Showing posts with label Tản văn - ký sự -Truyện ngắn. Show all posts
Showing posts with label Tản văn - ký sự -Truyện ngắn. Show all posts

10/15/23

ĐẬU PHỤ NƯỚNG

Nhà văn Quyên Di

Mỗi lần nhắc đến đậu phụ là tôi lại thấy xấu hổ đỏ cả mặt, cái xấu hổ của kẻ dốt mà cứ tưởng mình thông. “Đậu phụ,” mà bà con miền Nam kêu là “đậu hủ,” và ngay cả lối gọi “tofu” của người Mỹ đều là cách phiên âm hai chữ 豆腐.
Dốt là như thế này:
Bao nhiêu chục năm, cứ thấy ai gọi món đó là “đậu hủ” thì tôi lại cười thầm trong lòng. Tôi không dám cười ngoài mặt vì giữ lịch sự. “Phải gọi là “đậu hũ” chứ! Bà con miền Nam, miền Trung mình phát âm trật lất!”


Hoá ra là mình trật lất chứ không phải bà con mình trật lất. Tra chữ Hán mới biết “hủ” (腐) có nghĩa là cũ, là hư, là rữa nát. Cái món “đậu hủ” làm bằng đậu nành, phải đợi khi đậu rữa nát ra, lên men thì mới làm thành đậu phụ/đậu hủ/tofu/豆腐 được. Bố tôi là đông y sĩ, giỏi chữ nho, nhưng khi tôi còn bé, ông chỉ mới dạy tôi cây hoa dành dành gọi là sơn chi, cây hoa giun gọi là sử quân, hạt hoa giun gọi là sử quân tử thôi. Bố chưa dạy đến cái chữ “đậu hủ” này.

10/20/22

XÓM CHIẾU

Huy Văn                                      

Ba tôi làm thư ký đánh máy trong Công Ty điện lực Đông Dương của Pháp trên Nam Vang ( Compagnie Des Eaux Et D' Électricité De L' Indochine, Phnom Penh- Cambodge ), vào cuối thập niên 40 của thế kỷ trước. Sau khi Cambodge được trao trả độc lập cuối năm 1953, rồi đến năm 1954 nền đệ nhứt Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam được hình thành; ba tôi liền xin vào làm việc trong Tổng Nha Công Vụ, trực thuộc Phủ Thủ Tướng, văn phòng đặt tại đường Catinat-Tự Do, thủ đô Sài Gòn ( đối diện Bộ Nội Vụ ).

Sau gần 4 năm đi đi, về về giữa Nam Vang và Sài Gòn, ba tôi quyết định đưa cả nhà về sống hẳn ở Việt Nam, thay vì vẫn ở chung với bà Nội tại đường Dekcho Damdin trên Nam Vang. Nhà của Nội tuy là một căn phố, nhưng khá khang trang và nằm giữa con đường rậm mát bóng me xanh, với hai đầu là hai ngã tư- có thể nói là- sầm uất nhứt của thủ đô xứ Chùa Tháp lúc bấy giờ. Hai ngã tư đó, cũng là nơi tọa lạc của hai rạp xi nê tối tân nhứt Nam Vang vào thời đó. Phía trái, ở bên kia đường, tại ngã tư Dekcho Damdin và Norodom Blvd là Ciné Lux. Còn phía bên phải, cùng dãy với nhà bà Nội, là rạp Prom Bayon Cinema tại giao lộ Preah Ang Yukanthor và Dekcho Damdin.


9/29/22

Tân Định, thức cả trăm năm…

Bút ký của Hoàng Nguyên Vũ

Nơi đây giữ lại những hồn cốt của đất và người Sài Gòn trong chặng hành trình trầm tích những giá trị bản thể hàng trăm năm; cũng như những giá trị tính cách khó thể nào mất đi của người dân Sài Gòn.
Người ta nhớ thương về Tân Định nhiều khi không phải vì những giá trị lớn lao nào cả, mà người ta nhớ thương về những điều thân thuộc. Có khi, chỉ là một quán cà phê, một lối đi về; hay cũng có khi chỉ là một cơn mưa rất nhẹ của năm nào vương trên cây hoàng lan ngoài hiên cũ…

Với những người Sài Gòn xa xứ, Tân Định là một cái tên đủ nặng, đủ sâu như thế.

Theo dấu người năm cũ

Nhà ông bạn tôi nằm trên đường Thạch Thị Thanh. Căn nhà kiến trúc Sài Gòn cũ, với thép là ý tưởng chủ đạo ở cửa chính và các ô cửa sổ. Tường trét đá rửa, chia ô vuông trang trí theo họa tiết hình học, một thứ phong cách kiến trúc Âu Mỹ khá phổ biến ở Sài Gòn mấy chục năm trước.

9/8/22

ĐOẠN TRƯỜNG AI CÓ QUA CẦU

Võ Kỳ Điền
Pulau Bidong Island

Ở một cái đảo hoang như đảo Bidong, nhắc đến việc đổ rác, nghe mà thấy cười. Ai nấy cũng tưởng chuyện nầy chỉ có ở những thành phố văn minh, chớ ở đây rừng núi, biển cả mênh mông đó tha hồ mà quăng, ai hơi đâu cấm cản. Chỗ nào lại quăng không được. Vả lại phần đông người tỵ nạn khi đến đảo chỉ còn hai bàn tay trắng, quần áo chỉ một bộ, làm gì có rác để quăng tới quăng lui… cho vui! Nhưng chuyện đời, dầu là chuyện đơn giăn nhứt như chuyện rác rến, cũng không đơn giản chút nào. Đảo Bidong thiệt tình quá nhỏ, đất đai gì tìm mòn con mắt để dựng một cái lều cũng không còn, phải leo tuốt lên sườn núi, nói chi đến khoảng đất trống dành riêng cho việc đổ rác… Ban đầu các thanh niên tình nguyện của khối vệ sinh lần lượt đào mười mấy cái hố rác trên bãi cát, dọc theo bờ nước, mỗi hố lớn bằng cái nhà, vuông vức ngó mà phát mê. Bao nhiêu rác rến đều được gom lại tống hết vô đó. Nào giấy vụn, bao ny lông, hộp lon cá mòi, xác chuột, phân người… tha hồ mà quăng. Mà ngộ lắm, chỗ nào có rác thì chỗ đó có ruồi. Hai vật nầy như hình với bóng chặt không đứt, bứt không rời. Những con ruồi to đen lớn, bằng con ong bầu đậu đầy trên mặt rác, lốm đốm như mâm xôi đậu. Ruồi ở đảo nhiều cho đến nỗi, mỗi lần rót nước để uống, cả chủ lẫn khách đều phải lấy tay che kín miệng ly, nếu không, sẽ có một con chun vô. Ly là hộp lon Coca được cắt rồi chà cho bằng mặt. Trại có phát cho nhang đun muỗi nhưng thiệt ra dùng để đun ruồi. Cũng như ở đảo, ngủ phải có mùng. Mùng dùng để ngăn ruồi bay đậu trên đầu trên mặt… Muỗi cũng có nhưng chỉ ở những vùng khuất gió, những nơi sát bờ biển gió lộng tư bề thì rất ít không đáng kể.

Thiệt ra thì mỗi người tỵ nạn đâu có được bao nhiêu rác nhưng có điều số lượng người chen chúc quá đông nên số rác trở nên khủng khiếp. Mấy hố rác vừa đào xong ngày hôm trước thì ngày sau đã thấy hơi đầy đầy… đến vài ngày sau nữa thì bắt đầu tràn ngập, vun cao và có mòi tràn ra ngoài. Ban vệ sinh phải è ạch đào ngay một hố cạnh bên, lấy cát của hố mới, đắp lên hố cũ… và cứ như vậy mà tiếp tục. Nhưng điều đáng lo là diện tích của bãi cát còn lại cũng chỉ có bấy nhiêu, đâu có rộng ra thêm chút nào. Đào xới hoài cũng có ngày hết chỗ, mà đã hết chỗ rồi thì phải làm sao, không lẽ đào lại những hố cũ. Thiệt là nhức cái đầu!

Ban quản trại bèn nghĩ ra cách ổn thỏa nhứt là quăng hết rác xuống biển. Biển cả thì mênh mông vô cùng tận, tha hồ mà quăng. Rác nhiều bao nhiêu cũng không sợ. Ruồi thì càng không lo. Người ta bèn làm ra những bè cây thiệt lớn, dừng vách bốn bên để chứa những núi rác khổng lồ, cho ghe kéo tận ra ngoài xa, rất xa, rồi đổ ùn hết xuống biển. Thiệt gọn hết sức! Nước biển mặn đắng sẽ giết hết trứng ruồi, tẩy rửa sạch những dơ bẩn… rồi tất cả mọi vật sẽ tan biến trong lòng đại dương. Chương trình thực hiện được đâu vào ngày hôm trước, cả trại yên tâm ngủ ngon được một đêm. Nào ngờ, sáng hôm sau, số rác rến vừa được tống khứ ra khơi, tất cả đều lần lượt được sóng gió đưa trở về, nằm sấp lớp khoe mình trên bãi cát trắng, một số nhấp nhô trên mặt nuớc… ngó thấy mà ứa gan! Làm sao bây giờ! Thôi, đành kiếm chỗ… đào tiếp, nếu cần thì cũng phải đào trên đỉnh cao!

Nhưng dầu gì đi nữa thì vấn đề rác rến cũng còn có cách để trị, tuy chưa nghĩ ra. Ở Bidong nầy còn có một thứ khổ hơn rác vì khi nhắc tới nó, ai cũng lắc đầu chịu thua, vì hết phương cạy gỡ. Đó là khói nấu nướng của cả chục ngàn cái bếp trên đảo bốc lên, tỏa ra, lan trong gió mờ mịt, bay lên cao lưng chừng trời, rồi không tan hết được, trở xuống bay là là trên những nóc lều, trộn lẫn trong không khí, tạo nên một đám mây màu xám tro đục ngầu.
Từ ngoài khơi nhìn vô đảo, nơi khu vực cư trú, dưới những thân dừa suôn đuột, người ta thấy cả một vùng khói trắng xám, phủ khắp chưn núi xanh, vướng vít trên những nóc lều san sát, tạo nên một bầu trời mờ mịt như một đóng un lớn. Cứ tưởng chừng trong giây lát gió biển từ ngoài khơi thổi vô, khói sẽ tan biến trên đầu núi. Nhưng không, đám khói mù ấy bao trùm lấy Bidong, từ sớm mơi tới chiều tối, từ ngày nầy qua ngày kia, không bao giờ dứt. Cũng có thể đám khói mù ấy sẽ bay mất trong một khoảng thời gian ngắn vào lúc nửa đêm khi mọi người đều yên giấc, không còn ai nấu bếp nữa… rồi lại xuất hiện vào lúc tang tảng sáng hôm sau.
Không khí của đảo bị ô nhiễm nặng nề, đủ thứ mùi hôi nhưng khói bếp là nguy hại nhứt. Trên núi có một loại cây gì không biết, sớ gỗ màu đỏ rất cứng. Mỗi lần đóng đinh để dựng cột hay làm mặt sàn rất khó khăn. Đinh bị cong vẹo không biết bao nhiêu lần mới đóng được một cây. Nếu lấy nó làm củi đốt thì lại nhiều khói. Ở lều tôi, bếp được đắp bằng đất sét trộn lẫn với các hộp lon cá mòi tròn, cạnh bên hông lều, hẹp té. Củi mua lại của một anh bạn ở trước mặt, sắp được đi Úc nên bán lại, phần lớn phơi chưa khô, đốt rất khó cháy, khói um cả lều. Cả ngày khói mù như vậy, ai nấy đều ho sặc sụa. Hai lá phổi chắc đống đầy khói bếp. Khi nấu nướng phải đứng canh chừng, quạt lửa luôn tay, cho tới khi đồ ăn chín. Ngưng quạt là bếp tắt nửa chừng, khói bốc lên mù mịt, khổ sở trăm bề. Nhưng không lẽ không nấu… Đúng là cái vòng lẩn quẩn! Ai cũng sợ khói nhưng ai cũng phải bằng mọi cách… đi kiếm củi, để đốt cho có.. khói!

