2/10/23

Cáo Phó


Được tin Cụ Bà Nguyễn thị Sinh, hiền mẫu của Thanh Đan và nhạc mẫu của Nguyễn đức Trọng vừa mới thanh thản ra đi, thọ 101 tuổi. 
Xin chân thành phân ưu cùng Tang Quyến và hai bạn Trọng-Đan.
Nguyện hợp lòng trọng kính tiễn đưa Hương Linh Cụ về cõi NIẾT BÀN.

Vợ chồng Phan Thạnh


ĐÔI LỜI TIỄN BIỆT

Cụ Bà trả "Ảo" cho đời,
Trả "HƯ" dương thế về nơi vĩnh hằng.
Đường trần trải qúa trăm năm,
Thảnh thơi buông bỏ...Mãn phần quy tiên.
Từ nay trong cõi bình yên,
Chẳng còn vướng bận muộn phiền thế gian.
"THÂN tục lụy, Ý Niết Bàn"
Từ lâu CỤ đã thành toàn kiếp tu.
Nhưng chưa cỡi hạc vân du,
Vì thương con trẻ, chần chừ chia xa ?
Biết rằng : "măng mọc...tre già"
Nhưng tấm lòng MẸ bao la biển trời.
Bây giờ CỤ đã đi rồi,
Nén hương tưởng kính chung lời tiếc thương.
Kiếp người như khói, như sương,
Dẫu trăm năm cũng...tựa dường mây bay.
Đến tay trắng, đi trắng tay,
Gia tài  để lại  đời nầy : "Diệu Tâm"
Thành toàn điều ước nguyện thầm,
Thảnh thơi về chốn vĩnh hằng thiên thu,
ĐÔI HÀNG TRỌNG KÍNH TIỄN ĐƯA !

HÀN SĨ PHAN

2/6/23

Cảm Nhận Về Loài Bướm


Cám ơn anh K. chia sẻ những "cánh bướm"sặc sỡ muôn sắc màu. Trong lúc thưởng thức cái vẻ đẹp rực rỡ của con bướm, tôi liên tưởng một câu chuyện của loài côn trùng nho nhỏ, tuy tầm thường nhưng không hề quên lãng trong ký ức của tôi từ thời thơ ấu…

* Bấm vào Link: cánh bướm để xem Video.

Cảm Nhận Về Loài Bướm

Tạo hóa sáng tạo vạn vật đều tận tâm tận lực, bên cạnh vẻ đẹp của con người cũng còn vô số những vẻ đẹp khác của thế giới tự nhiên, từ hùng vĩ lớn lao cho đến vi tế nhỏ bé. Nếu như sư tử có hình dáng dũng mãnh mạnh mẽ, thì loài côn trùng lại có dáng dấp nhỏ bé mong manh.

Nhìn những đợt sóng nghĩ tới nước, thấy hạt châu nghĩ tới con trai, ngắm bông nghĩ tới búp hoa, nhìn đàn bướm hoa lệ bay lượn khiến tôi liên tưởng đến sự thai nghén từ loài sâu róm xấu xí.

Nếu như chúng ta khen ngợi sự đoàn kết, kiên trì, chăm chỉ của loài kiến, chúng ta cũng không nên bỏ sót một vài côn trùng nho nhỏ, mong manh khác, rất đáng để chúng ta học hỏi – loài Bướm. Nên gọi là sâu bướm thì chính xác hơn, như thế mới thể hiện được phần nào kỳ tích của những chú sâu xấu xí, lại là tiền thân của những cánh bướm sặc sỡ muôn sắc màu.

Hồi nhỏ tại Việt Nam, một hôm tôi chợt thấy một cái kén treo lơ lửng phía dưới một chiếc lá, mấy ngày sau tôi thấy một sinh vật nhỏ đang cố gắng thoát ra từ cái kén bó buộc chật chội. Gợi trí tò mò tôi đến gần quan sát, thì ra là một nàng bướm nhỏ đang rán sức để thoát ra từ cái kén tù túng. Với thân hình yếu đuối nhem nhuốc, nàng bướm nhỏ cố gắng nhiều lần vẫn không chui ra được. Tôi thấy thương hại đến giúp bóc bỏ tổ kén, con bướm quằn quại, giãy giụa một hồi, cố lấy hết sức tàn hơi vẫy cánh muốn bay, nhưng vô vọng, rồi rơi từ trên cao xuống đất, cử động chậm dần, chậm dần rồi dừng hẳn. Tôi tội nghiệp cho con bướm xấu số. Về sau, nhờ kiến thức sinh vật học, tôi mới hiểu là mình đã vô tình đánh mất một sinh vật.

Sâu bướm phải trải qua nhiều lần lột xác để biến hóa hình thái từ ấu trùng thành nhộng, từ nhộng thành bướm. Khi cơ thể con nhộng tự nhận thấy quá khó khăn để chui ra ngoài, lúc này sẽ tiết ra một chất nhờn để giúp chúng dễ dàng thoát ra khỏi cái kén, đồng thời bướm sẽ tự động bơm một hoạt chất dưỡng tố vào cánh để đôi cánh được khỏe hơn, cứng cáp hơn, một khi cánh được mở tung hoàn toàn thì bướm sẽ vẫy vùng tung tăng giữa bầu trời. Vậy nên việc giúp bướm thoát ra khỏi kén cũng tương tự như việc bẻ gãy đôi cánh mơ ước và kết thúc đời sống của chúng.

Và mẹ thiên nhiên cũng ân ban như thế cho con người. Nếu chúng ta có ước mơ, muốn trưởng thành, phải cố gắng lột bỏ những thói hư tật xấu, tư tưởng ích kỷ sai lầm, như sâu bướm phải lột xác nhiều lần trong quá trình sinh hóa biến đổi.

Con nhộng trong kén phải nhịn ăn trong suốt nhiều ngày, chưa kể thời gian sâu non phải tự "lột xác" vài lần mới có thể lớn lên được.

Con người cũng phải tự cố gắng vượt qua những gian truân, những thử thách trong cuộc sống.

“Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”(玉不琢 不成器, 人不學 不知理), viên ngọc toàn bích cũng phải trải qua nhiều lần mài giũa trau chuốt mới thành viên ngọc quý, con người không qua trường lớp đào tạo, không bị nghịch cảnh trui rèn thì làm sao trưởng thành tiến bộ được.

Khổ khiến ta trưởng thành, khổ rèn luyện mài giũa chúng ta thành con người có giá trị, và đó cũng chính là bài học quý báu, đáng suy ngẫm mà loài bướm dạy cho chúng ta.

