2017/11/09 bởi levinhhuy
Nguồn: levinhhuy.wordpress.com
Huỳnh Văn Hoa (1845-1901)
“Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa” là câu ngạn ngữ nêu danh tứ đại hào phú Sài thành hồi cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Ba người được xếp trên trước đều là bậc quyền thế[1], còn Chú Hỏa tuy đứng hàng thứ tư nhưng lại là nhân vật để lại nhiều giai thoại cũng như công nghiệp nhất.
Hơn trăm năm trôi qua biết mấy vật đổi sao dời. Những giai thoại quanh cái tên Chú Hỏa ngày càng huyền hoặc sai lạc; chẳng những thế, những vết tích công trình của gia tộc này để lại tuy vẫn tồn tại sừng sững đó nhưng chẳng mấy người biết rõ ngọn ngành. Sau cơn quốc biến 1975, con cháu dòng họ Chú Hỏa lần lượt rời bỏ miền Nam Việt Nam, chia nhau lập nghiệp khắp nơi trên thế giới, nhưng họ vẫn luôn có thể tự hào về những gì tiền nhân đã gầy dựng ở nơi đất lành Sài Gòn.
Lớp người đầu tiên chỉ biết chí thú làm ăn, chẳng hề nghĩ đến việc ghi chép sự tích công trạng của mình, khiến vết tích cũng như những giai thoại tuy nhiều nhưng phần lớn đều khác xa sự thực. Có rất nhiều thông tin liên quan đến gia đình họ, nhưng các dữ liệu lịch sử lại hết sức ít ỏi khiến những đồn đãi đủ kiểu sai lạc lan truyền vô tội vạ, người nghe chẳng biết đâu mà lần.
Trọng tâm bài viết này nhằm làm rõ quá trình lập nghiệp của gia tộc Hui-Bon-Hoa. Hy vọng qua câu chuyện về một dòng họ Ba Tàu, có thể giúp người đọc hiểu thêm phần nào những đóng góp của người Tàu ở miền Nam[2].
1- “Chú Hỏa” là ai?
Căn cứ vào tên Hui Bon Hoa được khai khi nhập Pháp tịch của Chú Hỏa, nhiều tài liệu Việt ngữ cho rằng tên thật của ông là Hứa Bổn Hòa 許本華[3]. Nhưng tra khắp thư tịch của người Tàu ở miền Nam thời đó sẽ chẳng tài nào tìm được cái tên Hứa Bổn Hòa 許本華. Theo đa số người Tàu sống lâu năm ở Sài Gòn-Chợ Lớn thì Chú Hỏa là đại từ dùng để gọi ông Huỳnh Trọng Huấn, người được xem là đại diện của gia tộc Hui-Bon-Hoa vào đầu thế kỷ XX. Nhưng xét ra, danh xưng Chú Hỏa vốn cũng đồng thời gắn liền với Hui Bon Hua, tên do ông Huỳnh Văn Hoa 黃文華, thân phụ của Huỳnh Trọng Huấn khai khi nhập tịch Pháp. Hui Bon Hoa là ký âm của Huỳnh Văn Hoa theo phương ngữ Phúc Kiến. Còn tên Hứa Bổn Hòa chỉ là do ai đó dựa theo ba chữ Hui Bon Hoa mà đặt ra thôi.
Huỳnh Văn Hoa (1845-1901) còn có tên Huỳnh Tú Vinh, hiệu Tình Nham. Gốc tổ ở huyện Nam An tỉnh Phúc Kiến, đến đời ông cụ thân sinh thì dời đến thôn Văn Táo, trấn Hòa Sơn, huyện Hạ Môn (Phúc Kiến). Năm 20 tuổi (1865), ông qua Việt Nam, đến Sài Gòn tay trắng lập nghiệp.
2- Chuyện làm giàu của Chú Hỏa
Về chuyện làm giàu của Chú Hỏa, trong dân gian lưu truyền nhiều giai thoại[4]. Thực ra Huỳnh Văn Hoa có được số vốn ban đầu là nhờ ở lòng tốt của ông. Số là ở Sài Gòn, ông có qua lại làm ăn với một người Pháp, anh bạn này xui rủi bị sạt nghiệp, Huỳnh Văn Hoa đã tận tình giúp đỡ lộ phí cho bạn về nước. Cảm cái ơn đó, anh chàng người Pháp tiết lộ cho Hoa thông tin về khu vực nhà cầm quyền Pháp sắp quy hoạch để xây dựng thiết lộ. Huỳnh Văn Hoa bèn mua lại bãi đất sình lầy rộng lớn ở khu đó với giá rẻ, nhờ vậy ông được nhà nước thực dân đền bù số tiền lớn, Hoa có vốn mở tiệm cầm đồ đầu tiên của mình[5].
Ra tiệm chỉ là thoát kiếp làm công, còn để tạo dựng thịnh vượng cho cả một gia tộc lại phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trí phán đoán nhanh nhạy, lòng quả cảm dám quyết đoán nắm bắt thời cơ, và cả ít nhiều may mắn nữa. Và trong quá trình kinh doanh của Huỳnh Văn Hoa, sự phối hợp gắn bó của ông với một người Pháp mới là quan trọng bậc nhứt.
Người đó là Antoine Ogliastro (1844-1908). Antoine xuất thân từ một đại gia tộc ở đảo Corse, lúc bấy giờ đã là một thương gia nổi tiếng, đầu tư trong nhiều lãnh vực. Năm 1875, ông thành lập công ty Anton – Aogeliya Manchester ở thủ đô Paris; 1876 là hội viên Hiệp hội Chambre de Commerce de Saigon và xây dựng một đồn điền hồ tiêu ở Hà Tiên; 1881 trở thành ứng cử viên đầu tiên trong cuộc bầu cử quốc hội Cochinchine (tức lãnh thổ Cộng hòa Tự trị Nam kỳ.thời Pháp); 1885 đảm nhiệm Phó Lãnh sự Tây Ban Nha; 1886 là Lãnh sự Ý; 1887 là đại diện Lãnh sự quán Ý tại Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty tàu hỏa La Société générale des tramways à vapeur (SGTV), chủ Công ty xuất nhập khẩu Anton Aogeliya (Société commerciale d’import-export A. OGLIASTRO).
Huỳnh Văn Hoa luôn ghi nhớ công ơn Antoine đã dìu dắt cũng như tận lực sát cánh cùng mình trên bước đường chinh phục sự nghiệp lớn. Sau này, khi cả hai đã mất, vào thời kỳ kinh tế thế giới khủng hoảng 1929-1931, những người thừa kế gia tộc Hui-Bon-Hoa đã hết lòng ủng hộ Công ty la Société Louis Ogliastro & Cie. của Louis Ogliastro – con trai Antoine Ogliastro – vượt qua giai đoạn khủng hoảng. Mối thâm giao giữa hai gia tộc Tây-Tàu này đến nay đã hơn trăm năm vẫn bền chặt như thuở ban đầu.