*****
Thường thường cứ sáng Chủ nhựt thì hẹn nhau đi đốn củi trên núi. Buổi đầu tiên tôi đi với Sơn, vì ở lều Sơn, anh Hiền và mấy đứa em có được hai cây cưa. Đi lên núi đốn củi chỉ cần cây cưa là đủ. Anh Hiền vì ở đây đã lâu nên đi trước dẫn đường. Cả đám đi hàng một len lỏi qua các con đường hẻm quanh co, bên những chiếc lều san sát như trong ổ chuột. Đường lên dốc từ từ. Càng lên dốc cao lều càng thưa dần, tầm mắt thấy rộng hơn. Khu định cư chỉ còn một lõm nhỏ ở dưới kia, tai tôi nghe văng vẳng tiếng loa phóng thanh khi mờ khi tỏ. Đường lên núi, càng lúc càng dốc. Mồ hôi đã tươm ra đầy mặt đầy lưng. Hơi thở bắt đầu gấp rút, phì phò. Nắng chói lọi tỏa hơi nóng gay gắt. Sơn đi cạnh bên, hỏi tôi:
- Mệt không?
- Ừ, coi bộ mệt dữ rồi, gần tới chưa?
Sơn cười:
- Đi núi là không được nói mệt nghen, phải nói là khỏe lắm… khỏe lắm….
Tôi vừa nói, vừa thở hổn hển:
- Leo dốc dựng đứng như vầy, khỏe gì nổi, thở không ra hơi nè!
Hai bên đường mòn có dấu vết rừng bị cháy rụi, còn trơ ra những thân cây trơ chìa, nám đen, dưới đất tro than đen xám vương vãi. Cạnh đó một vùng cây bị đốn, dấu cưa sát gốc. Đường đi trở nên ngoằn ngoèo, phải nhảy trên nhiều tảng đá cheo leo. Cây vụn bị chặt bỏ ngổn ngang, bừa bãi. Chợt nhìn thấy một cây vừa tầm nằm dọc theo đường đi, tôi nói với Sơn:
- A, có một cái cây tốt quá, mình cưa khúc đem về, khỏi phải tìm kiếm mất công.
Anh Hiền cản lại:
- Đừng thèm lấy, nó không dùng được việc gì nên người ta bỏ lại đó.
Tôi ngạc nhiên:
- Tại sao vậy?
- Muốn lấy cây làm củi chụm phải lựa cây nào suông thẳng, sớ cây thưa, mới dễ bửa nhỏ ra mà chụm được. Còn cây nầy cong vẹo mà lại có nhiều mắt to, làm sao anh lấy búa bửa ra cho nổi…
Ở đây chỉ có cây và đá. Những tảng đá thật lớn sừng sững bên vách núi. Cây mọc chen nhau chật cứng, vươn tàn lá lên cao để giành hứng ánh nắng mặt trời. Ở giữa các nhánh có những cây ráng mọc chen, lá xanh um, dáng như gạc nai. Đôi khi cũng có những cây phong lan đong đưa trong gió. Có lẽ rừng núi đầy người phá phách nên không thấy một bóng chim bay, cũng không thấy một con thú rừng như thỏ, như sóc… Cả bọn leo dốc từ từ lên cao nữa, quẹo trái rồi quẹo phải. Tôi thấy một đám cây mọc đều đặn, cây nào cây nấy nhỏ bằng cây cau suôn đuột. Có lẽ nơi đây chăng? Đúng rồi, anh Hiền dừng bước, miệng nói:
- Nghỉ mệt một chút cho khỏe… rồi mình lựa cây.
Đứng ở vị trí nầy khá cao, tôi đưa mắt nhìn quanh. Bên kia là một thung lũng thấp, cây cối thấp hơn nhưng cũng đang bị đốn phá nhiều hơn. Có những quãng trống thưa thớt. Xung quanh đây đó, đầy những người di động ồn ào. Tiếng cây bị cưa, ngã đổ ầm ầm vang dội rền đi từ vách núi. Tiếng người nói chuyện líu lo, ồm ồm… Sơn nói:
- Hủ Tiếu và đám bộ hạ đang đốn cây ở dưới kia kìa…
Tôi rán mà nhìn, thấy Hủ Tiếu đương đứng với một đám đông, chắc là mấy đứa con rể A Son, A Tài… Tiếng cưa, tiếng búa, tiếng nói chuyện cười giỡn vang dội cả khu rừng vắng. Có ai mà ngờ được, nơi đỉnh núi hoang, giữa biển vắng nầy lại có lúc ồn ào náo nhiệt như ở giữa chợ, thiên nhiên đắm mình trong giấc ngủ triền miên ngàn năm, cũng phải giựt mình thảng thốt với sự tấn công xâm lấn của con người. Mới có một thời gian ngắn chừng bảy tám tháng, kể từ ngày trại tỵ nạn Bidong được thành lập, đỉnh núi đất đầy cây rậm rạp lần lần bị cưa, bị đốn, một ngày một nhiều… như một cái đầu bị rụng tóc, sói sọi. Hiện tại thì bị một lõm to ở giữa và một đường cong queo dài ngoằn từ dưới chân lên tới đỉnh với những vết loang rộng… nếu mà tình trạng nầy kéo dài thì rừng núi Bidong, sẽ không còn là chỗ trú ngụ của chim chóc, của thú rừng, cây cối sẽ bị đốn mất hết, chỉ còn những tảng đá trơ lỳ với tháng năm…
Anh Hiền đứng ngắm nghía chọn lựa rồi chỉ một cây, Sơn và thằng Tí bắt đầu cưa. Thịt cây còn tươi rói nên lưỡi cưa ăn vô ngọt xớt, mạt cưa văng ra trắng gốc. Hiền nói:
- Phải cưa mở miệng nghiêng xéo một bên, để khi cây ngã theo ý mình muốn. Nếu không để ý thì nguy hiểm lắm, nó đè chạy không kịp…
Rồi Hiền giải thích thêm cho tôi nghe:
- Điều đáng sợ nhứt là đa số không phải là thợ rừng nên không biết cách cưa cây cho ngã theo ý muốn. Có nhiều trường hợp cưa xong, bị cây ngã đè bị thương hay là chết. Cũng có khi cây mọc dầy đặc, cưa xong một cây, xô hoài nó không ngã vì ở trên ngọn, cành lá chằng chịt vướng víu nhau. Không biết làm sao được, người ta đành bỏ đi cưa cây khác. Vài ngày sau cây khô trơ cành ra, gió thổi lắc lư. Vô phước cho anh nào đi lớ ngớ tới, cây ngã đè thì khó tránh khỏi nguy hiểm... Muốn biết cây nào đã bị cưa thì cứ ngó lên đọt, thấy lá héo vàng thì phải liệu mà tránh cho xa...
Tôi ngó một vòng, quên mất mình đang kiếm củi, nhìn xuống thung lũng tươi xanh rậm rì, cây đá chen nhau, máu sắc hình khối lẫn lộn như một bức tranh thiên nhiên kỳ thú. Nhìn quay ra biển, thấy biển ở tuốt dưới xa, phong cảnh mờ ảo. Cây cối ở phía dưới chưn núi như nhỏ quắt lại, sóng biển lăn tăn nhỏ xíu, vài chiếc thuyền con lênh đênh như trong mặt hồ, cảnh vật một màu xanh mướt. Mây từng dải mờ nhạt như khói, như sương bay lững lờ dưới chưn núi như tấm lụa mỏng nõn nà... cảnh giống y như những bức tranh phong thủy của Tàu, đẹp tuyệt vời. Không khí trên cao im mát... Tôi rán tìm mặt trời để định hướng. Bây giờ nó đã lên cao ở gần đỉnh núi, chói lòa. Anh Hiền thấy tôi quay qua quay lại hỏi:
- Anh muốn kiếm cái gì vậy?
- Tôi muốn coi Việt Nam mình ở về hướng nào?
Anh Hiền chỉ ngược về hướng rừng sâu. Có thấy gì đâu, ở đó có chỉ có cây cối chằng chịt. Tôi ngước mắt nhìn lên phía trên xa thấy vài đám mây bay lãng đãng... Cả bầu trời xanh trong, rải rác từng cụm mây di chuyển chầm chậm. Hướng nào cũng đầy bóng mây... Bốn phương mây trắng một màu, trông vời cố quận biết đâu là nhà...
Ngó tới ngó lui, tôi trực thấy một thân cây dài ai đã cưa sẵn sát gốc, bỏ nằm cạnh một bụi rậm. Cây bị cháy xám đen ngoài vỏ nhưng bên trong ruột cây còn nguyên, sớ thẳng và trắng. Đúng là một khúc cây lý tưởng. Tôi lấy cưa, cưa một đọan dài cở chừng ba thước, không nặng quá để còn đủ sức mà vác trên đoạn đường xa. Cái cây tốt như vậy mà bị bỏ lại đây có lẽ vì nguời ta sợ bị dính than đen lem luốc, khi vác về ngang chợ. Khúc cây được cắt xong, tôi lấy tay khiêng lên coi thử nặng nhẹ. Thiệt là vừa hết sức, định vác luôn. Anh Hiền cản:
- Khoan đã, cả tuần mới đi núi một lần, ở chơi lâu lâu rồi hảy về!
Sơn đề nghị:
- Có ai muốn đi... vô bụi với tôi không?
Thấy mọi người còn đứng yên, Sơn nói tiếp:
- Đi đốn củi trên đỉnh núi, khoái nhứt là cái vụ nầy! Thứ nhứt quận công, thứ nhì... đồng!
Chưa kịp rủ đến lần thứ hai, ai nấy nghe bùi tai đều lần lượt kiếm chỗ tốt. Trời đất mênh mông, tha hồ mà thơ thẩn!