"Loạng choạng bước chân hôm nay
Ngày mai hóa bướm tung bay khắp trời
Sống sao nhân nghĩa hợp thời
Người người hoan lạc cuộc đời an vui"

Trường
11-20-2021
(bài đăng lại)

2/5/23

Khám phá mỏ đất hiếm lớn của châu Âu được coi là 'người thay đổi cuộc chơi' nhằm giải quyết sự thống trị của Trung Quốc

Kandy Wong ngày 29.01.2023 SCMP

- Châu Âu gần như phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc đối với các khoáng sản quan trọng trong nhiều năm, nhưng một mỏ khoáng sản hàng triệu tấn mới được khai thác ở Thụy Điển có thể giúp giảm bớt sự phụ thuộc đó;
- Sự khám phá mới xuất hiện khi Liên minh châu Âu đang tìm cách rời xa Trung Quốc bằng cách cải tổ lại chuỗi giá trị, nhưng tác động môi trường vẫn còn lớn.

Một mỏ oxit đất hiếm khổng lồ đã được phát hiện gần mỏ sắt này thuộc sở hữu của công ty Thụy Điển LKAB. Ảnh: AFP

Việc phát hiện ra mỏ oxit đất hiếm được biết đến lớn nhất châu Âu trong tháng này - ước tính hơn 1 triệu tấn - ở vùng cực bắc của Thụy Điển đã làm dấy lên hy vọng giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc đối với các nguyên liệu thô quan trọng.

Theo Alicia Garcia-Herrero, nhà kinh tế trưởng khu vực châu Á-Thái Bình Dương tại Natixis, Trung Quốc chiếm 60% lượng đất hiếm được khai thác trên thế giới và sự thống trị thị trường của nước này “quan trọng nhất” là về nhà máy lọc dầu. Ví dụ, Trung Quốc nắm giữ 90% công suất chế biến khoáng sản đối với coban, lithium và niken.

“Vì vậy, [Liên minh Châu Âu] cần hạ thấp các tiêu chuẩn môi trường đối với nhà máy lọc dầu hoặc tìm những nơi khác để lọc dầu,” bà nói thêm.

Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới trong tháng này, bà Ursula von der Leyen, chủ tịch Ủy ban Châu Âu, đã kêu gọi tạo sân chơi bình đẳng bằng cách “giảm thiểu rủi ro, thay vì tách rời ” khỏi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Thừa nhận rằng châu Âu phụ thuộc “98%” vào Trung Quốc đối với các khoáng sản quan trọng trong quá trình chuyển đổi năng lượng sạch, bà cũng nhấn mạnh sự khác biệt của Liên minh châu Âu với cách tiếp cận của Hoa Kỳ về thương mại với Trung Quốc.

Đất hiếm dùng để làm gì?

Francoise Nicolas, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Châu Á của Viện Quan hệ Quốc tế Pháp, giải thích đất hiếm là khoáng chất “thiết yếu” để sản xuất ô tô điện và tua-bin gió, và Liên minh Châu Âu vẫn phụ thuộc nhiều vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.

Ngoài các ứng dụng của nó trong phát triển năng lượng sạch, đất hiếm còn chứa các nguyên tố quan trọng được sử dụng trong thiết bị quốc phòng.

Một ấn phẩm vận động quân sự của Hoa Kỳ, Tạp chí Lực lượng Hàng không & Không gian, lưu ý cách các nguyên tố đất hiếm được sử dụng rộng rãi trong nam châm để dẫn đường cho tên lửa; động cơ ổ đĩa được lắp đặt trong máy bay và xe tăng; thông tin liên lạc vệ tinh và hệ thống radar.
Ấn phẩm cho biết: “Những yếu tố này từng đến từ Hoa Kỳ. “Từ những năm 1960 đến những năm 1980, Mỹ là quốc gia dẫn đầu thế giới về khai thác và sản xuất đất hiếm. Điều này không còn là trường hợp nữa."

Xem Video:

 

Tại sao khoáng sản đất hiếm rất quan trọng?

Cơ quan Năng lượng Quốc tế dự đoán rằng họ sẽ cần lượng khoáng sản đầu vào nhiều hơn gấp sáu lần vào năm 2040, so với hiện nay, khi các quốc gia chạy đua để đạt được mục tiêu không phát thải ròng vào năm 2050.

Patrik Andersson, một nhà phân tích tại Trung tâm Trung Quốc Quốc gia Thụy Điển, lưu ý rằng việc khai thác khoáng sản đất hiếm chỉ là bước đầu tiên trong chuỗi cung ứng.

Ông giải thích: “Các khoáng chất được khai thác tại mỏ phải được xử lý thành các vật liệu và sản phẩm tiên tiến, chất lượng cao mà ngành sản xuất châu Âu yêu cầu. Đối với Thụy Điển và các nước châu Âu khác, nút cổ chai chính không nằm ở thượng nguồn mà là ở khu khai thác. Đó là hạ nguồn, tại quá trình xử lý và sản xuất hàng hóa có chứa các nguyên tố đất hiếm.”

Những vật liệu và sản phẩm này – cần thiết cho “quá trình chuyển đổi xanh” của châu Âu – là những gì mà EU cho là “quan trọng”, ông nói thêm rằng “sự thống trị của Trung Quốc càng trở nên lớn hơn khi bạn càng đi sâu vào chuỗi cung ứng”. Ông cũng lưu ý cách nam châm đất hiếm thường được sử dụng trong động cơ xe điện, tua-bin gió và ổ cứng máy tính.

Trữ lượng khoáng sản khổng lồ mới có thể làm giảm sự phụ thuộc của châu Âu vào đất hiếm từ Trung Quốc không?

Nicolas tại Viện Quan hệ Quốc tế của Pháp cho biết việc phát hiện ra một trữ lượng đất hiếm khổng lồ như vậy ở châu Âu “có thể trở thành một yếu tố thay đổi cuộc chơi” vì nó có thể giúp EU giảm bớt sự phụ thuộc vào hàng nhập khẩu của Trung Quốc.

“Điều đáng nhấn mạnh ở đây là vấn đề không phải là tách khỏi Trung Quốc, mà chỉ đơn giản là giảm thiểu những gì được coi là tình trạng phụ thuộc quá mức và là nguồn gốc của sự tổn thương,” bà nói.

Đồng tình với Nicholas, Garcia-Herrero của Natixis nói rằng “đây không phải là tách rời, mà là đa dạng hóa thành công”, vì Liên minh châu Âu đã giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc bằng cách cải tổ lại các bộ phận trong chuỗi giá trị của mình.

Tuy nhiên, quan điểm của Andersson là có “ý chí chính trị rõ ràng” ở châu Âu đối với việc tách một phần hoặc có chọn lọc khỏi Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ.

“EU muốn duy trì quan hệ thương mại mạnh mẽ và lành mạnh với Trung Quốc, nhưng họ cũng lo ngại về rủi ro phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ Trung Quốc trong một số lĩnh vực, cũng như về việc thiếu đi có lại trong thực tiễn thương mại và đầu tư,” ông nói thêm. .

Nhưng như Nicholas đã chỉ ra, phải mất ít nhất 10 đến 15 năm trước khi đất hiếm được khai thác ở Thụy Điển tung ra thị trường.

Bà giải thích: “Việc thăm dò địa điểm sẽ không bắt đầu trong nhiều năm, ngay cả khi giấy phép được cấp rất nhanh. “Hơn nữa, toàn bộ dự án có khả năng phải đối mặt với sự phản đối do tác động có hại cho môi trường và xã hội của nó.

