánh được gói đều 5 góc. Nhưng người gốc Quảng ở Chợ Lớn bây giờ họ thường gói gần giống hình vuông theo kiểu bánh chưng của người Việt.
Bánh bá trạng Phước Kiến
Bánh bá trạng của người Phước Kiến nhân và bánh có màu thẫm do ngũ vị hương, nước tương. Bánh có vị thơm ngon đậm đà.
Bánh bá trạng của người Phước Kiến thường có thêm bào ngư. Tất cả từ nhân đến nếp đều được xào lên trước khi luộc, hấp bánh.
Phần nhân bao gồm: Nếp rang sơ với ngũ vị hương và nước tương, thịt bụng heo, hạt dẻ, lòng đỏ trứng muối, tôm khô, không có đậu xanh và đậu phộng như bánh của người Quảng Đông. Hương vị của bánh bá trạng Phước Kiến thơm ngon riêng biệt, vị ngọt của nấm, hạt, cùng vị thơm của ngũ vị hương, nước tương.
Bánh bá trạng Tiều Châu
Đặc trưng của bánh bá trạng người Tiều là nhân bánh có cả mặn, ngọt hòa vào nhau. Bánh ú của người Tiều Châu và Phước Kiến thường được gói theo hình dạng 4 góc.
Nhân bao gồm: Nếp, nấm đông cô, thịt bụng, tôm khô, đậu đỏ hoặc hạt sen, mỡ chài, khoai môn. Hương vị bánh thơm ngon do sự pha trộn giữa nhân mặn, ngọt khiến bánh mềm và bùi hơn.
Bánh bá trạng Hải Nam
Bánh bá trạng Hải Nam với đặc trưng bề ngoài là loại bánh to nhất trong các loại bánh bá trạng.
Nhân bánh bao gồm: Nếp xào với tiêu đen, nước tương, thịt bụng, mỡ, hạt dẻ, nấm. Mỗi vùng có đặc điểm về văn hóa cũng như ẩm thực khác nhau nên cách gói bánh cũng khác nhau, nhưng tựu chung lại nguyên liệu chính vẫn là nếp, nấm đông cô, thịt heo hoặc mỡ heo.
Hương vị của bánh bá trạng Hải Nam thơm, ngọt hơn khi dùng với đường cọ.
Ở TP.HCM, nếu bạn muốn ăn bánh bá trạng size nhỏ làm nóng sẵn thì có thể ghé các cửa hàng bánh của người Hoa trên các con đường: 575 Nguyễn Trãi, Q.5 với hương vị Phước Kiến, 1133/44A đường Ba Tháng Hai, Q.11 theo kiểu truyền thống Triều Châu, NH Dim Tu Tac, NH Ngân Đình, NH Li Bai - theo phong vị Quảng Đông...
Ảnh: Quang Minh, Đại Phát, Tatlerasia
Theo: Thời Trang Trẻ
Nguồn : Blog Lưu Khâm Hưng
Tài Liệu đọc thêm: Bánh Ú
Video Clip: Bánh Bá Trạng
Ca dao dân gian:
Ca dao dân gian:
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc bán bông,
Tháng một, tháng chạp nên công hoàn toàn.
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc bán bông,
Tháng một, tháng chạp nên công hoàn toàn.
6/21/23
Giai Thoại văn Chương : Tết Đoan Ngọ
Cũng Tại Cái Ông KHUẤT NGUYÊN của nước Sở!
Mùng 5 tháng 5 là TIẾT ĐOAN NGỌ 端午節, theo Ngũ hành Bát quái, vì số 5 thuộc dương, nên Tiết Đoan Ngọ còn gọi là Tiết ĐOAN DƯƠNG 端陽. ĐOAN: là Đầu mối, là mở đầu; NGỌ: là giờ Ngọ, là giữa trưa; còn DƯƠNG là mặt trời, là khí dương, ĐOAN DƯƠNG có nghĩa là bắt đầu lúc khí dương đang thịnh. Còn ĐOAN NGỌ là bắt đầu lúc giữa trưa. Theo truyền thuyết Trung Hoa...
KHUẤT NGUYÊN 屈原 (340-278 TCN) : Vào cuối thời Chiến Quốc, có một vị đại thần nước Sở là Khuất Nguyên. Ông chẳng những là vị trung thần của nước Sở mà còn là nhà thơ, nhà văn hoá nổi tiếng của Trung Hoa. Ông là tác giả hai bài thơ bất hủ là LY TAO 離騷 và SỞ TỪ 楚辭, nổi tiếng trong văn hóa Trung Hoa cổ đại, thể hiện tâm trạng buồn vì đất nước suy vong. Do can ngăn Sở Hoài Vương không được, lại bị gian thần hãm hại, ông đã uất ức gieo mình xuống sông Mịch La tự trầm ngày mùng 5 tháng 5. Dân chúng nơi đó đã mang thuyền đến giữa dòng sông để cố gắng cứu vớt nhưng không thành. Để cho các loại cá và linh hồn của các yêu ma quỷ quái không lại gần được thi thể của ông họ đã đánh trống và vẩy nước bằng các mái chèo của họ. Sau đó để tưởng nhớ, tiếc thương cho một người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày mùng 5 tháng 5, dân Trung Hoa xưa lại làm bánh ú gói nhân thịt mỡ, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống để cúng Khuất Nguyên. Do đó, hình thành hai tập tục trong ngày lễ Đoan Ngọ cho đến hiên nay là : Đua thuyền rồng và Ăn bánh ú.