Cả bọn sắp xếp đi xuống núi. Cũng anh Hiền đi trước dẫn đường. Trên vai mỗi người bây giờ là khúc một cây dài đong đưa. Tí nhỏ nhứt trong đám mà lại vác một khúc cây lớn khá nặng, cái lưng nó oằn xuống. Trên đầu cây của Hiền và Sơn còn có treo lủng lẳng cây cưa. Tôi đi sau chót. Vừa ra khỏi một khúc quanh tôi nhìn thấy một dốc lài thoai thoải, phía dưới là bãi cát trắng phau. Nhìn về phía trước, đoạn đường quá dài, lại loanh quanh trắc trở, phải vượt qua những bực đá cheo leo, khúc cây đang vác mỗi lúc càng trở nên nặng hơn... Tôi bèn quyết định đổi hướng, quyết vạch một con đường mới đi thẳng xuống bãi, rồi sau đó, tìm cách trở về. đảo Bidong nhỏ xíu, làm sao mà lạc được...

Các bạn đi trước lo vác cây lầm lũi đi, có biết đâu tôi tự ý sửa đổi lộ trình. Tôi ngắm hướng một hồi rồi đứng trên cao dùng hết sức quăng khúc gỗ xuống dưới thấp. Khúc cây theo đà quăng, tung ra xa rớt xuống phía dưới cỏ, rồi trớn lăn còn mạnh nó tiếp tục rơi xuống, đập vào gốc cây nầy, bá vào bụi cây kia, vài ba bận rồi mới chịu nằm yên. Tôi khoái chí lò dò leo xuống theo. Hướng nầy ít cây mọc, cỏ dầy ngang ống chưn nên xuống khá dễ dàng. Tôi lại tiếp tục quăng cây xuống thấp. Có nhiều bận nó vướng vào bụi rậm, phải len lỏi vào, vác ra nơi quang đãng rồi quăng xuống tiếp. Trên đường dốc tôi gặp hai con suối cạn, dòng nước nhỏ xíu chảy lờ đờ lẫn trong đám cỏ xanh um tùm, có dấu vết người ta đến tắm rửa, giặt giũ, bọt xà bông trắng đầy, vương vải hai bên bờ. Nhờ có con suối, cây cối chỗ nầy mọc chằng chịt. Cuối cùng rổi thì tôi cũng xuống tới chưn núi. Khỏe quá, đoạn đường được rút ngắn mà lại khỏi phải khiêng vác lôi thôi. Tôi đứng vịn khúc cây cháy đen, nhớ tới anh Hiền mà thấy cười. Tại sao lại phải về theo lối cũ, tại sao cứ phải theo lối cũ, chi cho cực khổ vậy!
Bãi cát chỗ nầy trắng xóa, không một dấu chưn người. Vạn vật còn y nguyên đấu vết hoang sơ. Năm ba thân cây mục rữa nằm trơ vơ giữa trời đất vô tình. Kế đó là những bụi dứa dại xen lẫn với những gốc dừa... Toàn cảnh hoang vắng đến ghê rợn, không một cánh bườm, không một bóng chim, không một dáng người, không còn tiếng loa phóng thanh, không một túp lều nhỏ. Chỉ có cây đá, mây nuớc... và tôi... với khúc cây cháy đen!
Tôi bèn ngắm hướng một hồi rồi vác khúc cây lên vai, đi dọc theo bãi cát. Như vầy thì thế nào cũng về tới trại. Cứ vòng theo bãi cát. Đi một đọan ngắn, lối đi bị vách đá chớn chở chắn ngang, nhìn về hướng cũ, phía bên kia cũng vậy. Bãi cát chỉ có một lõm ở giữa mà thôi! Chết rồi, làm sao mà về, tôi đi lạc quá xa. Không ngờ Bidong cũng lớn quá. Vậy mà lúc đứng trên đỉnh núi nhìn xuống, nó có chút xíu!
Tôi vừa đứng, vừa thở vừa lo. Nắng cháy trên đầu, nắng nóng dưới chưn. Tay chưn trầy trụa xơ xác vì khúc cây nặng. Hướng nào để trở về? Bây giờ thì tôi không còn định hướng được nữa. Rõ ràng hồi sáng đi lên, đốn củi xong thì đi xuống, tại sao lại lạc kỳ cục vầy nè? Phải làm sao bây giờ, chỉ có cách là leo trở lên đỉnh núi, trở về chỗ cũ, rồi tìm đường về trại. Nhưng đâu phải là chuyện dễ. Leo dốc núi một mình giữa trưa đứng bóng là một chuyện rất vất vả, khó khăn. Bụng đói cồn cào, cổ lại khát khô. Vả lại còn có khúc cây dài tới ba thước, nặng chình chịch, vác nó mà leo trở lại chỗ cũ thí chắc có nước chết. Hay là bỏ quách nó lại ở đây, ra về tay không? Tôi suy đi tính lại, nếu ra về tay không thì mấy đứa em ở nhà cười cho thúi đầu. Mang tiếng là đi kiếm củi mà không có một cây, thì coi sao được. Hơn nữa trước khi đi đã dặn Tiến ở nhà lo mượn búa để có sẵn mà bửa củi ngay chiều nay. Tôi tưởng tuợng ra cảnh trở về tay không, mặt mày bơ ngơ báo ngáo, mấy đứa em xúm lại mà chọc, đâm phát rầu! Không được, không cách gì mà về tay không, thôi phải rán vác vậy. Tôi đau khổ mà vác khúc củi cháy trở lại lên vai, lần mò leo trở lại chỗ cũ. Khúc cây giờ nầy nặng hơn đá, vướng víu bực mình. Mỗi bước đi mồ hôi tuôn ra như tắm, tóc tai ướt mem... Đã thấy lại con suối cạn.. rồi tới con suối thứ hai. Không biết tôi phải ngừng lại để thở bao nhiêu lần, cuối cùng rồi cũng trở về được chỗ cũ. Mừng quá, đã về đúng được chỗ cũ. Tôi bỏ khúc cây nằm lăn bên đường mòn, ngồi bệt xuống đất mà thở. Chờ cho hết mệt, tôi vác khúc cây đến một ngã ba. Có lẽ phải quẹo trái? Nhưng muốn cho chắc khỏi bị lạc nữa, tôi hỏi thăm một người đang cưa cây. Anh ta chỉ đường xong rồi hỏi:
- Anh ở đây lâu mà sao còn bị lạc?
Tôi ngạc nhiên:
- Tôi mới đến Bidong chưa đầy một tuần, tại sao anh lại nói tôi ở lâu?
Anh bạn đó cười ha hả trả lời liền:
- Tại anh đen thui giống Mã Lai!
Tôi cũng bật cười, cám ơn rồi vác khúc củi đi. Nhớ lại là cả tháng trời ở đảo Pulau Kapas, tắm biển phơi nắng suốt ngày, qua Bidong râu tóc lại không cạo gọt, một phần nửa khúc cây quỷ dịch nầy cháy đen hòa với mồ hôi bết đầy người lem luốc, vậy mà phải ôm vác từ sớm mơi tới giờ. Thây kệ nó ở nơi khỉ ho cò gáy nầy, xấu đẹp cũng đâu có ai để ý tới. Mới có một tháng trời mà thay đổi quá nhanh...
Tôi trở về đúng con đường cũ, đường xuống dốc dễ đi hơn. Khúc cây đè nặng theo nhịp đi, lâu lâu tôi phải ngừng lại để đổi vai. Cũng may khúc cây dài chỉ có ba thước, phải nó to hay lớn hơn chút nữa thì không biết phải làm sao. Dần dần trên con đường mòn tôi gặp lũ lượt từng toán năm ba người cũng vác cây trở về. Có người lực lưỡng vác cây lớn thân cỡ bằng cây chuối đi coi nhẹ nhàng như không. Có những thiếu nữ không đủ sức để khiêng vác nặng, họ lượm những cành khô nhỏ, bó gọn lại rồi ôm về... Thấp thoáng qua những cành lá, những nóc lều xanh xanh chợt ẩn chợt hiện ở phía dưới triền đồi. Tôi lắng nghe thấy tiếng loa phóng thanh văng vẳng từ xa. Rồi toàn khu chợ trời hiện ra dưới thấp. Xa hơn một chút, ở ngoài bãi cầu tàu supply nhỏ xíu với các ghe tàu đậu xung quanh. Tôi đi loanh quanh trong các ngõ hẻm, về tới lều gần hai giờ trưa. Tôi vội quăng khúc củi nợ đen thui đằng trước ngõ, đứng thở một hồi lâu mới lại sức. Mình mẫy lấm lem, phải dội hết mấy thùng nước mới sạch. Buổi trưa đó mặc kệ trời nóng như thiêu như đốt, tôi ngủ một giấc mê man không còn biết trời trăng mây nước...

Các lần sau đi lấy củi đã quen nên tôi không còn lạc đường nữa, củi lấy được cũng nhiều hơn. Có lần lên núi với Tiến và Chiêu, trở về lối cũ, chưa ra tay cưa cắt gì, chợt thấy một đống cây đã vạt từng lát mỏng cỡ chừng ba bốn phân tây, bỏ đầy trắng cả đất. Thì ra đó là cây của dân buôn lậu. Họ chọn những cây to lớn, đốn ngã xong rồi dùng búa vạt thân cẩy ra thành từng tấm ván nhỏ dài cỡ hai ba thước để đóng ghe. Những chiếc ghe thật mỏng manh. Họ lấy dầu chai trét ghe bằng cách khoét bọng cây rồi đốt lấy dầu. Nhiều khi lửa cháy lan, gây thành đám cháy rừng, ban đêm đỉnh núi đỏ rực, dòng lửa ngoằn ngoèo như rắn bò. Mỗi lần rừng cháy, cả đảo kinh hoàng, nếu ngọn lửa cháy lan xuống trại thì cả ngàn người bị thiêu sống. Vật liệu xây cất ở trại toàn bằng chất dẫn lửa, cây ván, bao ny lông, dầu lửa đốt đèn, bếp núc nấu nướng sát vách... vậy mà trời thương, Bidong chưa bị cháy lần nào.
Tôi tìm thấy được đống ván vụn nầy trong một góc rừng. Loại cây có được sớ to, thân thẳng băng, thịt trắng rất dễ bửa nhỏ ra để làm củi chụm. Mà cần gì phải lo, người ta đã bửa vụn ra gần hết rồi, quăng vụt một đống ngổn ngang, bừa bãi! Chiêu và Tiến chạy đi bứt dây rừng, bó làm ba bó. Mỗi bó lớn cỡ vòng ôm. Tôi thấy ham quá, cứ nhét vô thêm cho tới đầy cứng, đến lúc khiêng về, nặng muốn gảy xương sống luôn! Hơn nữa khiêng một thân cây còn nguyên dễ hơn là vác một bó củi lớn. Khúc cây tuy nặng nhưng gọn gàng, còn củi vụn cũng nặng nhưng bề bộn, cứ mỗi bước đi có một hai thanh tuột ra, chỉ chực rớt xuống, lâu lâu phải ngừng để cột lại cho chắc. Kỳ gỗ đó dùng được thật lâu, mãi cho đến khi tôi rời đảo, cũng còn lại một mớ...