‘Chế độ nô lệ hiện đại’ tại Congo chạy điện cho nền kinh tế pin có-thể-sạc-lại như thế nào

‘Chế độ nô lệ hiện đại’ tại Congo chạy điện cho nền kinh tế pin có-thể-sạc-lại như thế nào

February 1, 202312:38 PM ET

Dịch và bổ sung cước chú: Phạm Văn Bân Fàn Wénbīn,范文彬- February 04, 2023

Dẫn nhập của người dịch:

Cobalt là chất kim loại có rất nhiều công dụng nhưng nổi bật nhất là ứng dụng làm pin có-thể-sạc lại cho smartphone, máy điện toán và xe ô-tô chạy bằng điện.

Theo Wikipedia, tên gọi Cobalt (cobalt) phát xuất xứ từ tiếng Đức kobalt hoặc kobold, nghĩa là linh hồn của quỷ dữ. Tên này do những người thợ mỏ đặt ra vì nó mang tính độc hại, gây ô nhiễm môi trường, và làm giảm giá trị những kim loại khác, như nickel. Những nguồn khác thì lại cho rằng tên gọi phát sinh từ những người thợ mỏ bạc vì họ tin rằng cobalt được đặt ra bởi kobolds là những người đã từng đánh cắp bạc. Một vài nguồn khác cho rằng tên gọi có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp kobalos, nghĩa là ‘mỏ,’ và có thể có nguồn gốc chung với kobold, goblin, và cobalt.

Georg Brandt (1694-1768) là khoa học gia đã chứng minh rằng Cobalt là nguồn gốc tạo ra màu xanh dương trong thủy tinh. Đúng ra, Cobalt đã được biết đến từ thời xưa thông qua những hợp chất để làm cho thủy tinh và gốm sứ có màu xanh dương đậm. Cobalt đã được khám phá trong tác phẩm điêu khắc Ai-cập, đồ trang sức Ba-tư từ thiên niên kỷ thứ ba B.C., trong tàn tích của Pompeii, bị phá hủy vào năm A.D. 79 và tại Trung quốc, có niên đại từ triều đại nhà Đường (618–907) và triều đại nhà Minh (1368–1644).

Cộng hòa Dân chủ Congo/Democratic Republic of Congo (DRC) là nước sản xuất và có trữ lượng nhiều nhất; tất cả nước khác trên toàn thế giới cộng lại vẫn không bằng DRC. Theo U.S. Geological Survey, dưới đây là thống kê sản lượng Cobalt trên thế giới vào năm 2017:

https://www.usgs.gov/centers/national-minerals-information-center/cobalt-statistics-and-information
Một người đào mỏ thủ công mang một bao quặng tại mỏ thủ công Shabara gần Kolwezi, DRC,  vào ngày Oct. 12, 2022.


Điện thoại thông minh, máy điện toán và xe ô-tô điện có lẽ là biểu tượng của thế giới hiện đại, nhưng Siddharth Kara nói rằng pin có-thể-sạc-lại của chúng thường được chạy điện bởi cobalt được đào lên bởi công nhân lao động trong điều kiện giống-như-nô-lệ tại Cộng hòa Dân chủ Congo/Democratic Republic of Congo (DRC).

Kara, một người của Harvard’s T.H. Chan School of Public Health và của Kennedy School, đã nghiên cứu về chế độ nô lệ hiện đại, nạn buôn người và lao-động-trẻ-em trong hai thập niên. Ông nói rằng mặc dù DRC có trữ lượng Cobalt nhiều hơn tất cả phần còn lại của thế giới cộng lại, nhưng không có thứ gọi là chuỗi cung ứng Cobalt “sạch”/“clean” supply chain of cobalt từ quốc gia này. Trong cuốn sách mới của ông, Cobalt Red/Cobalt Đỏ Cobalt, Kara viết rằng phần lớn Cobalt của DRC đang được đào lên bởi những người được gọi là thợ mỏ “thủ công” - tức là những người lao động tự do làm công việc cực kỳ nguy hiểm chỉ với số tiền tương đương vài đô-la một ngày.

Cobalt Red là một loại khoáng chất thứ cấp màu đỏ, CO3(AsO4)2·8H2O, được dùng để tạo màu cho thủy tinh, và tất nhiên cho nhiều thứ khác như bài phỏng vấn đã đăng.

Kara nói: “Bạn phải tưởng tượng đi lòng vòng quanh một số khu vực đào mỏ này và quay đồng hồ của chúng ta ngược về hàng thế kỷ.” Người ta đang làm việc trong những điều kiện dưới-phẩm chất-con-người, bị áp bức, và hạ nhục/subhuman, grinding, degrading conditions. Họ dùng cuốc, xẻng, thanh thép để chặt và đào đất trong các rãnh và hố và đường hầm để thu nhặt Cobalt và cung cấp cho chuỗi cung ứng chính thức.”

Kara nói ngành kỹ nghệ khai thác mỏ đã tàn phá quang cảnh của DRC. Hàng triệu cây cối đã bị đốn xuống, không khí xung quanh mỏ bị mù mịt với bụi và đá sỏi, và nước bị ô nhiễm bởi các chất thải độc hại từ diễn trình khai thác mỏ. Hơn nữa, ông nói, "Cobalt rất độc hại nếu chạm vào và hít thở - và có hàng trăm nghìn người dân Congo nghèo khổ chạm vào và hít thở Cobalt ngày này qua ngày khác. Những bà mẹ trẻ đèo con trên lưng, tất cả đều hít thở loại bụi Cobalt độc hại này.”

Cobalt được dùng trong việc sản xuất hầu hết loại pin lithium ion có-thể-sạc-lại được dùng trên thế giới hiện nay. Và trong khi người bên ngoài DRC phân biệt giữa Cobalt được khai thác bởi các công ty khai thác kỹ nghệ có kỹ thuật cao của DRC và Cobalt được đào bởi những thợ mỏ thủ công, Kara nói rằng cả hai về căn bản chồng chéo lẫn nhau.

Ông nói: “Có sự nhiễm-độc-chéo hoàn toàn giữa Cobalt có nguồn gốc từ máy đào kỹ nghệ và Cobalt do phụ nữ và trẻ em đào bằng tay không. Hầu hết các mỏ kỹ nghệ đều có những thợ mỏ thủ công công làm việc, đào trong và xung quanh mỏ, đưa Cobalt vào chuỗi cung ứng chính thức.”

Kara thừa nhận vai trò quan trọng của Cobalt trong các thiết bị kỹ thuật và trong diễn trình chuyển đổi qua các nguồn năng lượng bền vững. Thay vì từ bỏ hoàn toàn Cobalt, ông nói rằng người ta nên tập trung vào việc chấn chỉnh chuỗi cung ứng.