Trở lại với Huỳnh Văn Hoa. Năm 1887, để thuận tiện và được ưu đãi trong kinh doanh, theo gợi ý của bạn già Antoine, Huỳnh Văn Hoa nhập Pháp tịch, lấy theo tên thánh là Jean Baptiste Hui Bon Hoa. Cụm từ Hui-Bon-Hoa sau này được con cháu dùng làm họ, và “Chú Hỏa” cũng thành tên chung được truyền thừa để gọi người đứng đầu của gia tộc này ở Việt Nam qua các thời kỳ. Danh tiếng Chú Hỏa từ đó không chỉ lừng lẫy Sài Gòn mà còn vang dội khắp Nam kỳ, lan rộng toàn cõi Đông Dương. 1901, giao sự nghiệp ở Nam Việt lại cho các con, ông về Tàu thăm quê và bệnh mất ở đó, được an táng ở Tuyền Châu (Phúc Kiến), hưởng dương 56 tuổi.
Huỳnh Văn Hoa tuy mất, nhưng sự nghiệp cũng như phương danh Chú Hỏa đã có được những mảnh hổ xứng đáng kế thừa và phát huy.
3- Hậu duệ của Chú Hỏa
Ông bà Huỳnh Văn Hoa có cả thảy 15 người con, trong đó có 4 trai. Người con trưởng tên Huỳnh Trọng Mô 黃仲謨, lúc nhỏ được bác ruột là ông Huỳnh Văn Bỉnh nhận làm con. Người này lúc trẻ từng sang Việt Nam giúp Chú Hỏa trong việc kinh doanh nhưng đã sớm mệnh một khi đang độ trung niên, con cháu của ông vì không nhập Pháp tịch nên ngày càng xa dần nguồn cội.
Người con thứ hai là Huỳnh Trọng Huấn 黃仲訓, tên Tây là Tang-Hung HuiBonHoa, sinh năm 1876 ở Hạ Môn (Phúc Kiến). Ông là cao đồ của danh nho đất Tuyền Châu Lý Thanh Cơ[6]. Sau khi ứng thí đỗ tú tài, ông cưới vợ rồi qua Sài Gòn trợ giúp kinh doanh với cha. Năm 1910, ông tiến hành đầu tư ở cố hương, lập Công ty địa ốc Huỳnh Vinh Viễn đường 黃榮遠堂, xây biệt thự ở Cổ Lãng tự (nay thuộc quận Tư Minh thành phố Hạ Môn tỉnh Phúc Kiến) cho người nước ngoài thuê[7]. Thế chiến II bùng nổ, Nhật chiếm An Nam (cuối 1940), nhiều lần mời Huấn tham gia chính trường nhưng ông đều từ chối. Tháng 3-1942, nhà cầm quyền Nhật nghi ngờ Huấn qua lại với chính phủ Tưởng Giới Thạch nên bắt giam ông. Hơn ba năm sau, Nhật Bản đầu hàng Đồng minh (8-1945), ông mới được trả tự do. Huỳnh Trọng Huấn qua đời tại Sài Gòn năm 1951, hưởng thọ 76 tuổi. Ông có vai vế cao nhất gia tộc Hui-Bon-Hoa, và cũng là người thừa kế danh hiệu “Chú Hỏa”.
Người thứ ba tên Huỳnh Trọng Tán 黃仲讚 – Tang-Chanh HuiBonHoa. Sinh năm 1877 tại Tuyền Châu, Phúc Kiến. Sau khi cưới vợ, ông qua Annam hiệp trợ kinh doanh với gia đình. Người này tính tình trầm ổn, có công lớn khuếch trương chuỗi hiệu cầm đồ và kinh doanh bất động sản của Hui-Bon-Hoa nên được mọi người trong gia tộc kính nể. Tán ít khi ra mặt giao tiếp lại mất sớm (1934) nên ít được người ngoài biết đến. Phải vài tháng sau khi Huỳnh Trọng Tán mất, Tạp chí kinh tế-tài chính Nam kỳ phát hành số đặc biệt để tưởng niệm và tuyên dương những cống hiến của ông trong nâng cao phúc lợi xã hội của Nam kỳ, người ta mới biết đến những đóng góp của ông[8]. Thập niên 60, con cháu của Tán dần dần thiên di ra nước ngoài.
Người con trai thứ tư là Huỳnh Trọng Bình 黃仲評 – Thang-Phien Hui-Ban-Hoa, sinh năm 1892. Sinh sau đẻ muộn nên thời trẻ Bình được cho du học, chỉ đến khi ông đã thuần thục (1922) mới tham gia kinh doanh, hỗ trợ Huỳnh Trọng Huấn trong đối ngoại. Sau khi hai người anh mất, Bình thành người quản lý tối cao và kế tục danh hiệu “Chú Hỏa”[9].
Anh em nhà họ phân công nhau, Huỳnh Trọng Huấn tính tình hào sảng hiếu khách phụ trách đối ngoại giao tiếp với khách hàng, Huỳnh Trọng Tán trầm lặng sâu xa lo việc đối nội quản lý tài vụ. Khi phải về Tàu đầu tư, Huỳnh Trọng Huấn cho xây một cầu mát ở thắng cảnh Nhật Quang nhai của Cổ Lãng tự để tỏ lòng nhớ người em Huỳnh Trọng Tán. Tình cảm anh em của họ sâu sắc trên thuận dưới hòa, nên trong công việc kinh doanh phối hợp cực kỳ ăn ý.
Ba anh em nhà họ Huỳnh, từ trái qua: Trọng Tán, Trọng Huấn, Trọng Bình.
Năm 1931, khi gia tộc làm lễ “hợp bách tuế” (mừng tuổi của hai trưởng bối Trọng Huấn, Trọng Tán cộng lại tròn trăm), Huỳnh Trọng Huấn nhân dịp này đặt ra bài Huỳnh Vinh Viễn đường mục hành tự 黃氏榮遠堂穆行序:
慶元積善 Khánh nguyên tích thiện
和以致祥 Hòa dĩ trí tường
丕基南振 Phi cơ Nam chấn
修業東揚 Tu nghiệp Đông dương
子承孫繼 Tử thừa tôn kế
源遠流長 Nguyên viễn lưu trường
嘉禾文藻 Gia hòa văn tảo
翹首家鄉 Kiều thủ gia hương
(Mừng dòng họ càng thêm người càng chứa điều thiện/ Lấy hòa thuận làm điều cực tốt lành/ Nền tảng lừng lẫy phương Nam/ Công nghiệp rạng rỡ phương Đông/ Con truyền cháu nối/ Gốc vững dòng bền/ Điềm lành đẹp đẽ/ Ngẩng đầu với quê xưa).
Tấm bảng khắc bài “Phả tự thi” bị Cộng tặc vùi dập sau hơn 30 năm đã Châu về Hợp Phố.