Có đi lấy củi mới biết cảm thông thân phận người tỵ nạn Bidong không một đồng xu dính túi. Ở đảo, người gan dạ có máu phiêu lưu mạo hiểm thì đóng ghe chèo ra biển buôn lậu, còn như chậm lụt hơn thì chỉ có nước lên núi đốn củi để bán. Ngoài việc bán củi để chụm, người ta còn bán cây lớn cỡ cườm tay để làm cột lều, bán cây nhỏ cỡ ngón tay để làm vạt giuờng... Muốn có một thước củi để bán, đâu phải dễ dàng gì, phải đốn cây từ núi cao, vác về cưa cắt rồi bửa nhỏ ra, một ngày lao động cật lực, chưa chắc kiếm được bảy đồng Mã Lai! Thiệt là gian nan và nguy hiểm vô cùng.
Rắn cắn cũng chết, cây ngã đè cũng chết, đường núi trơn trợt, té va đầu vào đá.. cũng chết! Cái gì cũng có thể làm cho người ta chết được hết, chỉ vì một ước muốn duy nhứt, họ muốn có tiền để... sống còn!

Võ Kỳ Điền
Trích Pulau Bidong Miền Đất Lạ 

8/1/22

CON KỲ NHÔNG XANH TRÊN LUỐNG DÂU


Ở Úc họ trồng dâu tây (Strawberry) trên những luống đất thật dài, được bọc kỹ bởi một loại vải nhựa dệt thưa, nhưng có độ bền để có thể chịu đựng được nắng mưa, ờ giữa luống họ khoét những lỗ tròn trên tấm bọc đất, cây dâu được trồng vào đấy, và cứ thế luống dâu liên tục kéo dài. Những luống dâu chạy dài thành nhiều hàng trông thật đẹp mắt, thân cây dâu không phải là loại thân mộc, nằm xòe trên luống, nên khi ra trái, trái dâu sẽ được nằm trên luống đất đã được bọc kỹ bằng vải nhựa, nhờ thế mà trái dâu không bị tiếp xúc trực tiếp với đất, nên trái dâu chín sẽ không bị hư hoại.

Đám thanh niên VN tỵ nạn chúng tôi, những ngày mới đến Úc, chưa thể tìm một công việc thích hợp ngay, nên thường thì đành kéo nhau đi làm ở farm ( nông trại ) để kiếm tiền mà có thể dành dụm gửi về VN cho gia đình ở bên nhà. Đến mùa dâu thì đi hái dâu ở các farm dâu, nghe công việc đi hái dâu tưởng đâu là nhàn hạ và thơ mộng lắm, nhưng thật ra chúng tôi phải khom lưng suốt cả ngày, vì bởi như đã nói ở trên, dâu tây ra trái trên những luống dâu chỉ cách mặt đất chừng 3 tất, vì vậy người hái dâu phải đứng khom lưng bên vồng dâu, một cái khay được quàng ở khủy tay, tay kia thì hái trái, trong điều kiện là phải cong lưng xuống để hái, và cứ thế khom lưng đi lần theo chiều dài của vồng dâu mà tìm hái những trái dâu vừa chín đỏ lẫn trong đám lá dâu xanh…

Ôi, lứa dâu đầu mùa và cũng là lứa trái đầu tiên của loạt trồng mới nầy, nên trái nào trái nấy to tướng, chín đỏ, căng phồng, nhất là trong buổi sớm tinh mơ, lấp lánh dưới ánh nắng hồng qua những hạt sương mai còn đọng lại, trái dâu trông lại càng hấp dẫn làm sao… Chủ nhân của nông trại trồng dâu nầy, họ là một cặp vợ chồng người Úc chính thống, Farmer (nông gia) ở Úc không phải như những người nông dân chân lấm tay bùn ờ bên nhà, mà người chồng là một Kỷ Sư Nông Nghiệp chính hiệu, nên họ đối xử với đám tỵ nạn VN đi làm công chúng tôi rất ư là thân thiện, lịch sự, đầy hiểu biết và cảm thông, nhất là bà chủ nông trại, với một gương mặt hiền hòa, miệng luôn nở một nụ cười và kèm theo là những lời nói rất ân cần, tử tế…-“ Các bạn hái dâu, nếu thấy bất cứ trái dâu nào ngon nhất và nuốn ăn thì cứ hái ăn tại chổ tự nhiên nhé! Mình làm việc trên farm dâu mà không được ăn những trái ngon nhất thì cũng không hợp lý phải không? “  
Nghe những lời nói ấy, bọn chúng tôi thật thấy mát cả lòng, và cũng có cơ hôi để…tha hồ thưởng thức những trái dâu nào to nhất, mọng đỏ nhất và đặc biệt là với nụ cười rất ân cần của nhị vị chủ nhân thật dễ thương kia.

Vừa khom lưng lần theo luống dâu chạy dài, vừa tay làm và hàm nhai những trái dâu còn mát lạnh trong buổi sớm tinh sương, vừa trầm trồ xuýt xoa sao mà họ trồng giỏi quá, vụ dâu này họ thu hoạch chắc khẳm tiền…và đôi khi thả hồn đi lạc với nỗi buồn mênh mang của kiếp đời tỵ nạn, của phận đời lưu vong với những ngày mới đặt chân nơi xứ người…

Ồ, không được rồi, chuyện gì vậy?!  Những trái dâu chín đỏ trên vồng dâu được phát hiện là đã bị con gì ăn loang lổ khắp cùng, không phải một vài trái mà là cả một vạt dâu chín, trái nào cũng bị cắn dang dở rất ư là bực mình, người nầy nói với người kia, và hiện tượng lạ nầy đã được truyền nhanh đến nhiều người trên các vồng dâu khác…Và đây rôi, thủ phạm cắn phá dâu đã được một vài anh em người Việt tìm thấy là một con kỳ nhông xanh khá to và dài cỡ một cánh tay, đang “thoải mái” bò giữa luống dâu với những trái dâu bị cắn ăn loang lổ. Thế là phản ứng rất tự nhiên, một vài anh em đã bỏ khay dâu xuống và tìm nhặt những khúc cây quanh đấy, rồi hè nhau rượt đuổi và đánh đập chú kỳ nhông xanh kia không chút nương tay.

Lấy làm lạ với hiện tượng nhốn nháo ở ngoài farm, tiếng rượt đuổi, reo hò, tiếng đập cây bình bịch, bà chủ farm đã vội vàng chạy ra và hỏi: “ what’s the matter ? “ ( chuyện gì vậy? ) vừa chạy nhanh đến nơi những thanh niên người Việt với những khúc cây trên tay, bà đã sững sờ nhìn họ và thốt lên tiếng kêu thảng thốt “ Oh! My God “ khi bà nhìn thấy vẻ mặt hớn hở của mấy người kia, vì đã lập được thành tích với chủ nhân là đã tiêu diệt được kẻ phá hoại trên các vồng dâu chín nầy. Con Kỳ Nhông xanh đang nằm sóng soải trên mặt đất, với nỗi đớn đau quằn quại, không biết còn sống được không! Một vài anh em đã vội hái một số trái dâu bị cắn ăn dang dở, đưa cho bà chủ xem và nói:
– Bà xem đây nầy, may mà chúng tôi tìm thấy nó, chứ không thì nó sẽ còn phá hoại dâu của bà không biết bao nhiêu nữa đấy!
– Oh ! No, nó không phá hoại gì cả!
Vừa nói câu ấy xong để trả lời với mấy công nhân người Việt, bà chủ vừa quỳ xuống đất, đưa hai tay run rẩy bồng con kỳ nhông xanh lên và khóc nức nở:
– “ Sorry darling…, xin lỗi cưng ơi, sao họ có thể đánh cưng ra nông nỗi nầy…”
Quay sang các bạn VN mình, bà chủ vừa khóc vừa nói :
– Nó là một con vật rất dễ thương, nó không cắn hay làm hại ai cả, vậy sao các bạn lại đánh nó và làm nó bị thương trầm trọng thế nầy?
Câu trả lời của các anh em VN là:
– Có chứ, nó cằn phá rất nhiều trái dâu chín của Bà kia kìa…
– Không đâu, nó không hề phá hoại, nó chỉ đi kiếm ăn thôi mà…mà dẫu cho nó vừa ăn, vừa cắn phá chút ít thì nó cũng không làm hại ai cả, nó cũng không làm tôi nghèo, nó là người bạn rất dễ thương của chúng tôi, chúng tôi mời nó cứ thoải mái ăn kia mà… xin làm ơn đừng làm hại chúng nữa!

Nói xong, bà đã vội vàng bồng con kỳ nhông chạy nhanh vào nhà và gọi chồng bà tức tốc lái xe đưa con kỳ nhông đến “Vet” (bác sĩ thú y) để chăm sóc và trị liệu vết thương cho con kỳ nhông. Khoảng nửa giờ sau bà trở về với con kỳ nhông đã được băng bó ở chân và ở lưng, bà nhẹ nhàng đặt nó nằm giữa vồng dâu có nhiều trái chín nhất và ân cần nói:
– Bạn cứ ăn thoải mái nhé, tôi đã nói với họ rồi, họ sẽ không rượt đánh bạn nữa đâu, hãy mau chóng khỏe lại nhé, chúc may mắn !…

Qua chuyện con Kỳ Nhông ăn trái chín trên vồng dâu này, tôi tự hỏi :
– Từ tâm phát sinh từ đâu nhỉ? – Từ trong bản chất ? hay từ sự được dạy dỗ và khuyên bảo?
– Bản chất của người Việt chúng ta rất hiền từ nhân ái cơ mà?  
Nhưng có lẽ “ Cái khó nó bó cái khôn” việc gì cũng nghĩ đến cái lợi của mình, và có lòng tốt muốn bảo vệ của cải của người, nhưng lại vì cái lợi rất nhỏ nhoi mà có thể đánh mất đi cái từ tâm cao quý của bản chất con người !
– Sự dạy dỗ, khuyên bảo trong đối xử, chúng ta chỉ đặt nặng sự tử tế giũa con người với con người mà quên đi quyền sống của các loài vật khác cũng cần được tôn trọng và bảo vệ.

Câu chuyện đã xảy ra hơn 35 năm rồi, vẫn còn ghi đậm trong lòng tôi một nỗi niềm cảm phục tính nhân hậu của vợ chồng ông bà chủ farm dâu nói riêng và có lẽ của hầu hết những người Úc nói chung. Cám ơn rất nhiều, không phải chỉ bởi cuộc sống ở nơi đây mà thôi, mà những bài học về nhân ái của xứ sở nầy luôn là một dấu ấn đậm nét trong tâm thức của chúng tôi trên đất nước vô cùng xinh đẹp nầy.