Ông nói: “Chúng ta không nên chuyển sang dùng xe ô-tô điện với cái giá phải trả là con người và môi trường của một trong những nơi nghèo khổ và bị áp bức nhất trên thế giới. Kết cuộc của chuỗi cung ứng, nơi hầu hết tất cả Cobalt trên thế giới xuất phát từ đó, là một màn trình diễn kinh hoàng.”

Khoảng 20,000 người làm việc tại mỏ thủ công Shabara ở DRC, theo ca 5,000 người trong suốt  ca mà không gián đoạn.1 DRC đã sản xuất khoảng 74% Cobalt của thế giới vào năm 2021. 

Junior Kannah /AFP via Getty Images









Các điểm nổi bật của cuộc phỏng vấn:

Về cách các mỏ Cobalt “thủ công” tiếp tục hoạt động tại DRC - mặc dù là bất hợp pháp

Về mặt kỹ thuật, theo luật, không được tiến hành khai thác mỏ theo cách thủ công tại bất cứ mỏ kỹ nghệ nào. Tuy nhiên, lạ thay, 2 tại hầu hết mỏ kỹ nghệ, có một số hoạt động khai thác mỏ theo "at a time": trong suốt một thời gian mà không dừng hoặc gián đoạn: cách thủ công đang tiến hành. Trong một số trường hợp, chủ yếu lại là khai thác theo cách thủ công. Và lý do chính là cách trả lương bằng tiền-mặt-tối-thiểu để thúc đẩy sản xuất. Ý tôi là, hãy  tưởng tượng bạn đang ở một nơi trên thế giới, nơi có hàng triệu người hầu như không kiếm được  một hoặc hai đô-la mỗi ngày, những người nghèo khổ do bị áp bức và sẽ chấp nhận hầu hết mọi  sự sắp đặt lao động chỉ để sống còn. Vậy, bạn tống họ vào một cái hố chật hẹp, nhồi nhét họ cùng  với 10,000 người khác và trả cho họ vài đô-la, và họ sẽ sản xuất hàng nghìn tấn Cobalt mỗi năm  mà gần như không trả tiền lương. Và vì vậy điều đó không hợp pháp, nhưng đang xảy ra.

Về lý do tại sao những điều kiện này ngang bằng với chế độ nô lệ 


Hãy tưởng tượng toàn thể dân chúng không thể sống sót nếu không sục sạo trong điều kiện nguy hiểm để kiếm một hoặc hai đô-la mỗi ngày. Không có cách nào khác ở đó. Các mỏ đã khống chế tất cả mọi chuyện. Hàng trăm nghìn người đã phải tản cư bởi vì làng xã của họ đơn giản bị bị san phẳng để nhường chỗ cho các khu khai thác mỏ rộng lớn. Vì vậy, bạn có những người không có cách nào khác, không có nguồn thu lợi tức nào khác, không có kế sinh nhai. Bây giờ, hãy thêm vào đó là mối đe dọa trong nhiều trường hợp lực lượng vũ trang áp lực người ta đào bới, cha mẹ phải quyết định đau đớn, ‘Tôi cho con đi học hay chúng tôi phải ăn hôm nay?’ Và nếu họ chọn cái ăn, điều đó có nghĩa là mang tất cả con cái của họ vào những cái hố độc hại này để đào bới chỉ để kiếm thêm 50 xu hoặc một đô-la mỗi ngày, điều đó có thể có nghĩa là có sự khác biệt giữa việc ăn hay không. Vì vậy, trong thế kỷ 21st, đây là chế độ nô lệ hiện đại. Đó không phải là chế độ sở hữu nô lệ 5 từ thế kỷ 18th, nghĩa là bạn có thể mua bán con người và có quyền sở hữu đối với một người như là tài sản. Nhưng mức độ hạ nhục, mức độ bóc lột là ngang bằng với chế độ nô lệ của thế giới thời xưa.
Một thợ mỏ thủ công cầm một viên đá Cobalt tại mỏ thủ công Shabara ở DRC.
Junior Kahhah/AFP via Getty Images

Về nguy hiểm sập hầm mỏ thủ công





























Tôi đã nói chuyện với nhiều gia đình có con cái, chồng, vợ đã gánh chịu các thương tật khủng khiếp. Thông thường, khi đào bới ở những hố lộ thiên lớn hơn này thì vách tường của hố sẽ bị sập. Hãy tưởng tượng một núi sỏi đá cứ thế lở xuống đè lên con người, dập nát chân tay, xương sống. Tôi đã gặp những người bị cắt cụt chân, những người mang thanh kim loại ở nơi từng là chân của họ. Và điều tồi tệ nhất là những gì xảy ra trong diễn trình đào trong đường hầm. Có lẽ có khoảng từ 10,000 đến 15,000 đường hầm được đào bằng tay bởi thợ mỏ thủ công. Không có đường hầm nào có giá đỡ, trục thông gió, chốt đá, hay bất cứ thứ gì tương tự. Và những đường hầm này luôn luôn sập xuống, chôn sống tất cả người ở dưới đó, kể cả trẻ em. Đó là một cái chết khủng khiếp gần như không thể tưởng tượng được. Vậy mà tôi đã gặp những bà mẹ đấm ngực trong đau đớn, kể về những đứa con của họ đã bị chôn sống trong một vụ sập hầm. Và những câu chuyện này không bao giờ lộ ra khỏi Congo. Người ta đơn giản là không biết những gì đang xảy ra dưới đó.

Về việc buôn bán trẻ em để làm việc trong mỏ

Cobalt Đỏ’ mô tả ‘màn trình diễn kinh hoàng’ về khai thác nguyên tố Cobalt tại DRC

Máu của dân Congo cung cấp điện cho đời sống chúng ta như thế nào

Cần phải làm ra tiền ở mọi ngóc ngách và mọi chiều hướng. Và bạn có những lực lượng dân quân này. Đôi khi chúng được gọi là biệt kích và chúng sẽ bắt cóc trẻ em, buôn bán trẻ em, tuyển dụng trẻ em từ các vùng khác của Congo. Tôi đã gặp những đứa trẻ đến từ xa hàng trăm dặm và đã được đưa qua các mạng lưới dân quân xuống đến các mỏ Cobalt đồng để đào bới. Và khi chúng đào và kiếm được một hoặc hai đô-la thì đó là nguồn tiền tài trợ cho các nhóm dân quân này. Vì vậy, trẻ em là đối tượng bị bóc lột nặng nề nhất trong tất cả những người ở dưới mỏ. Họ là những người dễ bị hại nhất và thường bị buôn bán và bóc lột trong một số trường hợp trong những hoàn cảnh rất bạo lực.