Trong văn học, tác phẩm LY TAO của Khuất Nguyên hình thành những từ như : Tao Nhân Mặc Khách, Tao Đàn ... Trong thơ ca Trung Hoa còn ghi nhận SỞ TỪ là nguồn gốc của thơ Thất ngôn sau nầy. Sau đây là hai bài thơ Thất ngôn Tứ tuyệt có liên quan đến Tết Đoan Ngọ ở đời Đường.
同州端午 ĐỒNG CHÂU ĐOAN NGỌ
鶴髮垂肩尺許長, Hạc phát thùy kiên xích hứa trường,
離家三十五端陽。 Ly gia tam thập ngũ Đoan Dương.
兒童見說深驚訝, Nhi đồng kiến thuyết thâm kinh nhạ,
卻問何方是故鄉。 Khước vấn hà phương thị cố hương ?
殷堯藩 Ân Nghiêu Phồn
Có nghĩa :
Tóc bạc qúa vai cả thước thường,
Xa nhà ba mươi lăm Đoan Dương.
Trẻ con nghe nói đều kinh ngạc,
Cùng hỏi nơi nào là cố hương ?
Tết giữa năm cũng khiến cho người lữ khách nhớ nhà như là Tết Nguyên Đán vậy ! Đọc bài thơ trên làm cho ta lại nhớ đến bài "Hồi Hương Ngẫu Thư" của Hạ Tri Chương... Ta đọc thêm một bài thơ về Đoan Ngọ nữa nhé !
端午 ĐOAN NGỌ
節分端午自誰言, Tiết phân Đoan Ngọ tự thùy ngôn,
萬古傳聞為屈原。 Vạn cổ truyền văn vị Khuất Nguyên.
堪笑楚江空渺渺, Kham tiếu Sở giang không diểu diểu,
不能洗得直臣冤。 Bất năng tẩy đắc trực thần oan !
文秀 Văn Tú
Có Nghĩa :
Đoan Ngọ ai chia Tết tháng năm,
Khuất Nguyên từ vạn cổ xa xăm.
Nực cười sông Sở trôi trôi mãi...
Rửa chẳng sạch oan đấng nghĩa thần !
Sông Mịch La của nước Sở, nơi Khuất Nguyên nhảy xuống để tự trầm, mấy ngàn năm vẫn không thể rửa hết oan khiên cho đấng bề tôi trung nghĩa. Bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến một "Giai thoại văn chương Việt Nam thời vua Tự Đức", ông vua rất giỏi văn thơ của Việt nam ta ...
Trong "Giai thoại văn chương Việt Nam" của Thái Bạch có kể về tài ứng đối của Đinh Nhật Thận như sau : Đinh Nhật Thận sinh năm Ất Hợi (1815) tại làng Thanh Lạo, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đỗ cử nhân khoa Đinh Dậu (1837), đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1838) được bổ làm Tri phủ. Ông thường giao du với Cao Bá Quát và Nguyễn Hàm Ninh. Sau Cao Bá Quát dấy binh chống lại triều đình, Đinh Nhật Thận bị tình nghi, bắt giải về kinh giam lại, sau lại được thả ra. ("Quốc Triều Hương Khoa Lục" chép về Đinh Nhật Thận: “ Vì là bạn cũ của tên giặc Cao Bá Quát nên bị bắt giam, sau được thả”.
Vì mến tài ông, vua Tự Đức lưu ông lại ở kinh đô để dạy cho con em trong hoàng tộc và cũng để dễ bề kiềm chế ông. Tục truyền khi ở kinh đô, một hôm Đinh Nhật Thận cùng các quan đại đại thần theo thuyền ngự đi ngoạn cảnh trên sông Hương. Nhân bàn luận về Nho giáo, ông nhắc đến câu: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” và cho đó là một câu chí lý. Nghe xong, vua Tự Đức phán :
- Vậy trẫm truyền cho khanh nhảy xuống sông này chết đi, khanh có dám làm không ?
Nghe vua phán vậy, các quan trên thuyền đều lo sợ thay cho ông, vì không nhảy xuống sông thì không trung với vua, mà nhảy xuống thì chết là cái chắc. Ấy vậy mà ông vẫn bình tĩnh lạy nhà vua ba lạy xong đâu vào đấy, rồi lao mình nhảy tỏm xuống dòng sông. Mọi người đều bàng hoàng, tưởng đây là nơi an nghỉ ngàn thu của ông rồi. Nhưng chỉ trong giây lát, ông ngoi đầu lên khỏi mặt nước và vói tay bám vào mạn thuyền ngự. Vua Tự Đức hỏi:
- Sao khanh không ở dưới đó luôn mà còn trở lên đây chi vậy ?
Ông bình tĩnh đáp rằng :
- Chỉ tại cái ông Khuất Nguyên của nước Sở. Nhà vua ngạc nhiên hỏi :
- Tại sao lại Khuất Nguyên ?. Ông chậm rãi kể :
- Thần định ở luôn dưới đó, nhưng khi vừa xuống đến đáy sông thì thần gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần rằng :
Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn, 我逢黯主含冤忍,
Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà ? 爾遇明君溺死何?
Có nghĩa :
Ta gặp phải chúa hắc ám, nên phải chịu oan đã đành,
Còn ngươi gặp được minh quân sao lại phải nhảy xuống đây trầm mình tự tử vậy ?
... hạ thần nghe ông ấy mắng quá đúng cho nên phải ngoi lên đây để tâu cùng bệ hạ rõ!
Vua Tự Đức cả cười, sai thị vệ kéo ông lên thuyền ngự, lấy quần áo cho ông thay rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng cho cái tài ứng đối mẫn tiệp, mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt.
Subscribe to:
Posts (Atom)