Gia Hiếu

5/9/22

Chợ Nổi Cà Mau – Chút Tình Sông Nước

 Nguyễn Ngọc Tư

Không biết bây giờ bạn đang lang thang ở đâu, lên Sa Pa đi chợ tình hay đã xuôi chợ Viềng Nam Định, không biết đang sì sụp ăn ốc nóng ở chợ Âm Phủ – Đà Lạt hay về miền tây Nam Bộ xuôi thuyền thăm các chợ đồng bằng. Được du khảo qua các chợ, đó là niềm đam mê không dễ gì dứt bỏ, có lần bạn đã nói thế, phải không. Vậy thì sao bạn không về thăm chợ nổi Cà Mau quê tôi?

Khu chợ nổi đặc trưng miền Tây (Ảnh: ST)
Nằm giữa lòng thành phố Cà Mau, quãng cuối sông Gành Hào, đứng trên cầu nhìn về phía mặt trời mọc, người ta có thể nhìn thấy một dãy ghe rập rờn xao động cả mặt sông, những cái chân vịt gác chỏng lên loang loáng dưới mặt trời. Không biết chợ đã hình thành từ khi nào, phải chăng từ những chiếc ghe thương hồ xuôi ngược một hôm neo đậu gần nhau để mồi xin chút lửa, trao đổi cho nhau nắm gạo lứt, tấm vải bố tời, trái bầu, trái bí… mà nên một xóm chợ trên sông đông đúc, sung túc nhất đồng bằng như bây giờ?

5/4/22

Thí một con chốt hốt mười con xe.

Bình-Nguyên Lộc

TẾT năm nay dưa hấu được mùa. Các sông rạch chật ních ghe buôn hàng Tết mà phần lớn là ghe dưa.

Ghe dưa nào cũng đổ xô về ngã năm Bảy Hựu khiến những ghe thương hồ không quen tục buôn dưa ngạc nhiên lắm.

Cái gì mà mua dưa trong rẫy xong, chèo ngang qua chợ nào đó họ không ghé lại bán để hè hụi riết về chỗ ngã năm vắng teo ấy làm gì ?

3/27/22

Xin Đừng Lìa Nhau


Xin Đừng Lìa Nhau

27 tháng 3 năm 2022 là 11 năm nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang qua đời.

Quang Du Ca làm bài nhạc Lìa Nhau vào mùa hè năm 1964, năm anh 20 tuổi. Năm 1964 là năm đất nước Miền Nam Việt Nam rối loạn : Tranh chấp tôn giáo, tranh chấp Bắc Nam, tranh chấp dân sự quân sự, tranh chấp đảng phái …

Thời tôi học trung học, tôi nghe nhiều người nói : So sánh một người Việt và một người Nhật thì người Việt xuất sắc hơn. Ba người Nhật so với ba người Việt thì ba người Nhật giỏi hơn. Sự so sánh này có lẽ nói lên một điều : Người Việt Nam giỏi hơn người Nhật, nhưng chia rẽ. Người Nhật kém hơn người Việt Nam, nhưng đoàn kết. Do đó người Nhật thành công hơn người Việt Nam. Chia rẽ là một lý do chính khiến Việt Nam thua kém các nước Nhật, Đại Hàn, Đài Loan …

4/22/21

NGƯỜI MẸ CỦA BIÊN GIỚI SỐNG VÀ CHẾT

Linh Mục Nguyễn Tầm Thường

Đây là câu chuyện có thật được cha Nguyễn Tầm Thường, Dòng Tên, thuật lại nhân kỷ niệm 5 năm ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời 1997 – 2002... Năm 2000, tôi tới giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Oakland, miền bắc California. Hôm ấy, cuối nhà thờ có người gọi tôi. Quay lại nhìn, ngờ ngợ, ai ngờ đâu tôi gặp lại người đàn ông tôi đang muốn tìm từ lâu...

Sáu năm làm việc tại trại tỵ nạn Palawan, Philippines 1989 – 1995, tôi gặp ông ở đấy. Một người đàn ông im lặng, ít nói. Ông lúc nào cũng như có chuyện khổ tâm. Ngày ngày ngồi tráng bánh ở một góc đường trong khu trại tỵ nạn. Ngâm gạo đêm trước, dậy tráng bánh từ hai giờ sáng bên vỉa đường. Mỗi ngày vài chục pesos. Ngày ấy,1 US dollar được 25 pesos tiền Philippines.

Hoàn cảnh tỵ nạn bấy giờ nhiều người túng cực. Ông phải đùm bọc hai người gốc Chàm không người quen với bốn em bé không thân nhân. Mấy người sống chung với nhau trong căn nhà tỵ nạn. Kẻ xách nước, người kiếm củi, ông tráng bánh. Khoảng ba tháng ông góp được hai chục đô la, lại nhờ cha Crawford, một cha già người Mỹ trước ở Việt Nam, sau qua trại tỵ nạn giúp đồng bào, gởi qua trại tỵ nạn Hongkong cho vợ.

4/2/21

Bác sĩ… ngụy

Nguyễn Ngọc Chính

Có những câu nói sẽ thay đổi theo từng ngữ cảnh, theo từng thời gian và thậm chí còn đi ngược lại ý nghĩa ban đầu, chẳng hạn như chữ “ngụy”. Khi “bên thắng cuộc” vào Miền Nam năm 1975, người Sài Gòn thường nhíu mày, khó chịu khi nghe đến chữ “ngụy”.

Ấy thế mà 45 năm sau, đôi khi lập lại cũng từ ngữ đó người ta lại cảm thấy “ngụy” không còn là cách nói miệt thị, không phải cứ “ngụy” là xấu mà trái lại nó tượng trưng cho điều gì đó tốt đẹp. Bằng chứng cụ thể, ngày nay có nhiều người ca ngợi… Bác sĩ Ngụy!

Chỉ mới đây thôi, một cuộc giải phẫu tách rời hai trẻ sơ sinh dính liền nhau từ trong bụng mẹ đã được dư luận, kể cả lề trái lẫn lề phải, bàn tán xôn xao. Có đến gần 100 y bác sĩ tham gia cuộc mổ mà trong đó người đứng đầu ê-kíp lại là một bác sĩ tuổi đã ngoài 70, được đào tạo từ thời còn “mồ ma” VNCH!

Cặp song sinh Trúc Nhi - Diệu Nhi cùng bố mẹ trước khi mổ tách rời

Cũng vị bác sĩ quân y này năm 1988 đã là "nhạc trưởng" vì ông giữ vai trò phẫu thuật viên chính ca mổ tách cặp song sinh dính liền Nguyễn Việt - Nguyễn Đức với sự hỗ trợ thiết bị của Nhật Bản. Sự thành công của ông vang danh thế giới và được ghi tên vào Sách kỷ lục Guinness Thế giới năm 1991.

4/1/21

Nhân ngày giỗ lần thứ mười của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, giở lại trang sử âm nhạc và sinh hoạt thanh niên: Phong Trào Du Ca

Nguyễn Thị Nhuận (hồi ký Phong Trào du ca)
Báo Viễn Đông
Ảnh:  Chung Thế Hùng 

Khoảng năm 1965,1966, tôi là một con bé 15,16 tuổi thật nhút nhát nhưng cũng thật lý tưởng, ôm ấp trong đầu nhiều mơ ước, mà mơ ước lớn nhất là làm được một chuyện gì tốt đẹp cho quê hương đất nước, một quê hương mà dù còn nhỏ như vậy, tôi cũng cảm thấy là đang ở vào một tình trạng vô vọng, không lối thoát. Hằng ngày, tôi biết là có nhiều người bị gọi đi lính, và nhiều người ra đi không về. Tôi gia nhập Phong Trào Học Đường Phục Vụ Xã Hội, một đoàn thể gồm toàn những học sinh như tôi, dẫn đầu bởi một số giáo chức mà chúng tôi gọi là huynh trưởng. Đoàn thể thường tổ chức những trại công tác với mục đích xây nhà cho đồng bào chiến nạn, sửa sang phòng ốc cho các trại cô nhi, giúp đỡ những trại tạm cư... Con bé mới lớn là tôi hăng hái đi trại, cầm chổi sơn tường, phát quà cho đồng bào tị nạn... Sau những giờ làm việc là những buổi lửa trại, nơi chúng tôi tha hồ gào hét những bài hát hướng đạo cũng như những bài du ca của Nguyễn Đức Quang: Về Với Mẹ Cha, Người Yêu Tôi Bệnh, Lìa Nhau, Đường Việt Nam, Anh Em Tôi... Con bé rất thích hát là tôi say sưa hát. Và sau đó được “mời” vào hát trong chương trình phát thanh “Chúng Ta Cùng Hát” của Nguyễn Đức Quang.

 

Khoảng năm 64, 65 gì đó, tôi đã biết đến ban Trầm Ca. Trong một buổi văn nghệ Tết tổ chức ngay nền Khám Lớn cũ - một miếng đất trống với vài căn nhà tiền chế, đất dụng võ của một số thanh niên sinh viên, nơi có quán Văn nổi tiếng với buổi trình diễn của Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đi chân đất – tôi đã được nghe ban Trầm Ca hát những ca khúc của họ. Những Nguyễn Đức Quang, Phương Oanh, Đinh Gia Lập, Nguyễn Kim Châu, Trần Trọng Thảo, Hoàng Thái Lĩnh đã làm tôi cảm động với Tiếng Rống Đàn Bò, Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Lìa Nhau... Thế mà bây giờ tôi được gặp Nguyễn Đức Quang và được hát với nhóm của anh!

 

Chúng Ta Cùng Hát là một chương trình chuyên hát những ca khúc “cộng đồng”, tức những bài ca viết cho nhiều người cùng hát. Có lẽ Nguyễn Đức Quang đã viết ca khúc Ngồi Quanh Đây Chúng Ta Cùng Hát riêng cho chương trình này. Tôi không có dịp hỏi lại NĐQ nhưng có lẽ CTCH cũng như một vài sinh hoạt trẻ khác lúc đó được nâng đỡ nhiều bởi những vị bộ trưởng của chính phủ mới sau năm 1963 , còn trẻ và có cảm tình với phong trào sinh hoạt thanh niên. Mỗi tuần chúng tôi đến Đài Phát Thanh tập hát, cùng hát và thu thanh những bài du ca, hầu hết là của Nguyễn Đức Quang, thỉnh thoảng có một vài bài dân ca hoặc một vài bài của Trịnh Công Sơn, Phạm Duy. Cả những bài của Hoàng Quý mà hướng đạo hay hát. Ngoài Nguyễn Đức Quang và Trịnh Công Sơn lúc đó đã nổi tiếng, cùng thời còn có cả một lớp các nhạc sĩ trẻ đang lên sáng tác rất hăng, không tuần nào mà không có bài mới: Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Miên Đức Thắng, Lê Uyên Phương... Nhạc sĩ Phạm Duy cũng viết nhạc rất nhiều trong thời kỳ này. Nhưng phải nói chỉ có Nguyễn Đức Quang là hoàn toàn “trung thành” với loại nhạc nhận thức về quê hương , hay “du ca” cũng vậy. Nếu bạn nào cùng tuổi trên 5 bó như tôi còn nhớ một vài bài du ca thì có lẽ cũng đã có lần nghe chương trình Chúng Ta Cùng Hát trên đài phát thanh Sài Gòn.