Tham nhũng của chính phủ khiến ngăn chặn thay đổi

Tham nhũng là một phần lớn của vấn đề. Đó là những gì giúp rất nhiều cho sự lạm dụng này được dai dẳng. Và vấn đề là, hãy tưởng tượng đến Congo. Đó là một quốc gia bị chiến tranh tàn phá, nghèo khổ đến tận cùng, gánh chịu nhiều thế hệ bị cướp bóc và lùng sục để cướp từ hàng thế kỷ trước, đến nay là nạn buôn bán nô lệ. Và vì vậy, khi các kinh doanh lớn ngoại quốc vung vẩy những khoản tiền lớn thì không cần phải tưởng tượng quá lâu để thấy rằng sẽ có tham nhũng ...Tổng Thống được bầu cử dân chủ đầu tiên của Congo [vào năm 1960], Patrice Lumumba, cam kết rằng nguồn tài nguyên và khoáng sản vô cùng phong phú của đất nước sẽ được dùng cho ích lợi ích của dân chúng sống ở đó. Và trong một thời gian ngắn, trong vòng sáu tháng, ông bị truất phế, bị ám sát, bị chặt thành từng mảnh, bị hòa tan trong acid và bị thay thế bằng một tay độc tài đẫm máu, một tay độc tài tham nhũng, và là tay sẽ giữ cho khoáng sản tuôn chảy đúng hướng. Vì vậy, nếu bạn không làm theo ý 6 của những người môi giới quyền lực ở đầu não và của Miền Bắc Bán cầu/Global North, 7 thì Patrice Lumumba đã cho thấy kết quả như thế nào, điều gì sẽ xảy ra. Và tôi nghĩ đó cũng là một phần của bài học này mà chúng ta cần hiểu về mặt lịch sử, khi chúng ta nói về những thứ như tham nhũng.

Làm thế nào mà Trung quốc sở hữu hầu hết các mỏ kỹ nghệ tại Congo

Trung quốc đã chiếm độc quyền 8 thị trường Cobalt toàn cầu trước khi bất cứ ai biết chuyện gì đang xảy ra. Chuyện này quay trở lại năm 2009 dưới thời tổng thống trước đó tại Congo, JosephKabila. Ông ấy ký một thỏa thuận nhượng quyền khai thác mỏ cho chính phủ Trung quốc để đổi lấy sự hỗ trợ phát triển, cam kết xây dựng đường sá và một số phòng khám y tế công cộng, trường học, bệnh viện, những thứ tương tự như vậy - và điều đó đã mở ra cánh cửa. Trước khi bất cứ ai biết chuyện gì đã xảy ra, các công ty Trung quốc đã nắm quyền sở hữu 15 trong số 19 nhượng quyền khai thác đồng-Cobalt kỹ nghệ chính yếu tại Congo. Vì vậy, họ khống chế việc đào mỏ trên mặt đất. Và không chỉ vậy, họ khống chế chuỗi cun gứng đến tận mức pin. Họ có khoảng 70, 80% thị trường Cobalt tinh chế và có thể là một nửa thị trường pin.



Cuốn sách trước đây của Siddharth Kara Buôn bán tình dục: Bên trong sự kinh doanh nô lệ hiện đại, đã được Giải thưởng sách Frederick Doulass năm 2010, được thưởng cho cuốn sách hay nhất viết bằng tiếng Anh về chế độ nô lệ hoặc bãi bỏ (tập quán nô lệ).

Về việc chứng kiến đau khổ và chấn thương

Có một số sự kiện để lại ấn tượng mãi mãi trong tôi đến nỗi chúng chúng sẽ ập đến với tôi như một nỗi kinh hoàng, và điều đó thật là khó khăn. Tôi chỉ hy vọng tôi đã mô tả chính xác cho các câu chuyện đó và cho những người đã chia sẻ bi kịch của họ với tôi, chia sẻ những bi kịch đó một cách can đảm với tôi. Tôi chỉ muốn tiếng nói của họ [vang] đến thế giới và sau đó thế giới sẽ quyết định phải làm gì với sự thật và lời chứng của dân chúng Congo. Nhưng nếu tôi đã mô tả chính xác một số chuyện để mang tiếng nói đó vào trong một thế giới có thể rất khó hoạt động được nếu không có sự chịu đựng đau khổ của dân chúng Congo, thì tất cả đều xứng đáng. Ngay cả các cơn ác mộng và nỗi kinh hoàng, tất cả đều xứng đáng.


Sam Briger và Joel Wolfram thực hiên và biên tập cuộc phỏng vấn này để phát hành. Bridget Bentz, Molly Seavy-Nesper và Gisele Grayson điều chỉnh cho phù hợp với web.



Bản gốc tiếng Anh:

2/4/23

Bộ lọc tóc được cho là để làm sạch biển: Thợ làm tóc Pháp muốn ngăn chặn ô nhiễm

Hàng tỷ búi tóc được cắt mỗi ngày tại các tiệm làm tóc trên khắp thế giới. Dài và ngắn, xoăn và thẳng, sáng và tối. Một số trong số chúng, những cái đặc biệt dài, được giữ lại, làm thành tóc giả, và nếu may mắn, nó sẽ đội lên đầu người khác . Nhưng phần lớn trong số đó rơi xuống đất, bị cuốn lên một cách bất cẩn và cuối cùng bị bỏ vào thùng rác. Một số người thậm chí còn ghê tởm khi tóc của họ bị cắt hoặc rụng.

Tóc có thể làm được nhiều hơn thế: Nếu được tái chế, nó có thể được sử dụng làm vật liệu cách nhiệt trong xây dựng nhà ở hoặc có thể hấp thụ chất lỏng.

Một người biết điều này là Thierry Gras đến từ Brignoles ở miền nam nước Pháp. Gras đã là một nhà tạo mẫu tóc hơn 30 năm và đã quen thuộc với các đặc tính đa dạng của tóc mà ông cắt từ đầu của khách hàng mỗi ngày. Anh ấy càng ngạc nhiên hơn khi phát hiện ra rằng tóc vẫn chưa được tái sử dụng ở bất cứ đâu - không phải ở Pháp hay phần còn lại của châu Âu.

Vì vậy, Gras bắt đầu tự nghiên cứu, mày mò và cuối cùng phát triển các bộ lọc đặc biệt từ tóc cắt của khách hàng, được cho là có thể làm sạch nước biển. Bởi vì một cân tóc có thể hấp thụ tám cân dầu từ biển. Kem chống nắng phảng phất trên bề mặt đó, hoặc xăng dầu bị mất do tàu hoặc nhà máy.

Bộ lọc tóc đầu tiên được thử nghiệm tại cảng Cavalaire-sur-Mer.

Làm thế nào nó hoạt động? Trong các xưởng dành cho người khuyết tật, tóc được xử lý thành một loại tóc cuộn cùng với tất nylon cũ, sau đó được thả xuống nước. Điều này sau đó nổi lên, ví dụ, trong lưu vực bến cảng của khu nghỉ mát bên bờ biển Địa Trung Hải của Cavalaire-sur-Mer, nơi có rất nhiều kem chống nắng để hấp thụ.