Đây là loại thơ mà các dòng họ lớn của người Tàu áp dụng đặt sẵn chữ lót cho con cháu, để họ hàng dễ nhận ra và biết vai vế thứ bậc của nhau, còn gọi là “Phả tự thi” 譜字詩. Đời chữ Khánh, tức thế hệ thứ ba của dòng họ HuiBonHoa đã có hơn 50 người, đến thời điểm 1975 đã xuất hiện tên đệm bằng chữ Tích (thế hệ thứ năm). Dòng dõi Chú Hỏa từ đây đâm cành nảy nhánh sum suê thịnh vượng.
Bài thơ này của Huỳnh Trọng Huấn được khắc lại theo thủ bút của ông, treo ở từ đường của Huỳnh Vinh Viễn đường. Sau 1975, giặc cộng tịch thu cướp mất nhiều đồ cổ ngoạn của gia tộc Hui-Bon-Hoa, tấm bảng khắc Phả tự thi này cũng biến mất từ đó. Hơn 30 năm sau (2007), một người thuộc hàng chữ Nguyên (thế hệ thứ tư) của gia tộc Hui-Bon-Hoa sang Việt Nam cúng phần mộ ông bà, tình cờ gặp lại bảng khắc Phả tự của nhà mình được bày bán bên lề đường đã lập tức mua lại. Tấm biển được mang về Pháp sum họp với con cháu.
4- Khu dinh thự Nhà Chú Hỏa
Khu dinh thự của gia tộc Hui-Bon-Hoa tọa lạc ở Quận Nhứt, Sài Gòn. Khu đất này ban đầu vốn là nơi ông Huỳnh Văn Hoa cất nhà liền kề nhau cho các con trai, sau này được Huỳnh Trọng Huấn tậu rộng thêm, với tổng diện tích 3.514m2. Mặt tiền là đường d’Alsace Lorraine (nay là đường Phó Đức Chính); bên trái là đường Hamelin (Đệ nhứt Cộng hòa đổi thành đường Hồ Văn Ngà, đời mạt cộng từ đường đổi là Lê Thị Hồng Gấm); bên phải là đường d’Ayot (Việt Nam Cộng Hòa là đường Nguyễn Văn Sâm, Việt cộng đổi thành đường Nguyễn Thái Bình); và sau lưng là đường Bourdais (tức đường Calmette).
Sau khi từ Hạ Môn về, Huỳnh Trọng Huấn nhờ kiến trúc sư người Pháp là Rivera thiết kế hòa hợp Á-Âu, xây bốn dinh thự ở khu đất này (1925-1929), gồm: Trọng Huấn lâu, nay dùng làm Bảo tàng Mỹ thuật; Trọng Tán lâu, được Cộng quân dùng làm trụ sở ngân hàng một thời gian, sau đó đã dỡ bỏ; Trung lâu, tòa nhà này tầng dưới là tổng hành dinh của Công ty bất động sản Huỳnh Văn Hoa (tên Tây là Société Immobilière Hui-Bon-Hoa, SIHBH), tầng giữa là từ đường của dòng họ, giờ là một phần của Bảo tàng Mỹ thuật[10]; Trọng Bình lâu, nay đã được chính quyền cách mạng cho tư nhân thuê.
Trọng Huấn lâu, được cộng trưng dụng làm Bảo tàng Mỹ thuật.
Quần thể biệt thự này thời bấy giờ được gọi theo tên công ty địa ốc của anh em nhà Hui-Bon-Hoa là khu dinh thự “Huỳnh Vinh Viễn đường”, giới bình dân gọi là Nhà Chú Hỏa.
Đối diện Nhà Chú Hỏa là nhà 66 Phó Đức Chính, địa chỉ này vốn là tiệm cầm đồ đầu tiên của Huỳnh Văn Hoa. Sau khi xây dựng xong bốn dinh thự Huỳnh Vinh Viễn đường, Huỳnh Trọng Huấn cũng cho xây mới tòa nhà này, dùng làm nơi trú ngụ cho người vợ kế và các con của ông (Hình 4). Sau 1975, nhà này cũng được chính quyền mới tịch biên. Sau nhiều lần sang tay nhau giữa các ông chủ đỏ, địa chỉ này hiện nay là Cao ốc văn phòng Sacomreal – Generalimex.
Ngôi nhà 66 Phó Đức Chính.
5- Kinh doanh cầm đồ
Từ 1864, nhà cầm quyền Pháp đã cấp phép cho tư nhân mở tiệm cầm đồ trên lãnh thổ Nam kỳ. Tiệm cầm đồ đầu tiên của Saigon-Cholon là Công ty MM. Apan Suo-yoo, do Hoa kiều Apan thành lập. Do lúc bấy giờ, giới kinh doanh ngành này thu lãi suất quá cao, nên vào 1871, chính quyền thực dân đã phải ban hành quy chế quản lý lãi suất, đồng thời cũng chính thức cho phép mở tiệm cầm đồ ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long và Châu Đốc.
1875, Antoine Ogliastro – người sau này là bạn tâm giao của Huỳnh Văn Hoa – thành lập công ty Antoine Ogliastro & Cie. ở Paris, tham gia kinh doanh lãnh vực cầm đồ. Em vợ của Antoine là Oscar du Crouzet làm giám đốc cho Apan, qua đó mà Antoine kết giao với Hoa kiều Apan. 1878, hai người cùng với một Pháp kiều khác là Théodore Blustein hợp tác thành lập công ty cầm đồ La Société Apan, Ogliastro-Blutstein et Cie. ở Sài Gòn. Sau này, Blutstein qua đời, công ty đổi tên thành La Société Ogliastro-Blutstein, Apan et Cie.. Công ty của họ lần hồi mở thêm chi nhánh ở Đa Kao, Cầu Kho, Gia Định, và cả miệt Lục tỉnh như Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên, Tân An… Huỳnh Văn Hoa đã kết giao với Antoine trong quãng thời gian này.
Không ai biết đích xác họ quen nhau trong trường hợp nào, chỉ biết từ 1887, Hoa đã là người quản lý toàn bộ ngành kinh doanh cầm đồ của Antoine ở xứ Nam kỳ. Những năm tiếp theo đó, họ luôn hùn hạp trong mọi cuộc làm ăn, cùng sánh vai nhau xây dựng sự nghiệp.
1900, các cửa tiệm cầm đồ của Antoine đều được Huỳnh Văn Hoa hùn vốn, công ty của Antoine từ đó đổi tên thành Công ty hợp doanh Ogliastro, Hui Bon Hoa et Cie. Năm 1901, Huỳnh Văn Hoa tạ thế, thế hệ Chú Hỏa thứ hai thừa kế cổ phần của hợp doanh này. Chẳng những thế, đến sau khi Antoine qua đời (1908), hai con ông là Lucien Ogliastro và Louis Ogliastro vẫn tiếp tục hợp tác với các con của Huỳnh Văn Hoa. Năm 1912, Lucien mất. 1927, Louis chuyển hướng kinh doanh ra thị trường Bắc kỳ và Cao Miên (Campuchia). Tuy vậy, đến năm 1951 Louis mới tuyên bố giải thể, rút vốn và rời khỏi thị trường Đông Dương.