 

CTCH không thọ lâu nhưng không sao, lúc đó, như NĐQ đã kể bên trên, anh Đinh Gia Lập đã làm giấy tờ chính thức thành lập Phong Trào Du Ca với một ban quản trị đàng hoàng. Hình như anh Hoàng Ngọc Tuệ lúc đó là chủ tịch ban quản trị mặc dù anh ít hát và cũng ít sinh hoạt văn nghệ. Thực ra thì anh cũng rất mê hát và là “sponsor” của nhóm Trầm Ca nhiều năm trời, thành ra việc anh làm chủ tịch cũng không có gì là lạ. Căn nhà của anh trên đường Sương Nguyệt Anh nghiễm nhiên trở thành trụ sở đầu tiên của Du Ca. Tôi còn nhớ đã đến đây học lớp dậy guitar cũng như dự buổi hát thân mật đầu tiên của cặp Lê Uyên Phương khi họ mới từ Đà Lạt xuống Sài Gòn.

 

Lâu lâu tôi lại đi nghe những buổi hát du ca ở rất nhiều nơi, có nhóm Trầm Ca cũng như ông Phạm Duy trình diễn như Nguyễn Đức Quang đã kể ở phần trên. Phải nói là những buổi hát này đã đem đến cho tôi nhiều suy nghĩ, trăn trở. Đi trại công tác, tôi có dịp rời khỏi tháp ngà của gia đình và trường học để gặp những người dân nghèo từ nhiều miền đất nước, có dịp thấm thía cảnh khổ của họ và suy nghĩ về tình trạng quê hương, về chiến tranh. Nguyễn Đức Quang và những nhạc sĩ du ca tiếp nối – Nguyễn Hữu Nghĩa, Trần Tú, Trần Đình Quân, Giang Châu, Bùi Công Thuấn, Nguyễn Quyết Thắng... - đã nói giùm tôi những gì tôi cảm nhận nhưng không nói ra được. Tôi thuộc lòng rất nhiều bài du ca.

 

Tết Mậu Thân, tôi và các bạn trong PTHĐPVXH cùng kéo nhau đến những trại tạm cư, nơi những đồng bào không may ở tạm vì nhà bị cháy trong chiến cuộc, làm công tác. Sân vận động Hoa Lư, trường Kiến Thiết... là một vài địa điểm cho những trại tạm cư này. Chúng tôi còn làm việc ở một công trường xây cất ngay đường Lý Thái Tổ, được tạm dùng cho bà con chiến nạn tá túc. Buổi tối, chúng tôi ngồi quanh lửa trại ca hát, nghe kể chuyện. Chính nơi đây chúng tôi được Đỗ Ngọc Yến, người hay đi và có nhiều “connections” nhất, đến hát cho nghe 2 sáng tác mới nhất của Trịnh Công Sơn: Bài Ca Dành Cho Những Xác Người và Hát Trên Bãi Dâu. Tối âm u dưới những ngọn đèn mắc vội, chúng tôi ngồi nghe những câu: Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người. Tôi đã thấy, tôi đã thấy trên con đường người ta bồng bế nhau chạy trốn... hay Xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng, trên nóc nhà thành phố, trên những đồi hoang vu... thật ghê rợn. Bộ mặt thật của chiến tranh lộ diện, những học trò thành phố không còn ngủ yên đêm đêm nữa mà phải “nhận thức” thực trạng quê hương. Có những đêm chúng tôi ngủ lại dưới lều bạt và một buổi tối thật khuya, tôi hát bài “Người Anh Vĩnh Bình” mới học được của Nguyễn Đức Quang. Câu chuyện cảm động về một anh lính quốc gia đi phép về thăm nhà, mới bế con được vài giờ thì tối đến đã bị những người bên kia vác mã tấu đến tận nhà chém chết, được NĐQ kể lại bằng những khúc nhạc 3/4 giản dị nhưng lời hát đã vẽ lên được nét bi thảm của một giai đoạn đau thương của đất nước Việt Nam. Giọng hát của tôi lúc đó phải nói là rất còn non nớt nhưng chứa đựng đầy xúc cảm vì chính tôi đã quá cảm xúc với bài hát. Sáng ra, nhiều người nói với tôi là họ đã rợn người khi nghe bài hát ấy. Đó là tác dụng của nhạc hiện thực.

 

Tôi đang hát du ca một cách tơ lơ mơ như vậy thì bỗng một hôm có anh chàng gầy lêu khêu đến nói chuyện và rủ tôi vào toán du ca Mùa Xuân. Đó chính là Phạm Công Ngân. Ngân quen với Nguyễn Đức Quang như thế nào thì tôi không biết rõ nhưng theo lời Ngân, anh Quang đã ủy thác cho Ngân đi tìm toán viên cho toán du ca đặc biệt này.

Lúc đó, phong trào du ca đang lan rộng khắp nơi ở miền Nam nước Việt, từ những tỉnh miền Nam như Long Xuyên, Tây Ninh tới những tỉnh miền Trung như Đà Nẵng, Nha Trang, Huế... Mỗi địa phương đều tổ chức thành những toán du ca cùng nhau sáng tác, đàn hát, đi trại công tác, đi trình diễn ở những buổi hát cộng đồng, những buổi hát theo đúng mô thức của những buổi diễn Phạm Duy – Trầm Ca năm nào.

 

Từ những toán này, một số những nhạc sĩ du ca xuất hiện. Từ Tây Ninh có Nguyễn Hữu Nghĩa, từ Đà Nẵng có Trần Đình Quân, từ miền cao nguyên có Bùi Công Thuấn, Nguyễn Quyết Thắng... Một toán du ca mang tên ngộ nghĩnh: Con Sáo Huế. Những toán khác: Vượt Sóng, Phù Sa,.... Ngay tại “đại bản doanh” Sài Gòn, các ông huynh trưởng du ca muốn có một toán du ca “nồng cốt”, tập dượt ráo riết những bài du ca để “đi hát dạo” kiểu Phạm Duy và Trầm Ca, lúc này đã hầu như ngưng hát. Phạm Duy thì có nhiều “projects” khác, ban Trầm Ca thì phân tán vì mỗi người dấn thân vào một công việc khác nhau: Phương Oanh thành lập nhóm đàn tranh Hoa Sim, mấy người con trai thì đi lính gần hết.

Thế là toán du ca “Mùa Xuân” ra đời gồm có Phạm Công Ngân, Uông Thế Công, Trần Ngọc Oánh, Nguyễn Thị Ngọc Yến, Trịnh Hữu Tâm, Nguyễn Minh Phương, Ngọc Hoàn và tôi. Oánh không trình diễn mà giữ nhiệm vụ viết hòa âm các bài hát. Phạm Công Ngân và Trịnh Hữu Tâm vừa hát vừa đàn guitar. Nguyễn Đức Quang giữ nhiệm vụ “nhà dìu dắt”. Toán Mùa Xuân rất là “có trình độ”, hát với 4 bè đàng hoàng cùng tiếng đàn đệm của Ngân, Tâm và anh Quang.

Chúng tôi làm nhiều chuyến “lưu diễn” ở các trường học khắp nơi cùng Nguyễn Đức Quang. Những bài hát của anh có dịp ghi khắc vào tâm khảm tôi, nói lên hộ tôi những khắc khoải của một tâm hồn mới lớn, đầy lý tưởng và nhiệt huyết. Nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy một bế tắc trong suy nghĩ và hành động. Ừ, đúng, tôi đang hát lên tâm tư của mình, những ưu tư về cuộc chiến tranh không lối thoát, những trăn trở cho cuộc sống đang phải dấn thân vào. Rồi sao nữa? Tôi không làm gì hết, tôi chỉ đi học, đi làm công tác thiện nguyện phất phơ, đi dạy thêm để kiếm tiền tiêu… Tôi chưa làm gì để có thể thóat ra những ưu tư dằn vặt đó được, chúng ở ngòai tầm tay một đứa trẻ mới lớn. Đến khi việc học trở nên quá bận rộn, tôi rời khỏi Phong Trào Du Ca.

Khi gặp lại Nguyễn Đức Quang và gia đình ở quận Cam vào những năm 1979, 1980, chúng tôi nối lại thân tình và đã cố gắng gầy dựng lại phong trào nhờ tập hợp được một các anh chị em du ca cũ: Nguyễn Thiện Cơ, Đoàn Trường Thọ, Lê Hiếu Nghĩa, Thu Vân,… thêm sự tiếp sức của du ca mới Việt Dzũng. Chúng tôi hội họp nhau tại nhà Phan Huy Đạt tập hát và đã làm một cuốn băng du ca thu tại phòng ngủ của căn apartment này cũng như tổ chức một vài buổi trình diễn nhạc du ca. Nhưng rồi những lo toan của cuộc sống đã làm tắt đi những hăng say ban đầu, mà khán giả cũng không còn, phong trào đành đi vào quên lãng.

Bao nhiêu năm qua, tôi vẫn nhớ mãi từng lời ca, vẫn thấy máu sôi lên trong huyết quản khi hát Đường Việt Nam, Anh Em Tôi, Lìa Nhau, Cần Nhau, Người Anh Vĩnh Bình, Tuổi Trẻ Chúng Tôi… Chúng là một phần tim óc của tôi, chúng đã làm nên con người tôi. Tôi tin rằng không ít những người cùng thời với tôi có cùng cảm nghĩ.

Và bây giờ, tôi rất vui khi thấy thế hệ trẻ cũng đã cất cao tiếng hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ và đang dần khám phá những bài hát khác, những bài du ca của Nguyễn Đức Quang.



Từ trái, Minh Chiến, Nguyễn Đức Quang,  Nguyễn Quyết Thắng (trong ngày sinh nhật NQ Thắng 19-9) tại Paris, Pháp năm 2010.


NQ Thắng viết trên trang Facebook cá nhân ngày 27 tháng 3, 2021 về những kỷ niệm năm 2010:

“Một trong những kỷ niệm thật thân thương và trìu mến giữa tôi với người đàn anh Du Ca Nguyễn Đức Quang mà tôi không bao giờ quên. Đó là lần anh đã từ Cali bay qua Hòa Lan thăm gia đình tôi. Cũng trong dịp này, tôi cùng anh đã đi một vòng Âu Châu ghé thăm một số bằng hữu ở rải rác khắp nơi: Hòa Lan, Pháp, Bỉ, Đức, Áo, Budapest, Tiệp Khắc…

“Trong những ngày dài bên nhau, cùng bàn luận chuyện vui buồn và những bước đi cho tương lai của Phong Trào Du Ca.

“Trong những đêm dài nơi đất lạ trên khắp vùng trời Âu, anh đã tâm sự những chuyện thầm kín riêng tư, mà anh vẫn còn ấp ủ trong tim.

“Chúng tôi đã cùng hát say sưa bên nhau với những bài ca Khai Phá , những bài Nhận Thức Ca, Dân Ca, và cả những bài Tình Ca,  trong dịp ghé thăm đoàn Du Ca Paris tại Pháp. Cũng là ngày sinh nhật của tôi 19 tháng 09,  là ngày đầu tiên tôi phủi tay, gác chuyện cơm áo. Những bài ca suốt một thời tuổi trẻ đến nay vẫn rong ruổi theo gót chân tôi từng tuổi đời .

“Một lần ngồi uống cafe ở ven đường Place d’Itali- Paris, anh nói, 'Minh Chiến chụp cho anh với Thắng tấm ảnh kỷ niệm chỗ này đi, biết đâu nó lại đi vào *lịch sử* không chừng.'

“Mà quả thật, đấy cũng là lần gặp gỡ cuối cùng, không ngờ 6 tháng sau anh đã vĩnh viễn lìa trần.

“Hôm nay 27-03-2021, xin viết đôi dòng tưởng nhớ ngày giỗ thứ 10 của người anh tinh thần Nguyễn Đức Quang mà tôi luôn quí mến.”


Các bài viết liên quan:

Nghĩ về anh Nguyễn Đức Quang

10 năm cõi tạm

Họp mặt Du Ca Mùa Xuân 2021, tưởng nhớ nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang



3/20/21

CHIẾC ĐÀN PIANO MÀU GỤ ĐỎ.


Khi tôi 20 tuổi, tôi bán hàng thuê cho một hiệu đàn piano ở St. Louis. Một lần, chúng tôi lại nhận được một “đơn đặt hàng” là một bưu thiếp từ vùng Đông Nam Missouri. Trên bưu thiếp đó có viết: “Xin hãy mang một chiếc đàn piano màu gụ đỏ tới cho cháu tôi. Tôi sẽ trả góp 10 đôla mỗi tháng bằng tiền bán trứng gà”.

3/7/21

CHUYỆN CHÚ CHIM HOẠ MI CÒI CỌC

Đỗ Duy Ngọc

Linh bắt gặp nó rất tình cờ khi một buổi sáng rảnh rỗi ghé chơi gian hàng của người bạn bán chim cảnh. Nó như một miếng thịt bèo nhèo, tai tái. Hai khoé mỏ còn vàng ươm, hai mắt chưa mở, chỉ là hai đốm đen. Cái cổ ngẳng, quẹo một bên, thỉnh thoảng lại cố vươn lên, ngáp ngáp như người khó thở. Hai cái cánh bé xíu, cặp chân cũng nhỏ tí, co quắp lâu lâu lại giật giật như người mắc bệnh kinh phong.

Cả thân hình trơ trụi, lông chưa lún phún. Nó nằm trong thùng giấy, trên mấy cọng rơm khoanh vội, rải thêm mấy giấy vụn. Lại gần nghe mùi thum thủm của phân. Có cảm tưởng như nó đang đói, cái mỏ cứ mở ra, nhưng chắc không thấy gì, khép lại sau cái giẫy. Bỗng dưng Linh thấy nó tội quá, anh quay qua hỏi tay chủ tiệm:

- Con chim gì ghê thế?

- À! Hoạ mi con. Mới vào từ Lạng Sơn một ổ mấy con, người ta lựa hết

còn mình nó.

- Trông nó èo uột quá

- Ừ! Chắc không sống nổi đêm nay.

3/1/21

Ngủ Đò

Trần Khiêm Đoàn

Năm 1971, trong một dịp vào Sài Gòn chấm thi tại trường Gia Long, tôi có dịp quen biết với một cặp vợ chồng người Nam, quê ở Cần Thơ. Vì biết là người Huế, lại đang dạy học ở vùng giới tuyến Đông Hà-Quảng Trị, nên anh chị đã dành cho tôi mối cảm tình đặc biệt của người lính văn phòng dành cho người lính đồn xa. Dù chưa ra Huế lần nào nhưng sự hiểu biết của cặp vợ chồng nầy về Huế khá sâu sắc và tỉ mỉ như cách nhìn của một nhà khảo cổ nhìn lại thời xa xưa qua sách vở. Một trong những mong ước của anh chị là một ngày nào đó được ra thăm Huế.

Tôi mời anh chị mùa Hè năm sau ra Huế ở lại với gia đình tôi chơi để làm một chuyến du lịch vùng đất có nhiều vui buồn đầy huyền thoại nầy.

Sau hơn một tuần chu du hết các thắng cảnh, lăng tẩm, chùa chiền, núi rừng, sông biển của Huế, hai ngày trước khi rời Huế về lại Cần Thơ, anh chồng kéo riêng tôi ra quán cà phê, nhìn trước nhìn sau để yên chí là không có tai vách mạch rừng rồi mới trầm giọng nói nhỏ vào tai tôi:

– Mình muốn cậu cho mình biết cái “dzụ” đó.

Tôi nhớn nhác chưa rõ chuyện gì, thì thào hỏi lại:

– Cái “dzụ” gì vậy anh?

Anh trả lời hơi lắp bắp:

– Thì, thì… cái “dzụ”… ngủ đò ấy mà!

– Tôi vỗ đùi cười ngặt nghẽo:

– Chuyện dễ ợt nằm trong lòng bàn tay, muốn lúc nào cũng đuợc mà anh làm tôi hết hồn.

2/26/21

ĂN CƠM CHƯA ? (食飯未 ?)

Tôi là người gốc Triều Châu nhưng từ nhỏ đến lớn chỉ học tiếng Việt và chỉ giao du với bạn VN và ngay cả cái nhà tôi ở cũng ngay trung tâm thành phố (ngay trước Hội Đồng Xã Tân An - Cần Thơ) và xung quanh là nhà của các công chức VN. Vốn liếng tiếng Tiều của tôi lúc đó rất ít nhưng lớn lên, cho đến giờ tôi vẫn có một suy nghĩ: tại sao người ta gặp nhau hay hỏi "Anh khỏe không?", "How are you?" "你好嗎?" nhưng duy nhất thời đó người Triều Châu ở VN găp nhau lại hòi "食飯未?" (chẹ bừng quề) có nghĩa là "Ăn cơm chưa?"

Nghe bà nội tôi kể: hồi đó bên Tàu nghèo lắm, nhất là ở quê hương của bà, không đủ cơm ăn, một nắm gạo nấu nước, người lớn uống nước cháo, gạn xác cháo cho con ăn đỡ dạ. Có lẽ đó là lý do tại sao rất nhiều người Triều Châu bỏ nước ra đi làm cu-li hay bất cứ công việc vất vả nặng nhọc vì chỉ mong tìm chút tiền để gởi về giúp đỡ gia đình và cho đến bây giờ trên thế giới, doanh gia người Hoa thành công lớn và giàu có trong thương nghiệp, đa số đều gốc gác Triều Châu.

1/6/21

Thần Thông

Các bạn thân mến,

Chúc mừng năm mới, xin chúc các bạn sức khỏe dồi dào, vạn sự như ý, mọi việc an lành.

Đầu năm xin chia sẻ một câu chuyện nhỏ _ "Thần Thông", mong các bạn thích.

Thần Thông

Trước ngày Tết Tây, tôi trực tại hội từ thiện "Tzu Chi" trong thương xá Hoàn Cầu Milpitas. Một hôm, một người bạn đến thăm, tôi pha bình trà, chúng tôi ngồi đối diện vừa uống trà vừa trò chuyện vui vẻ. Hàn huyên một hồi, bỗng người bạn hỏi tôi: "anh tụng kinh chay tịnh bao nhiêu năm rồi, có ngộ được cảnh giới thần thông gì chưa?"

Câu hỏi đột ngột khiến tôi ngẩn người trong giây lát, rồi tôi nói: "tôi không có công phu hay công lực gì cả, tôi cũng chẳng nghĩ đến cảnh giới thần thông huyền nhiệm."

Người bạn tò mò tiếp: "thế thì anh tụng kinh chay trường được gì ?"

Tôi trả lời: "chay tịnh là nuôi dưỡng lòng từ bi, tụng kinh là giữ tâm thanh tịnh."

"Chỉ có vậy sao ?" bạn tôi hỏi.

Tôi châm trà trầm ngâm một hồi, chậm rãi trả lời: "Thật tình mà nói, tôi có 3 thứ thần thông để tôi kể anh nghe."

"Là cái gì ?" bạn tôi sốt ruột.

Tôi nói: "Từ bấy lâu nay, mỗi bữa cơm tôi đều ăn ngon; mỗi tối tôi được ngủ yên; và ngày qua ngày, tôi sống vui vẻ."

Bạn tôi nghe xong, cúi đầu im lặng, có vẻ thất vọng, nhấp tiếp vài ngụm trà, rồi giã từ ra về. Không biết người bạn nghĩ sao về thần thông của tôi, câu trả lời của tôi có thỏa mãn về vấn đề thần thông mà ông bạn nghĩ hay không?

Sinh trưởng tại Việt Nam, từ nhỏ cha mẹ và thầy giáo thường dạy rằng: "Phải trân quý cơm gạo, hạt gạo là công sức của người nông dân, dầm mưa dãi nắng, qua bao tháng ngày khổ nhọc mới có được hạt gạo, hạt gạo là hạt ngọc của trời ân ban." về sau, Việt Nam đổi chủ, nhà nước thi hành chế độ tem phiếu, cuộc sống trở nên khó khăn. Lúc chúng tôi vượt biên, trên tàu lương thực rất khan hiếm, phải chịu đói khát ngày đêm. Trải qua bao nhiêu gian nan khổ cực, mới thấy hột cơm hạt gạo là quý đến độ nào. Tôi thường nghĩ rằng, có cơm ăn thì quý rồi, nếu được ăn no thì quý hơn. Bởi thế, trong suốt cuộc sống, tôi không bao giờ kén ăn, chỉ khen ngon và không dám chê dở, có người mời tôi cao lương mỹ vị, tôi cũng vui vẻ tiếp nhận. Lúc bình thường, một bát cháo, một gói mì, hai lát đậu hủ, tôi vẫn an nhiên tự tại, dù vui hay không, tôi cũng dùng tâm thưởng thức mọi bữa cơm, cảm ơn sự ân ban của bề trên và ghi ơn các giới nông công thương đã tạo tất cả điều kiện để cho tôi được no ấm và sinh sống.

Mỗi bữa cơm đều ăn ngon, vốn dĩ không đơn giản, mỗi tối đều ngủ yên thì càng không đơn giản.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Miền Nam Việt Nam mất. Từ xưa đến nay, bình dân bá tánh luôn luôn là kẻ hy sinh giữa sự tranh giành quyền lợi. Chế độ mới quốc hữu hóa mọi ngành nghệ, ngoài việc thay đổi tiền tệ tại miền nam Việt Nam, dân chúng không được giữ vàng bạc ngoại tệ trong nhà, gia đình tôi có một số vàng lá quý kim, vì vậy phải giấu đút chỗ này chỗ nọ, cả nhà ngày đêm phập phồng lo sợ, không sao yên giấc.