3200 thợ làm tóc tham gia

Thoạt nhìn, kem chống nắng dường như chỉ là giọt nước làm tràn ly trong một đại dương bị ô nhiễm bởi nhựa và dầu. Nhưng ảnh hưởng của nó không phải là không đáng kể: theo " FAZ ", chỉ riêng nó đã đảm bảo rằng từ 6.000 đến 14.000 tấn chất độc hại kết thúc trong nước biển mỗi năm. Thierry Gras nói với watson: “Do đó, các lô cuốn tóc được đặt ở bến cảng, ao hồ hoặc các vùng nước bị ô nhiễm khác để lọc dầu mặt trời và hydrocarbon. "Nước được làm sạch nhờ khả năng hấp thụ dầu mỡ của tóc."

Vì cách này hoạt động rất hiệu quả nên Gras đã thành lập tổ chức Coiffeurs Justes để thu thập tóc từ các tiệm làm tóc khác và xử lý thành bộ lọc tóc. Hiện có khoảng 3.200 thợ làm tóc tham gia, chủ yếu ở Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, Luxembourg và các nước châu Âu khác. Hơn 40 tấn tóc hiện đã được tái chế theo cách này.

Thierry Gras đã là một nhà tạo mẫu tóc trong hơn 30 năm - và cuối cùng cảm thấy mệt mỏi với việc vứt bỏ mái tóc mà mình đã cắt đi
Các thẩm mỹ viện đối tác của Coiffeurs Justes nhận được túi giấy đựng tóc đã cắt. Tóc của tối đa 220 khách hàng nằm gọn trong một chiếc túi mà các tiệm làm tóc phải trả một euro. Dù thẳng hay xoăn, ngắn hay dài, nhuộm màu hay tự nhiên - tất cả tóc đều có thể được tái chế. Chúng chỉ cần sạch sẽ, nhưng dù sao thì đó cũng là trường hợp sau khi bạn gội đầu ở tiệm làm tóc.

Bộ lọc sau này trở thành vật liệu cách điện

Thierry Gras nói: “Các thành viên của chúng tôi được nhắc đến thường xuyên hơn trên các phương tiện truyền thông và do đó nhận được nhiều sự chú ý hơn. Tuy nhiên, ngoài việc quảng cáo , điều quan trọng đối với Gras là các thợ làm tóc tham gia chia sẻ các giá trị chung, rằng họ đấu tranh cho một môi trường tốt hơn, rằng niềm đam mê dành cho tóc là có. Trong tương lai, Gras cũng muốn hợp tác với nhiều cộng đồng khác nhau để thiết lập các bộ lọc tóc ở nhiều cảng hơn nữa.

Nhân tiện, khi lưới tóc đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, chúng có thể được giặt và tái sử dụng tới tám lần. Và ngay cả sau đó, các thợ làm tóc của Justes cho biết, chúng vẫn có thể hữu ích: chẳng hạn như vật liệu cách nhiệt tòa nhà, hoặc làm phân bón cho phân trộn. Ngay cả khi chúng ta không còn cần đến chúng trên đầu nữa, thì mái tóc của chúng ta vẫn có thể làm được rất nhiều việc.

2/1/23

Cách ăn kiểu Mỹ này có thể cộng thêm 10 năm cho đời sống của bạn

Những người sống-lâu-nhất trên Trái đất tuân theo điều mà tác giả Dan Buettner gọi là cách ăn vùng-xanh - và nay, ông đã tìm thấy nhiều cách ăn hơn nữa tại Mỹ.
Dịch và bổ sung cước chú: Phạm Văn Bân Fàn Wénbīn,范文彬- January 21, 2023

Dẫn nhập của người dịch

In March 2000, Michel Poulain and Giovanni Mario Pes, là hai người nghiên cứu về tuổi thọ tại Sardinia, giới thiệu từ ngữ blue zone/vùng xanh cho một khu vực có tuổi thọ phi thường tại Sardinia  và sau đó, dùng từ ngữ này trong khảo cứu vào năm 2004. 

Năm 2004, Dan Buettner quyết tâm khám phá những phong cách sống và môi trường đặc biệt đã  dẫn đến sống lâu nhất, khỏe mạnh nhất. Ông xác định rằng thế giới có 5 vùng xanh: Okinawa,  Japan; Sardinia, Italy; Nicoya, Costa Rica; Icaria, Greece; và Loma Linda, California, Mỹ.


Biểu đồ Venn về dưới đây tóm lược các đặc điểm về trường thọ từ Okinawa, Sardinia và Loma  Linda:

“Tính toán về lão-hóa cho chúng ta hai chọn lựa: Chúng ta có thể sống một cuộc đời ngắn hơn với  nhiều năm tàn tật hơn, hoặc chúng ta có thể sống lâu nhất có-thể-được với ít năm tồi tệ nhất. Như  những người bạn trăm tuổi của tôi đã cho tôi thấy, sự chọn lựa phần lớn phụ thuộc vào chính chúng  ta.” - Dan Buettner

Buettner đã xuất hiện trên The Today Show, Oprah, NBC Nightly News, và Good Morning  America, đồng thời có các bài phát biểu quan trọng tại TEDMED, Bill Clinton’s Health Matters  Initiative, và Google Zeitgeist. Bài phát biểu của ông vào tháng January 2018 tại World Economic  Forum tại Davos đã được chọn là “một trong những bài phát biểu hay nhất của Davos.

Để mô tả khái niệm về vùng-xanh của Mỹ, nghệ sĩ Luisa Rivera cho biết bà “tập trung vào bàn  tay của đối tượng như là một cử chỉ đòi lại các thức ăn của tổ tiên, trong khi các thói quen ăn  uống được tượng trưng bằng cái nĩa.” Bà bao gồm các loại rau, trái cây và thực vật bản địa  “như là một cách để nhận ra nguồn gốc và các khía cạnh ngày càng phát triển của văn hóa thực phẩm.



Bí quyết để sống thêm 10 năm là cái gì? Không bao giờ chỉ là một điều. Thay vì vậy, đó là một tập hợp của các yếu tố môi trường củng cố lẫn nhau và khiến mọi người làm những điều đúng theo phản xạ và tránh những điều sai trong thời gian đủ lâu để không phát triển các bệnh mãn tính. Trong 20 năm qua viết cho National Geographic, tôi đã nhận ra và nghiên cứu những khu vực có người sống lâu nhất trên thế giới, mà tôi gọi là vùng-xanh. Những nơi này - Okinawa, Nhật; Sardinia, Italy; Ikaría, Greece; Nicoya, Costa Rica; và các cộng đồng Seventh-day Adventist ở Loma Linda, California - có nhiều người sống trên trăm tuổi nhất và tuổi thọ trung niên cao nhất. Tại sao? Cư dân sống một đời sống có mục đích, trong môi trường có thể đi bộ giúp mọi người luôn năng động và kết giao xã hội một cách tự nhiên. Và họ ăn một cách ăn chủ yếu là thực phẩm nguyên chất/whole foods 1 có nguồn gốc từ thực vật.