Chuỗi tiệm cầm đồ do thế hệ thứ hai của hai dòng họ ngày càng khuếch trương: ra Gò Vấp, Hóc Môn, Bà Chiểu, xuống tới Mỹ Tho, Gò Công, Bãi Xàu, Sóc Trăng… Nói chung, mạng lưới kinh doanh của họ phủ khắp các thị tứ và cảng sông trọng yếu của miền Nam.
1930, đối thủ của gia tộc Hui-Bon-Hoa xuất hiện, đó là công ty kinh doanh động sản và tín dụng của Ấn Độ, Crédit Mobilier Indochinois, có số vốn 10 triệu franc.
1931, Tòa Thị chính cho đấu thầu quyền khai thác tín dụng ở Saigon, chỉ có hai công ty là Ogliastro-HuiBonHoa và Crédit Mobilier Indochinois dự thầu. Người Ấn đã phá giá, đề xuất mức thuế cầm đồ là 25% để giành được quyền kinh doanh trong 6 năm. Công ty của hai gia tộc Ogliastro và Hui-Bon-Hoa phải rút khỏi thị trường Saigon. Ngay trong năm đó, Indochinois mở rộng thêm chi nhánh không chỉ xuống Nam kỳ Lục tỉnh mà còn lan tỏa ra Hà Nội, Hải Phòng, Phnom Penh. Tính riêng ở Nam kỳ, năm 1938 tổng cộng có 28 tiệm cầm đồ thì đến 16 tiệm là của Indochinois, còn lại 12 tiệm là của Ogliastro-HuiBonHoa. Phải đến 1950, Indochinois giải thể, gia tộc Hui-Bon-Hoa mới trở lại địa vị thống lãnh kinh doanh cầm đồ ở Nam kỳ.
6- Kinh doanh bất động sản
Lúc ban đầu lập nghiệp, Huỳnh Văn Hoa nhờ biết được thông tin sắp xây dựng tuyến đường sắt ở Saigon, ông đã tậu một khu đất hoang sình lầy diện tích gần 10ha với giá rẻ gần như cho không. Đến 1881, khi khởi công xây dựng tuyến đường hỏa xa Saigon-Cholon, nhà cầm quyền Pháp đã đền bù cho Hoa một số tiền lớn, đủ để ông ra tiệm cầm đồ. Không những thế, khu vực đó sau khi mở nhà ga liền trở nên sầm uất, Chú Hỏa bèn cho cất nhà trên diện tích còn lại để bán và cho thuê. Khu đất phát tích của Huỳnh gia đó tọa lạc ở Quận Nhứt, được người trong gia tộc Hui-Bon-Hoa gọi là Hậu Phương Lan 厚芳蘭. Địa danh này được khắc trang trọng trên mộ chí của Huỳnh Văn Hoa. Sau này Huỳnh Trọng Huấn đầu tư dinh thự ở Hạ Môn cũng cho xây một nhà kỷ niệm có tên Hậu Phương Lan quán để ghi nhớ công ơn khai phá cơ nghiệp của cha mình.
Chẳng có tư liệu nào ghi chép địa điểm cụ thể của bãi đất hoang ấy. Còn cái tên Hậu Phương Lan nghe vừa văn vẻ vừa lạ hoắc, thật ra chính là ký âm phương ngữ Quảng Đông của địa danh Cầu Ông Lãnh.
Nhà ga xe lửa Saigon, đại lộ de la Somme (Hàm Nghi), 1906.
Khu vực Cầu Ông Lãnh nằm giữa khuôn viên các đường Galliéni (tức đường Trần Hưng Đạo), Marchaise (đường Bác sĩ Yersin), Dixmude (đường Đề Thám) và đường Belgique (thời Việt Nam Cộng Hòa là đường Bến Chương Dương, nay nó đã được sang tên cho một cố thủ tướng Việt cộng). Thời Pháp, dân Tàu kêu Cầu Ông Lãnh bằng Hậu Phương Lan, đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa mới phiên âm trực tiếp là Cựu Ông Lãnh 舊翁領 hoặc Cựu Ngũ Luân 舊五倫. Khu dinh thự Huỳnh Vinh Viễn đườngliền kề đại lộ de la Somme (nay là Hàm Nghi), nhà ga xe lửa đầu tiên của Saigon được xây dựng ở đại lộ này. Cạnh đó là chợ Bến Thành, nơi đến nay vẫn còn lưu lại những biệt thự kiểu Pháp do gia tộc HuiBonHoa xây dựng.
1901, sau khi Huỳnh Văn Hoa mất, hai anh em Trọng Huấn và Trọng Tán quyết định thành lập Công ty huynh đệ Hui-Bon-Hoa (La Société Hui Bon Hoa et fréres). Công ty này chuyên kinh doanh địa ốc, cất nhà cho thuê, xây dựng nhà xưởng và các tòa nhà thương mại. Phạm vi hoạt động của nó không chỉ ở Saigon mà còn mở rộng trên toàn Liên bang Đông Dương và các quốc gia lân cận. Anh em họ phân công nhau: Trọng Tán xử lý công cuộc làm ăn ở Nam kỳ, Trọng Huấn về Hạ Môn đầu tư, phát triển sự nghiệp ra hải ngoại.
1918, Đệ nhất Thế chiến kết thúc, kinh tế suy thoái khiến giá đất giảm mạnh, Huỳnh Trọng Tán phóng tay thu mua và xây cất nhà cửa, dinh thự ở Saigon-Cholon. Khắp các đại lộ huyết mạch và chợ đầu mối thuộc địa bàn này đều có cơ ngơi tòa ngang dãy dọc của Chú Hỏa. Ở thời kỳ cực thịnh, Công ty địa ốc Hui-Bon-Hoa sở hữu hơn hai vạn ngôi nhà, bằng 1/5 tổng số địa ốc Saigon-Cholon lúc bấy giờ. Qua thời kỳ suy thoái, kinh tế khởi sắc khiến giá bất động sản tăng dần, cơ nghiệp của Huỳnh gia cũng tăng theo đều đều. Cùng lúc đó, công ty địa ốc Huỳnh Vinh Viễn đường do Huỳnh Trọng Huấn thành lập ở Hạ Môn cũng xây cất được hơn 60 tòa biệt thự trên đảo Cổ Lãng, việc làm ăn cứ thế phát triển tính bằng ngày.
Brochure quảng cáo của Công ty địa ốc Hui Bon Hoa thời Pháp
Giai đoạn Đệ nhị Thế chiến, các thành viên thuộc hàng chữ Khánh (thế hệ thứ ba) của gia tộc cũng chung tay nhập cuộc kinh doanh. Năm 1943, danh sách Hội đồng quản trị của Tổng Công ty địa ốc Hui-Bon-Hoa ngoài ba anh em Huấn, Tán, Bình, còn có thêm tên của: Khánh Nam 慶楠 (Khien-Nam Hui-Bon-Hoa, con trai Trọng Huấn), Khánh Sam 慶杉 (Khien-Sam Hui-Bon-Hoa, con trưởng Trọng Tán), Khánh Tung 慶樅 (Khien-Chion Lucien Hui-Bon-Hoa, con thứ Trọng Tán), Khánh Phong 慶楓 (Khien-Hong Luce Hui-Bon-Hoa, con trai thứ ba của Trọng Tán)[11].