Giữa tháng 10 năm 1978, tôi vượt biên tìm tự do, gần 2,500 người chen chúc trên một chiếc tàu chở hàng cũ kỹ khoảng 6,000 thước vuông, người chật như nêm, bình thường ngồi còn phải co chân, chứ làm sao được nằm thẳng lưng. Ngoài ra, còn tiếng người lao xao chíu chít bên tai không ngừng. Trong hoàn cảnh xôn xao bất an như vậy, nhiều đêm tôi không thể chợp mắt, đứng trên boong tàu bâng khuâng nhìn biển trời mênh mông.

Những chuỗi ngày khó khăn tập cho tôi biết sự cảm ơn và tri túc, nếp sống vất vả tha hương tại xứ người không phải là khổ; Cuộc sống đạm bạc đơn giản cũng không phải là nghèo. Từ ngày di trú trên đất Mỹ, cuộc sống tuy rằng không được đầy đủ như xưa, nhưng tôi an hưởng bầu không khí tự do thoải mái, không còn nỗi lo sợ; có mái nhà che mưa núp gió, tuy nhỏ nhưng ấm cúng, không còn nhìn biển trời bơ vơ hoang mang.Bởi vì tri túc, đến đâu tôi cũng an nhiên tự tại. Hiện tại, dù được nằm trên giường cao nệm ấm, hay với giường gối đơn sơ nho nhỏ, hằng ngày tôi vẫn dễ dàng đi vào giấc ngủ êm đềm.

Cuối cùng mỗi ngày đều sống vui chắc hẳn cũng không phải là điều đơn giản.

Năm 1993 là lúc sa sút nhất trong cuộc đời của tôi, trước hết cuộc hôn nhân duy trì được 18 năm duyên tận chia tay, kế đó cha già giã từ cõi đời. Mất cả hiếu lẫn tình, tôi cảm thấy bàng hoàng xót xa, rồi ngã lòng thất chí với mọi sự việc, tưởng chừng mình đã bị quên lãng bởi thế nhân. Về sau, nhờ tình cờ đọc được một câu chuyện về người thật việc thật tại Đài Loan, câu chuyện này khiến tôi bừng tỉnh trong cơn mê.

"Hạnh Phúc Trong Ngõ Tối Cuộc Đời"

Tiêu Kiến Hoa sinh tại huyện Vân Lâm Đài Bắc, thuở nhỏ được nuôi dưỡng tại viện mồ côi, mãi đến khi được đi học mới biết là con người còn có cha mẹ; con người cần có một mái ấm gia đình. Vừa tốt nghiệp trung học thì bắt đầu cuộc sống tự túc vừa làm vừa học _ bỏ báo, rửa chén, làm thợ phụ tại tiệm sửa xe..... ban ngày vất vả làm việc, ban đêm chăm chỉ học hành, bỏ công đèn sách trong 15 năm, khi tốt nghiệp đại học thì đã 36 tuổi, ông đậu thủ khoa trong lớp. Khi bắt đầu bước vào đời để thực hiện cuộc sống lý tưởng của mình, thì oái oăm thay, ông lại mắc phải căn bệnh hiểm nghèo "tai biến thần kinh tủy sống" còn được gọi là "người đông lạnh theo thời gian". Bác sĩ cho biết bệnh nhân sẽ mất sức dần dần, không có cách chữa trị, thời gian sống còn khoảng 3 năm. Tin bất hạnh này làm tan vỡ tất cả hy vọng. Tiêu Kiến Hoa bỏ mặc cuộc sống vì đời đã không còn ý nghĩa. Sau một thời gian thất chí, anh chợt thức tỉnh: "cuộc đời vô thường, đương đầu với sự điêu tàn, tôi phải can đảm đứng dậy." Suốt 3 năm giằng co với tử thần, anh thản nhiên với sống chết, chia sẻ khắp nơi câu chuyện của mình, với hơn 500 buổi thuyết trình, bao nhiêu người đã cảm động với số phận thảm thương và tinh thần bất khuất của anh _ một chiến sĩ dũng mãnh không bao giờ cúi đầu trước nghịch cảnh định mệnh.

Tôi xúc động vô cùng khi đọc câu chuyện này, suy nghĩ rất lâu và cảm thấy hổ thẹn, một người bất hạnh và tàn tật như thế vẫn có thể sống can đảm như vậy, mình có sức khỏe đầy đủ tại sao lại không vui và ngã lòng chỉ vì một vài trở ngại trong đời. Càng nghĩ càng cảm thấy mình bạc nhược quá đáng và không biết tri túc.

Câu chuyện của Tiêu Kiến Hoa dạy tôi rất nhiều bài học quý giá trong cuộc sống _ lạc quan, can đảm, kiên trì và buông bỏ.

Thực vậy, đời người vốn dĩ không hoàn mỹ, mười việc thì hết tám, chín phần không vừa ý.

Ghi nhớ tới câu chuyện của người bạn chưa từng gặp mặt nhưng với một sức sống rực lửa và ý chí kiên cường bất khuất, cho tôi ý thức được ý nghĩa của cuộc sống, mãi mãi về sau, tôi nguyện luôn luôn sống vui sống thiện và mang lòng chân thành để cảm ơn thế giới, bao dung người khác và trân quý nhân duyên.

Trên đây là thần thông của tôi: mỗi bữa cơm đều ăn ngon, mỗi tối đều ngủ yên, mỗi ngày đều sống vui, kể cho bạn bè nghe, một số người sẽ ôm bụng cười rầm; một số người ngoảnh mặt bỏ đi; chỉ có người hữu duyên mới hiểu ý gật đầu.

Trong cuộc sống hằng ngày, nếu chúng ta để ý quan sát, sẽ thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ diệu: chim bay, hoa nở, cá bơi lội, ong xây tổ, nhện giăng tơ kết lưới, nước nguồn tuôn chảy không ngừng, nhạn bay xa ngàn dặm không lạc hướng..... Xin cho biết, chuyện nào không phải thần thông?

Điều đáng tiếc là, thần thông của người đời là theo đuổi những ý niệm cao siêu viển vông, trong khi đó, những của báu trong bản năng của chúng ta đã bị lãng quên, phai tàn theo tháng ngày.....

Trường

01-05-2021

1/2/21

Quên những cái nên quên

Một buổi tối, tôi đi thăm người bạn từng bị vu cáo hãm hại.

Lúc ăn cơm, anh nhận được một cuộc điện thoại, người đó muốn nói cho anh biết ai đã hãm hại anh.

Nhưng anh bạn tôi đã từ chối nghe.

Nhìn thấy vẻ mặt ngạc nhiên của tôi, anh nói:
“Biết rồi thì sao chứ? Cuộc sống có những chuyện không cần biết và có những thứ cần phải quên đi”.

12/29/20

QUY LUẬT XE RÁC


Một hôm tôi nhảy vào một chiếc taxi để ra phi trường.

Đang chạy đúng làn bỗng từ bãi đậu xe phía trước một chiếc xe nhà màu đen phóng ra. Người lái taxi thắng kêu một tiếng két và tránh không va chạm xe kia trong đường tơ kẻ tóc!
Người lái xe kia ngoái đầu mắng chúng tôi.
Người lái taxi chỉ cười vẫy chào lại. Tôi thấy anh thật là tử tế.
Thế nên tôi hỏi" Sao anh hiền vậy? Anh kia suýt tông hư xe anh và mình có lẽ đã phải nhập viện!"
Bấy giờ anh lái taxi dạy tôi bài học này, tôi gọi nó là 'The Law of the Garbage Truck.'

Anh giải thích rằng nhiều người cứ như là xe rác vậy. Họ chạy vòng quanh mang theo đầy rác, đầy bực dọc, đầy nóng giận và chán chường. Vì rác của họ đầy ắp, họ cần nơi đổ rác và đôi khi họ trút lên bạn. Đừng mang nó vào mình. Chỉ cần mỉm cười, vẫy chào, chúc điều tốt lành rồi ta cứ đi tiếp. Đừng thèm lấy rác đó rồi mang rải cho người khác nơi làm việc, nơi dọc đường hay mang về nhà. Người thành đạt quyết không để cho mấy xe chở rác làm hỏng ngày của mình.

Cuộc đời quá ngắn để mà cứ sống trong hối tiếc, vậy nên...
Hãy yêu thương người cư xử tốt với mình và cầu nguyện cho ai xử tệ. Cuộc sống này ta tạo nên nó chỉ mười phần trăm còn chín mươi phần trăm là tùy thuộc cách ta tiếp nhận nó!


Chúc một ngày không có rác!

11/27/20

BÌNH CHỨA VÀ NHỮNG THỨ CHỨA TRONG BÌNH

Tác giả Ajahn Brahm. Người dịch: Khánh Hạnh


Cách đây vài năm đã xảy ra mấy cuộc biểu tình trên đường phố sau khi một viên quản ngục nhà tù Guantanamo Bay bị buộc tội là đã vứt quyển kinh vào bồn cầu và giật nước cho nó trôi đi.

Ngày hôm sau, một ký giả tờ báo địa phương gọi điện thoại cho tôi, nói rằng anh ta đang viết một bài về sự việc vừa xảy ra, muốn hỏi các nhà lãnh đạo của mọi tôn giáo chính ở nước Úc cùng một câu hỏi anh đặt ra cho tôi:

" Ajahn Brahm, thầy sẽ làm gì nếu có người bỏ cuốn kinh Phật vào bồn cầu rồi giật nước cho nó trôi đi?"

Chẳng chút do dự, tôi trả lời: "Thưa ông, nếu có người bỏ cuốn kinh Phật vào bồn cầu và giật nước cho nó trôi đi thì việc trước tiên tôi sẽ làm là gọi thợ chuyên thông cống!"

Sau khi cười một hồi, anh ký giả cho biết đó là câu trả lời đầu tiên có vẻ thực tế nhất mà anh nhận được.

Tôi bèn nói thêm.

Tôi giải thích rằng, có thể có người làm nổ tung nhiều tượng Phật, đốt phá đền chùa, hay giết hại tăng ni; họ có thể diệt tất cả, nhưng tôi sẽ không bao giờ cho phép họ tiêu diệt đạo Phật. Bạn có thể giật nước bồn cầu cho quyển kinh trôi đi, nhưng tôi không bao giờ để bạn giật nước bồn cầu cho trôi đi sự bao dung tha thứ, sự bình an, và lòng bi mẫn.

Quyển kinh không phải là tôn giáo. Cũng như tượng đài, đền miếu, hay người tu sĩ. Những thứ này chỉ là "đồ chứa" mà thôi.

Quyển kinh dạy chúng ta những gì? Tượng đài biểu trưng cho điều gì? Những phẩm hạnh gì người tu sĩ phải có? Đó là những "đồ được chứa".

Khi chúng ta hiểu sự khác biệt giữa đồ chứa và đồ được chứa, chúng ta sẽ giữ lại đồ được chứa cho dù đồ chứa có bị tiêu hủy.

Chúng ta có thể in thêm kinh, xây thêm đền miếu và tượng đài, đào tạo thêm tăng ni, nhưng khi chúng ta đánh mất tình thương, lòng tự trọng và sự kính trọng người khác, và thay thế nó bằng sự bạo động, thì toàn bộ tôn giáo đã trôi xuống hầm cầu rồi.