Vào năm 2019, khi đại dịch COVID bộc phát, nhiếp ảnh gia David McLain và tôi ấp ủ ý nghĩ tìm kiếm một cách ăn uống vùng xanh của người Mỹ. Nghĩ rằng ông bà cố của chúng ta có thể đã ăn uống tương tự như những người ở vùng-xanh ban đầu, chúng tôi tìm kiếm các cuộc khảo sát về cách ăn uống đã được thực hiện vào đầu thập niên 1900s. Trong thất vọng, chúng tôi tìm thấy rằng tổ tiên của chính chúng tôi (những người nhập cư từ miền Bắc và Trung Âu châu) đã mang theo bò, heo và dưa chua với họ.

Quyết tâm tìm kiếm những món ăn truyền thống của các nền văn hóa khác, người bản địa và người nhập cư, đã mang đến bàn ăn của người Mỹ, chúng tôi đi khắp đất nước để tìm những người có thể cho chúng tôi biết về những món ăn này.

Đây là những gì chúng tôi khám phá ra: Có một cách ăn uống khác của người Mỹ, một cách ăn uống thực sự có thể làm tăng tuổi thọ của bạn lên đến 10 năm và, trong một số trường hợp, đẩy lùi bệnh tật. Đó không phải là cách ăn uống kỳ quái được phát minh bởi một bác sĩ ở South Beach, hay bới một người tiếp thị cách ăn paleo, hay bởi một người có ảnh hưởng trên mạng xã hội. Cách ăn này được phát triển bởi những người Mỹ bình thường, có giá cả rất phải chăng, bền vững và có lượng khí thải carbon thấp hơn so với cách ăn nhiều thịt. Quan trọng nhất, cách ăn này lành mạnh và ngon miệng, được phát triển qua nhiều thế kỷ bằng cách kết hợp các hương vị từ Cựu Thế giới và Tân Thế giới theo những cách khéo léo và duy nhất của Mỹ.

THỰC PHẨM CỦA TỔ TIÊN 

Tác giả Dan Buettner khám phá cách ăn uống kéo dài tuổi thọ đã-bị-mất của người Mỹ bằng  những tấm hình nổi bật và chia sẻ sự khôn ngoan từ các chuyên viên ẩm thực và đầu bếp trong  sách Nhà bếp Mỹ Vùng-Xanh: 100 công thức nấu ăn để sống đến 100 tuổi. Cuốn sách hiện có  sẵn ở bất cứ nơi nào sách được bán. 

Chúng tôi bắt đầu ở New England, xem xét các món ăn truyền thống của người Mỹ bản địa  Wampanoag. Tổ tiên của họ đóng một vai trò trong lịch sử vào năm 1621 khi chạm trán với  những người định cư mới đến. Một ông, Tisquantum, dạy người định cư cách trồng bắp, một  loại lương thực địa phương. Carolyn Wynne, một trưởng lão người Mashpee Wampanoag và là  mẹ của Otter Clan, và bạn của bà là nhân chủng gia về thực phẩm Paula Marcoux, tái tạo một  bữa ăn vào đầu thế kỷ 17th cho chúng ta bằng cách dùng các loại thực phẩm điển hình của  Wampanoag. 

Khi Wynne nấu trên ngọn lửa để mở, bà dường như không bị ảnh hưởng bởi sức nóng. Với than đá, bà nướng bí nhồi hạt hazelnuts, blueberries khô và maple syrup. Trong cái nồi đặt bên cạnh,  bà nấu sôi nasaump, tức là một món súp bột bắp. Trong nồi thứ ba, bà luộc những lát bí ngô  trong sassafras tea. Mặc dù người Wampanoag săn bắn thú vật và thu lượm con trai và hàu,  nhưng 70% khẩu phần ăn của họ đến từ các nguồn thực vật.

Marcoux trông nom các nồi bằng gang trên ngọn lửa khác. Trong một món, có món msíckquatash  sủi bọt, tức là món hầm căn bản của người Wampanoag, gồm hominy, đậu và bí, mà Marcoux  trộn với đậu xanh, hành tây và rau thơm. Người Wampanoag cũng có thể thêm Jerusalem  artichokes, trái sồi, hạt dẻ và trái óc chó (các loại hạt đôi khi được nghiền thành bột để làm chất 

làm-đặc). Marcoux nói: “Nỗi ám ảnh riêng biệt của tôi về lịch sử mang lại cho tôi niềm vui khi  kết nối với những đầu bếp đã-chết-từ-lâu trong căn bếp đã mai một lâu rồi của họ thông qua các  nguồn tài liệu lưu trữ và khảo cổ. Thật là một đặc ân hào hứng khi cầu khẩn trí tuệ của họ qua  lửa.” 

THIỆT HẠI CỦA CÁCH ĂN UỐNG ‘ĐIỂN HÌNH CỦA NGƯỜI MỸ’ 

Nếu bạn đang ăn uống giống như một người Mỹ điển hình, có lẽ bạn sẽ chết sớm. Năm nay, hơn  678,000 người Mỹ sẽ chết vì các bệnh hoặc tình trạng liên quan đến những gì họ ăn. Chúng bao  gồm các tình trạng phổ biến như huyết áp cao, lượng đường trong máu cao (tiểu đường loại 2), và  cholesterol cao. Theo một nghiên cứu, chúng ta sẽ chi hơn 4 nghìn tỷ đô-la cho việc chăm sóc sức  khỏe, 20% cho các bệnh liên quan đến các chọn lựa ăn uống không lành mạnh. Người ta ước tính  rằng chúng ta mất (giảm thọ) ít nhất 13 năm nếu ăn theo cách ăn điển hình của Mỹ. 

Điều này có thể không gây sốc khi bạn xem xét rằng mỗi năm, một người Mỹ trung bình tiêu thụ tổng cộng 264 pounds thịt bò, thịt bê, thịt heo, và thịt gà; 123 pounds đường và đường-hóa-học/ sweeteners có calorie, bao gồm khoảng 39 gallons nước ngọt có ga; 16 gallons sữa; và hơn 40  pounds phó-mát, trong đó một số đứng đầu với 46 lát bánh pizza hàng năm. 70% lượng calories của chúng ta đến từ thực phẩm chế biến sẵn, chứa hàng nghìn chất phụ gia thực phẩm nhân tạo,  nhiều chất trong số đó được biết là gây ung thư. - Dan Buettner 

Ở phía bên kia của Mỹ, ở mũi phía bắc của Big Island của Hawaii, chúng ta thấy một phiên bản  khác của sự sáng tạo của người bản địa tại trang trại nơi gia đình Scott Harrison trồng các loại cây  bản địa trong ba thế hệ. Có nhiều sản phẩm được ăn ở đây trong hàng trăm năm: khoai lang, chuối,  dứa, đu đủ, xoài và sa kê/breadfruits. Trong một luống đất được chăm sóc gọn gàng, Harrison thò  tay xuống vùng nước nông và nhổ một cây khoai sọ, giơ nó lên như một chiếc cúp: Ông nói, “Bạn  có thể ăn lá như rau spinach và luộc thân như măng tây. Hầu hết chúng tôi sống sót nhờ vào củ,  thứ mà chúng tôi nghiền thành bột nhão chúng tôi ăn hàng ngày.” 