Công việc kinh doanh của Sài thành đệ nhất phú gia lúc này đã phát triển sang các lãnh vực khai thác đồn điền cao su ở các tỉnh miền Đông và mở nhà máy chà gạo ở các tỉnh miền Tây. Các biệt thự nghỉ mát cho người trong dòng tộc được xây dựng ở Đà Lạt; các biệt thự tránh nóng cũng được xây ở Vũng Tàu để các cô cậu thuộc hàng chữ Khánh mỗi cuối tuần ra tắm biển, lái du thuyền; và một khu phần mộ rộng lớn ở Biên Hòa cũng được hình thành, để các trưởng bối lui về yên nghỉ ngàn thu ở xứ Nam kỳ cây lành trái ngọt.
7- Huỳnh gia mộ viên
Năm 1901, ông bà Huỳnh Văn Hoa mất, được an táng ở Tuyền Châu. Lúc bấy giờ, tiếng tăm của nhà cự phú đã lan xa ngoài lãnh thổ Nam kỳ nên bọn trộm mộ đã vài lần “viếng thăm” nơi yên nghỉ của Chú Hỏa. Các “Mô Kim hiệu úy”[12] đã không tìm được gì, bởi Jean Baptiste Hui Bon Hoa vốn theo tín ngưỡng Công giáo nên không theo phong tục tùy táng của cải của người Trung Hoa. Anh trai Tàu năm xưa đến Annam với đôi bàn tay trắng, đến chót đời cũng trắng hai tay khiêm nhường về với Chúa. Ba anh em Huỳnh Trọng từ đó không còn ý định gửi nắm xương tàn của mình về cố quốc nữa.
Năm 1934, Trọng Tán mất. Trọng Huấn chọn một khu đất thuộc Thủ Đức để làm mộ địa cho toàn gia tộc và an táng em mình ở đó. Khu mộ này qua đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa được phân địa giới hành chánh thuộc quận Dĩ An, tỉnh Biên Hòa, và được dân Biên Hòa gọi là “Mộ Chú Hỏa”. Khu đất nằm trên đồi cao, đoạn dốc chỗ đó cũng được gọi “Dốc Chú Hỏa”. Cách gọi tắt này khiến nhiều người lầm tưởng đó là mộ riêng của Huỳnh Trọng Huấn, nhưng đây thật ra là nghĩa địa của cả gia tộc Hui-Bon-Hoa. Huỳnh gia mộ viên là một công trình liên hoàn, bố trí trên diện tích hơn 5ha, với đầy đủ các kiến trúc tiêu biểu của một nghĩa trang Phúc Kiến, có cổng chính, miếu Thổ thần, nghĩa từ, nhà bia.
Năm 1951, Trọng Huấn; rồi 1961 đến Trọng Bình lần lượt được an táng nơi đây. Nằm riêng biệt trên ngọn đồi cao nhất ở trung tâm mộ viên là 3 ngôi mộ của anh em Huỳnh Trọng. Mộ phần ba đại phú hào y hệt những ngôi mộ bình thường khác của người Tàu, ngoại trừ văn bia và mộ chí Trọng Tán là do các thợ bậc thầy được mời từ bên Tàu qua phụ trách; toàn bộ điêu khắc ở đây đều do các nghệ nhân Phúc Kiến ở làng đá Bửu Long (Biên Hòa) tạo tác. Hai trụ đá trước mộ Trọng Huấn là đôi liễn:
友于兄弟 Hữu vu huynh đệ
卜共山邱 Bốc cộng sơn khâu
(Anh em hòa thuận/ Chọn chung đồi núi – Câu “Hữu vu huynh đệ” là thành ngữ xuất xứ trong Kinh Thư, thiên Quân Trần, ý nói người bạn đầu tiên trong đời mỗi người chính là anh em của mình).
Mộ Huỳnh Trọng Huấn
Tính đến 1975, tổng cộng có tám người thuộc gia tộc Hui-Bon-Hoa (kể cả ba anh em Huấn-Tán-Bình) được chôn cất ở đây[13].
Sau 1975, trước khi rời Việt Nam không hẹn ngày trở lại, gia tộc Hui-Bon-Hoa cấp cho người chăm sóc Huỳnh gia mộ viên một số vốn để đảm bảo người này vẫn tiếp tục nhiệm vụ của mình. Những năm cuối thập niên 90, con trai người thủ mộ đó (được biết tên là Lương) mạo nhận mình là con cháu Chú Hỏa, thông đồng với chính quyền địa phương xà xẻo khu mộ của dòng họ Hui-Bon-Hoa, cắt đất bán cho người ngoài vào đó xây dựng thổ cư. Từ 1999, Dĩ An được chuyển giao cho tỉnh Bình Dương. Trải nhiều lần xáo trộn hành chánh, người xâm phạm ngày càng đông, đến nay thì khu mộ viên này đã thành một mê cung, nếu không có người hướng dẫn thì không tài nào tìm được nơi yên nghỉ của ba anh em Huỳnh Trọng.
8- Đánh đuổi tư sản ngoại bang
Những năm cuối đời, Huỳnh Trọng Bình giao mọi việc kinh doanh cho Huỳnh Khánh Mi 黃慶楣 (con trai thứ ba của Huỳnh Trọng Huấn), đây cũng là người cuối cùng thừa kế danh hiệu “Chú Hỏa”.
Kể từ sau Đệ nhất Thế chiến, Huỳnh Vinh Viễn đường trở thành “Vua bất động sản” không chỉ ở miền Nam Việt Nam mà cả ở Hồng Kông, Hạ Môn, Đài Loan, Thượng Hải; thậm chí cũng có sản nghiệp ở cả Anh, Pháp. Đó không phải việc sức một người có thể làm được, mà của toàn gia tộc chung vai gánh vác.
Người sống trong Huỳnh Vinh Viễn đường phải theo gia pháp rất nghiêm. Trai cưới vợ được cấp một nhà lầu 2 tầng cộng 40.000 franc làm vốn, gái lấy chồng được hồi môn một nhà trệt và 20.000 franc (không rõ thời điểm cụ thể, chỉ biết so với bậc lương cao nhất của một công chức người Pháp vào lúc ấy là 8.000 franc/tháng), sau đó tuyệt đối không được can dự gì vào khối tài sản của gia tộc. Ngoài ra, con cháu trong họ được cấp toàn bộ học phí cho đến thành tài. Sau khi ra trường, tùy theo ngành nghề đã học, họ đều được đặt vào vị trí thích hợp để phục vụ cho công ty của gia tộc, lương thưởng theo năng lực cá nhân. Ngay từ ấu thơ, các mãnh hổ Hui-Bon-Hoa đã được dạy rằng nếu không tìm được một chỗ đứng trong công ty của gia tộc mình là sự sỉ nhục lớn.
Vì thỉnh thoảng vẫn có người tự nhận mình là dòng dõi Chú Hỏa, ở đây xin gợi ý vài điểm để kiểm chứng hậu duệ Hui-Bon-Hoa chánh hiệu:
– Phải biết đọc và viết chữ Tàu, con cháu Hui-Bon-Hoa tuyệt đối không có hạng thất học và vong bản.
– Phải theo Công giáo, đây là lẽ tất nhiên không cần bàn cãi và cũng không được phép có lựa chọn khác.
– Ngoài họ Huỳnh, còn phải có chữ lót trùng với bài Phả tự thi do Huỳnh Trọng Huấn đặt.
– Không thể có quốc tịch Việt Nam, vì gia tộc Hui-Bon-Hoa tuyệt đối không để lại giọt máu nào rơi rớt ở mảnh đất này, toàn bộ người của dòng họ này đã cuốn nóp cút khỏi xứ này từ sau 1975.
Từ 1955, Công ty địa ốc Hui-Bon-Hoa đã được Huỳnh Trọng Bình chuyển trụ sở chính qua Paris, chính sách buộc Hoa kiều nhập Việt tịch của Tổng thống Ngô Đình Diệm[14] do đó không hề ảnh hưởng đến dòng họ Pháp kiều này. Tuy vậy, sản nghiệp chính của họ vẫn là ở miền Nam Việt Nam.
Giữa năm 1974, tình hình miền Nam không mấy lạc quan, Huỳnh Khánh Mi cho ngưng mọi hoạt động ở Việt Nam, phần lớn người trong gia tộc được thu xếp cho ra các chi nhánh ở nước ngoài.
30-4-1975, đoàn quân cờ đỏ sao vàng tiến vào Sài Gòn. Khu dinh thự Huỳnh Vinh Viễn đường ở đường Phó Đức Chính được trưng dụng làm tổng hành dinh của Bộ tư lệnh Quân khu 7 Việt cộng, gia quyến của Chú Hỏa được nhồi nhét dồn lên tầng trên cùng. Toàn bộ đồ cổ ngoạn trong khu dinh thự tư nhân này lập tức được hàng đoàn xe GMC đến dọn dẹp bằng sạch, với lý do để rộng chỗ cho Bộ tư lệnh làm việc.
Chưa hết, vài hôm sau, một cuộc đấu tố được phát động, Công đoàn tố cáo những tội ác của gia tộc Hui-Bon-Hoa đối với nhân dân: bóc lột công nhân, gian lận thuế má, chuyển nhượng nhà cửa phi pháp, cho thuê nhà và cầm đồ với giá cắt cổ, kỳ thị và áp bức nhân công người Việt… Huỳnh Khánh Mi cùng khoảng 10 người khác của gia tộc Hui-Bon-Hoa liền bị tống giam, toàn bộ sản nghiệp của dòng họ này bị tịch thu. Ước tính tổng tài sản của dòng họ Hui-Bon-Hoa không kể bất động sản (và cả đồ cổ bị chở đi trước đó) là 80 tỷ tiền Việt Nam Cộng Hòa, tương đương 32 triệu Mỹ kim vào thời điểm đó[15].
Cộng quân bắt giam, nói là nhằm truy cứu những tội ác của họ, nhưng thật ra là để điều tra những những bất động sản mà chúng chưa nắm được. Hơn ba tháng sau, Huỳnh Khánh Mi mới được thả (ông kiên quyết đòi mình phải là người sau cùng của gia tộc ra khỏi nhà giam). Chưa đầy một tuần sau, toàn thể gia tộc Hui-Bon-Hoa ra sân bay rời Việt Nam, hành trang cực kỳ gọn nhẹ của họ được công an Việt Nam xốc tung lên để tìm châu báu lần cuối. Quân chó má tham lam vô độ vui mừng hơn trúng số vì đã lột sạch được một nhà tư sản, nhưng chúng không thể ngờ là chúng đã lỡ mất cơ hội thu phục tiềm lực quý giá nhất để kiến thiết một quốc gia: sự ủng hộ của Hoa kiều trên thế giới.
1986, chính phủ Cộng hòa Pháp đền bù cho những tổn thất mà công dân của họ đã phải gánh chịu trong chiến tranh Việt Nam, gia tộc Hui-Bon-Hoa được một khoản không nhỏ, nhưng chẳng thấm vào đâu so với những gì đã bị tước đoạt.
1987, “Nhà Chú Hỏa” được dùng làm Bảo tàng Mỹ thuật. 1992, Bảo tàng chính thức khai trương. Tháng 7-2006, lần đầu tiên, một vài thành viên thuộc hàng chữ Nguyên và chữ Tích (thế hệ thứ ba và thứ tư) của gia tộc Hui-Bon-Hoa từ Pháp đến Sài Gòn tìm thăm vết tích cũ của tiền nhân. Ở Bảo tàng Mỹ thuật, họ được ngắm nhìn một phần cổ ngoạn của nhà họ khi xưa. Bà Nguyễn Thị Đức, Giám đốc Bảo tàng tiếp đón họ, sau đó bà này cho báo giới biết: các thành viên của gia tộc Hui-Bon-Hoa đã vui mừng nói rằng được trở thành Bảo tàng là “sự thay đổi tốt nhất” cho ngôi nhà của họ. Thế sự đảo điên, những kẻ bị tước đoạt giờ đây thành ra phải tri ân quân giặc cướp vì chúng đã “bảo quản” của cải giúp mình!
9- Những đóng góp của gia tộc Hui-Bon-Hoa
Triết lý kinh doanh của nhà Hui-Bon-Hoa là lợi nhuận thu được từ cộng đồng phải được dùng để phục vụ trở lại cho cộng đồng, nâng cao phúc lợi xã hội. “Chú Hỏa” được khắp miền Nam nhớ đến không phải vì tài sản kếch sù, mà vì những đóng góp cho xã hội. Không tài nào thống kê được cụ thể có bao nhiêu ngôi nhà do Công ty địa ốc Hui-Bon-Hoa xây dựng cho dân nghèo thuê với giá rẻ. Ngót trăm năm đã trôi qua, đến nay người ta vẫn còn có thể nhiều lần bắt gặp không chỉ ở Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, mà cả ở miệt Lục tỉnh, những dãy nhà liền kề nhau rất đặc trưng kiểu “Chú Hỏa”. Những người dân nghèo bất kể Tàu, Việt, đều có thể tìm đến Công ty Hui-Bon-Hoa để thuê hoặc mua trả góp một ngôi nhà khang trang đủ tiện nghi gia đình và phù hợp với túi tiền của mình.
Nhiều công trình lớn do họ xây dựng đến nay vẫn phát huy công năng. Hạng mục này không cần phải kể nhiều, chỉ xin tùy tiện điểm qua vài công trình quan trọng: Phước Thiện y viện (Huỳnh Trọng Tán xây năm 1909, nay là Bệnh viện Nguyễn Trãi), Chẩn y viện (Huỳnh Trọng Huấn xây năm 1937 – nay là Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn), Bảo sanh viện Đông Dương (1937 – nay là Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ), chùa Phụng Sơn (Huỳnh Trọng Bình xây năm 1949 – số 338-340 Nguyễn Công Trứ, Quận I), chùa Kỳ Viên (năm 1949 – số 610 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 3, Quận 3), Thành Chí học hiệu (Huỳnh Khánh Mi xây, nay là Trường THCS Minh Đức – số 75 Nguyễn Thái Học, Phường Cầu Ông Lãnh, Quận I)…
Từ thời Pháp thuộc, khi Huỳnh Trọng Tán mất (1937), để vinh danh gia tộc Chú Hỏa, chính quyền thực dân đã đặt tên cho con đường nối liền Saigon với Cholon là Đại lộ Hui Bon Hoa (Boulevard Hui Bon Hoa), chính là đường Lý Thái Tổ ở Quận 10 ngày nay.
Bảo sanh viện Đông Dương, 1937
Khách sạn Majestic, 1925
Một dãy nhà trong hẻm 158 Nguyễn Công Trứ (Quận I, Sài Gòn) do Công ty Hui Bon Hoa xây dựng thuở xưa nay vẫn sử dụng tốt.
* * *
Hơn trăm năm trước (1865), một chàng trai đi thuyền từ Phúc Kiến đến Saigon kiếm kế sinh nhai. Chàng trai ấy đã cùng mấy đời con cháu mình góp phần xây dựng Nam kỳ thành xứ phồn vinh. 110 năm sau đó, Việt cộng có công lớn đánh đuổi gia tộc này biến mất khỏi miền Nam để giúp bảo quản sản nghiệp cho người ta. Lịch sử của dòng họ này từ đó đến nay vẫn được Cộng quân xuyên tạc hoặc cố tình dìm vào quên lãng hòng che giấu bản chất thảo khấu của chế độ. Dù sao, dòng họ Hui-Bon-Hoa vẫn nhất định sẽ còn tồn tại và phát triển dài dài, ít nhất cũng lâu hơn bọn Cộng.
_______
[1] Sỹ tức Huyện Sỹ Lê Phát Đạt (1841-1900); Phương là Đỗ Hữu Phương (1841-1914), còn gọi Tổng đốc Phương; Xường tức Bá hộ Xường Lý Tường Quan (1842-1896).
[2] Loạt bài này là kết quả việc đối chiếu các tài liệu Pháp, Nhật, Tàu, Việt; chủ yếu là dựa vào hai bài viết của hai thành viên gia tộc Hui-Bon-Hoa là Eddie Hui-Bon-Hoa và Odette Hui-Bon-Hoa. Trình độ ngoại ngữ của người viết thiệt là như hạch, toàn phải nhờ phần mềm hỗ trợ dịch thuật; việc lượng định tính chân thực của dữ liệu lại càng nan giải khiến bài viết phải sửa chữa, cắt bỏ và đứt đoạn nhiều lần. Công việc khó nhằn này bắt đầu từ hơn 3 năm trước, cứ đứt rồi lại nối, mãi vẫn chưa hoàn thành. Vốn đã định chịu thua xếp lại cho khỏe, nhưng nếu không trình làng thì nhiều chi tiết lịch sử sẽ bị khuất lấp, nên nay post lên rỉ rả làm động lực để đi đến cùng công việc; hơn nữa biết đâu sẽ được người hiểu biết góp ý, giúp cho bài viết được hoàn chỉnh hơn.
[3] 許本華 phiên âm Hán-Việt là Huỳnh Bổn Hoa (thanh ngang không dấu), chữ Hoa (còn đọc là Huê) này chỉ đọc Hòa khi ký âm theo tiếng Quảng Đông. Năm 1960, Vương Hồng Sển ghi trong “Sài Gòn năm xưa”: “Hui Bon Hoa, tục danh Chú Hỏa, mặc dầu về sau danh vọng lớn, địa vị cao, cũng không ai gọi Ông Hỏa bao giờ. Sớm nhập tịch Pháp nên ký âm theo Pháp ngữ làm vậy rồi gọi như vậy cho đến đời đời, không rõ theo Hán tự hà danh hà tánh?” (Nxb Tự Do, Sài Gòn 1961 – Phần 7: Nhân vật Hoa Kiều hồi Tây mới qua). Rõ ràng ông Sển cũng không biết tên họ thật của Chú Hỏa, nhưng sau đó một con giáp, năm 1973, đạo diễn Lê Hoàng Hoa làm phim kinh dị “Con ma nhà họ Hứa” (“Dạ Lý Hương Films” sản xuất), cốt truyện được cho là phỏng theo giai thoại về một cô con gái của Chú Hỏa. Từ đó có thể thấy, vào lúc này, người ta đã bắt đầu lầm tưởng gia tộc Chú Hỏa thuộc họ Hứa. Và đến 2002, người viết bài này còn thấy trên tấm bảng trước cửa khu dinh thự cũ của gia tộc Hui-Bon-Hoa (được Việt cộng trưng thu làm Bảo tàng Mỹ thuật – số 97, đường Phó Đức Chính, quận Nhứt, Sài Gòn) kể lai lịch khu nhà cũng khẳng định Chú Hỏa tên thật là Hứa Bổn Hòa.
[4] Điểm sơ qua, có các giả thuyết kiêm lời đồn sau:
– Lúc mới đến Sài Gòn, Chú Hỏa làm công cho một chủ người Pháp. Nhờ siêng năng và đọc thông tính thạo nên được chủ Pháp trọng dụng. Chủ Pháp mất, đã để lại gia tài bạc vạn cho chú.
– Chú Hỏa hồi mới đến phải sống bằng nghề lạc-xoong, có lần chú mua được cái ghế nệm cũ, khi sửa lại để bán thì ông tìm thấy trong lưng ghế có túi vàng.
– Chú Hỏa mua nền nhà cũ để ở, tình cờ khi sửa nhà đào được cả hầm vàng.
– Chính quyền Pháp đấu giá thanh lý một lô máy truyền tin cũ, Chú Hỏa mua lại số hàng này và từ đống phế liệu đó… phân kim được cả đống vàng.
– Chú Hỏa mua bán đồ cổ, nhờ biết chữ Tàu nên ông thu mua được nhiều cổ ngoạn quý giá từ đời Hán, Nguyên, Thanh, nhờ đó mà phất lên.
[5] Khu bãi lầy khởi nghiệp “kinh doanh bất động sản” đó của Chú Hỏa sau này là tòa nhà Bureau du Chemin de fer của công ty Hỏa xa Đông Dương mạng phía Nam (Chemin de fer de l’Indochine, CFI, réseau du sud) nằm ở góc đường Hàm Nghi-Lê Lợi. Còn tiệm cầm đồ đầu tiên của Chú Hỏa là căn nhà nằm ở góc đường Phó Đức Chính – Nguyễn Thái Bình ngày nay.
[6] Không rõ hành trạng cũng như tác phẩm của Lý Thanh Cơ, chỉ biết ông là cháu nội Lý Quang Địa (1642-1718), đỗ tiến sĩ năm 1670 đời Khang Hy, làm quan đến Lại bộ Thượng thư, Văn Uyên các Đại học sĩ.
[7] Cổ Lãng tự 鼓浪嶼, tức Kulangsu, một hòn đảo nhỏ (diện tích chỉ 2 cây số vuông) thuộc huyện Tư Minh (nay thuộc thành phố Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến). Cuối đời Tống, đảo có tên Viên Sa châu, đời Minh đổi thành Cổ Lãng tự. Trịnh Thành Công từng dồn binh lập trại nơi đây để chiến nhau với Mãn Thanh. Thời kỳ Chiến tranh Nha phiến (1840-1842), Cổ Lãng tự bị thực dân Anh chiếm đóng. Năm 1843, theo Điều ước Nam Kinh, Cổ Lãng tự thành cảng thông thương quốc tế.
Sau chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất (1894-1895), Nhật Bản chiếm Đài Loan. E ngại Nhật sẽ lấn tới dòm ngó Hạ Môn (do vị trí Hạ Môn đối diện eo biển Đài Loan), Thanh triều quyết định tìm kiếm bảo hộ từ quốc tế, đề xuất dùng Hạ Môn làm cảng nhượng quyền cho liệt cường. Từ 1902, Cổ Lãng tự của Hạ Môn thành tô giới công cộng, lần lượt có 13 cường quốc đặt lãnh sự quán tại đây, cùng với đó là lượng người nước ngoài tụ về đông đúc.
[8] L’Information d’Indochine, économique et financières, 1934.
[9] Huỳnh Văn Hoa đặt tên cho các con lấy chữ Trọng làm chữ lót, tên đều theo bộ Ngôn 言: Trọng Mô 仲謨, Trọng Huấn 仲訓, Trọng Tán 仲讚, Trọng Bình 仲評…
[10] Đây cũng là tòa đẹp nhất trong bốn dinh thự, hiện còn chiếc thang máy đầu tiên của Saigon (bằng gỗ), nay vẫn còn vận hành được. Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton khi viếng thăm Sài Gòn năm 2000 đã dùng đây làm nơi tiếp khách.
[11] Hàng chữ Khánh được đặt tên theo bộ Mộc 木.
[12] Mô Kim hiệu úy: tương truyền đời Tam quốc, Tào Tháo thành lập một đội quân đặc biệt chuyên khai quật các lăng mộ đế vương, chỉ huy đội quân này được phong chức Mô Kim hiệu úy (quan hiệu úy mò vàng). Danh từ này sau đó được người Tàu dùng để gọi bọn trộm mộ.
[13] Cũng trong Huỳnh gia mộ viên, cách 8 ngôi mộ của nhà Hui-Bon-Hoa gần 100m về phía Tây Bắc là 5 ngôi mộ khác cũng họ Huỳnh. Chỗ khác nhau là trên đầu các bia mộ thuộc gia tộc Chú Hỏa khắc hai chữ Vinh Viễn 榮遠 (gọi tắt Huỳnh Vinh Viễn đường, tên Tàu của Công ty địa ốc Hui-Bon-Hoa). Còn trên đầu bia các mộ này là hai chữ Tử Vân 紫雲.
Họ Huỳnh 黃 (ngoài Bắc đọc là Hoàng), vốn là một họ lớn, được xếp hàng thứ 7 bên Tàu. Riêng ở Tuyền Châu, Phúc Kiến, có 10 họ lớn xếp theo thứ tự là: Trần, Lâm, Huỳnh, Vương, Lý, Trương, Ngô, Lưu, Dương, Hứa; họ Huỳnh đứng hàng thứ ba, mệnh danh “Thám hoa” (Trạng nguyên Trần, Bảng nhãn Lâm, Thám hoa Huỳnh).
Ông tổ họ Huỳnh ở Tuyền Châu là Huỳnh Thủ Cung (629-712), một cự phú đời Đường. Năm 686, Cung xây Liên Hoa tự (nay là Khai Nguyên tự, di tích văn hóa cấp quốc gia của đại lục). Tương truyền chùa này quanh năm có mây tía bao phủ nên còn gọi Tử Vân tự. Con cháu Huỳnh Thủ Cung từ đó tự xưng chi mình là Tử Vân Huỳnh.
Trải hơn ngàn năm, Tử Vân thành một nhánh lớn mạnh của họ Huỳnh, với nhiều tên tuổi lớn: đời Bắc Tống có thư pháp gia Huỳnh Đình Kiên, Nam Tống có tư tưởng gia Huỳnh Chấn, đời Thanh có Huỳnh Tông Hy, Huỳnh Thận, Huỳnh Tuân Hiến, v.v… Cuối Minh đầu Thanh, có rất đông người thuộc Tử Vân Huỳnh thiên di sang Annam.
Sự hiện diện của các ngôi mộ thuộc Tử Vân trong khuôn viên mộ địa của nhà Vinh Viễn cho thấy: gốc gác gia tộc Hui-Bon-Hoa có mối liên hệ mật thiết với Tử Vân về huyết thống. Nhánh Huỳnh Tử Vân cũng dựa vào bài Phả tự thi của họ nhà mình có chữ Trọng:
仲淑季禮則 Trọng thục quý lễ tắc
奕世種書田 Dịch thế chủng thư điền
文章昭國瑞 Văn chương chiêu quốc thụy
忠孝本家傳 Trung hiếu bổn gia truyền
để nhận ba anh em Trọng Huấn, Trọng Tán, Trọng Bình là người thuộc dòng họ mình. Nhưng ngoài mỗi chữ Trọng làm tên đệm trong bài thơ này thì không có thêm được chứng cớ khác. Tra các gia phả nhánh Tử Vân cũng không hề thấy tên Huỳnh Văn Hoa và các con.
Mối liên hệ giữa nhánh Tử Vân và Vinh Viễn là có thật; bằng không, các ngôi mộ của nhà Tử Vân đã không thể chen vào đây. Tôi phân vân không thể chứng minh cụ thể mối liên hệ ấy, mà bỏ qua thì tiếc, xin ghi lại vào chú thích này để tồn nghi.
[14] Có thể đọc thêm về chính sách này ở đây.
[15] Một so sánh để dễ hình dung: cùng thời điểm đó, vào khoảnh khắc tồn tại cuối cùng của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, trong Ngân hàng Quốc gia Việt Nam có ngân khoản dự trữ là 16 tấn vàng là (mà Cộng sau đó vu cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mang theo chạy ra nước ngoài). Số vàng này gồm 1.234 thỏi, nặng khoảng 16 tấn, trị giá 71,658 triệu Mỹ kim. Tính ra, tài sản của gia tộc Hui-Bon-Hoa gần bằng 1/2 dự trữ ngân khố quốc gia.
No comments:
Post a Comment