Ở phía tây, trên đảo Oahu, ngoại ô Honolulu, Ruth Chang, 95 tuổi, đang chuẩn bị bữa trưa. Bà nói  với tôi khi băm nhỏ các loại rau củ, “Tôi nấu ăn hàng ngày. Một khi bạn dừng lại, bạn sẽ mất nó.” 

Cấu trúc nhân khẩu của Ruth Chang có thể là người sống-lâu-nhất trên Trái đất. Phụ nữ Mỹ gốc  Hoa sống ở Hawaii tận hưởng tuổi thọ trung bình khoảng 90 năm, và cách ăn uống của người Mỹ gốc Hoa sống ở đó giúp kéo dài tuổi thọ như vậy. ((Want to live longer? Influence your genes.) 

Kể từ khi người Đông Nam Á châu bắt đầu đến Hawaii hơn 170 năm trước như là công nhân nông  nghiệp, mỗi nhóm dân tộc đã giới thiệu hương vị và nguyên liệu của riêng mình. Người Trung  quốc mang theo lá bắp cải, các sản phẩm từ đậu nành và trà. Người Nhật, miso và phiên bản đậu  phụ của riêng họ. Người Filipinos, trông nom ngọn của nhiều loại cây như bí và bí ngô. Sự kết  hợp giữa thực phẩm và kỹ thuật nấu ăn này đã khiến Hawaii trở thành nơi để trải qua ẩm thực kết  hợp của Á châu mà chủ yếu là dựa trên thực vật.

Người Mỹ gốc Phi châu sống ở Deep South có truyền thống lâu đời về việc ăn các loại thực phẩm  thuộc vùng xanh. Những gì bắt đầu như một cách ăn uống chủ yếu dựa trên thực vật của Tây Phi châu đã biến đổi uyển chuyển với ảnh hưởng của người Mỹ bản địa và Âu châu để tạo ra một ẩm  thực duy nhất và sống động. Các khảo sát về cách ăn uống đi ngược về thập niên 1890s chỉ ra rằng  hầu hết các loại thực phẩm mà người Mỹ gốc Phi châu ở miền nam ăn là rau và ngũ cốc. Ngoài  thịt heo muối được thêm vào để tạo hương vị, các sản phẩm từ động vật chỉ đóng một vai trò nhỏ. 

Vào một buổi sáng ẩm ướt tại Charleston, Nam Carolina, chúng tôi đang ở trong nhà của đầu  bếp kiêm sử gia BJ Dennis, quây quần bên nồi súp đậu bắp/okra soup. Đậu bắp, tỏi, hành tây,  đậu bơ, cà chua, thyme/bạch lý hương/cỏ xạ hương/húng Tây, ớt Scotch cay nồng, và sự thú vị tuyệt vời của hạt benne lên men (mè) kết hợp các hương vị của Cựu và Tân Thế giới. Miếng cắn  đầu tiên của tôi mang đến một cơn sóng thần vị ngon/umami,2 tiếp theo là hơi nóng chảy-nước mắt và đỏ mặt vì hạnh phúc thuần túy. (These are the world’s happiest places.) 

Dennis đang thực hiện sứ mệnh mang lại nền ẩm thực của tổ tiên trồng lúa của ông. Bị bắt từ những nơi như Senegal và Liberia, tổ tiên của ông được đưa đến Vùng đất thấp/Low Country của Nam Carolina và Georgia để trồng giống lúa Carolina Gold. Vì chuyên môn của họ, một số người Phi châu bị bắt làm nô lệ đã được phép làm vườn, nơi họ trồng các thực phẩm chủ yếu của  

Phi châu và các nguyên liệu địa phương. Dennis nói: “Chúng tôi lấy tâm hồn mộc mạc của người  Phi châu và kỹ thuật của người Mỹ bản địa để tạo ra sự kết hợp đặc biệt này.” 

Cách ăn uống truyền thống của miền Tây Phi châu hầu hết gồm có rau xanh, rau củ, đậu mắt  đen, đậu bắp/okra, hạt benne/mè, các loại thảo mộc và gia vị, và ngũ cốc như kê; thịt chỉ thỉnh  thoảng được ăn. Khi những người Phi châu bị bắt và chuyển đến Mỹ châu, cây và hạt giống của  thực phẩm quê hương họ đi cùng với họ. Họ tham gia trao đổi văn hóa với người Mỹ bản địa, là  những người chia sẻ một số tập quán canh tác và lương thực tương tự; cả hai đều nấu bằng bắp,  khoai lang, các loại đậu địa phương. Kết quả là một ẩm thực pha trộn, sáng tạo. 

Vào một ngày khác, tại Texas, chúng tôi cùng với sử gia kiêm đầu bếp Adán Medrano khi ông  phá bỏ huyền thoại về cách nấu ăn của người Texas-Mexico. Trong nhà bếp ở Houston, ông khuấy một món posole mặn trong một cái nồi và trong một cái nồi khác là cơm hầm cà chua, cả hai món ăn đều có hương vị của bộ ba Texas Mexican trio: tỏi, thì là và tiêu đen. 

Medrano nói với tôi: “Thức ăn Texas Mexican béo ngậy, phó-mát phần lớn là phát minh của  người Anglo. Món enchiladas truyền thống của chúng tôi không có rắc phó-mát. Chúng tôi lấp  đầy enchiladas bằng cà rốt và khoai tây. 

Sinh ra ở San Antonio, phía trung-nam Texas, Medrano, 74 tuổi, lớn lên ăn xương rồng, đậu,  bắp, ớt, khoai tây, hành tây, nấm, portulaca, rau dền, nhiều loại quả mọng và đôi khi là thú rừng.  Đây là các thực phẩm chân chính của ẩm thực Texas Mexico, hoàn toàn xa lạ 3 với các hư hỏng ẩm thực Tex-Mex như fajitas gà hoặc quesadillas thêm phó-mát phụ trội. Những loại thực phẩm  nguyên chất, có nguồn gốc thực vật này cũng là điển hình của các món ăn châu Mỹ Latin khác. 

Khi chúng tôi đi khắp Mỹ, chúng tôi tìm thấy các cách ăn uống trong quá khứ của những nền  văn hóa bản địa và người nhập cư này được diễn dịch bởi một nhóm bảo-vệ-mới gồm các đầu  bếp và các người tiên phong về thực phẩm. Khi họ tái tạo các món ăn truyền thống, họ không  chỉ mở ra một kho tàng của những tài năng ẩm thực phần lớn đã bị mai một mà còn đưa ra những  cách biểu hiện mới về cách ăn uống tiêu chuẩn của người Mỹ - điều này có thể thực sự giúp  chúng ta có thêm 10 năm đó. 

Dan Buettner là một người khám phá của National Geographic, ký giả từng đoạt giải thưởng và  là tác giả có sách bán chạy nhất, trong đó cuốn sách mới nhất cho National Geographic là The  Blue Zones American Kitchen


Câu chuyện này xuất hiện trong số tháng
January 2023 issue của tạp chí National Geographic.



Bản gốc tiếng Anh: