4/25/11

Lưu Thị Bích Đào

Lá Thư Hàng Tháng
-------------------------
Lưu Thị Bích Đào
(trích Diễn Đàn Thụ Nhân, tháng 5/2011)

Lê Đình Thông

‘‘Hoan nghênh Thông vô cùng. Vì theo ý tôi, đó là cái chết bi đát nhất, thảm khốc nhất, mà danh sách những nạn nhân của cộng sản luôn luôn thiếu chị. Tôi nhớ có một bài viết rất hay về cái chết đó, mà lâu quá quên rồi. Và cũng cần hình của chị.’’ (Hoàng Ngọc Nguyên, Diễn đàn Thụ Nhân 1-2, ngày 22 tháng 4 năm 2011).

Theo Hoàng Ngọc Nguyên, cái chết của chị Lưu Thị Bích Đào là bi đát nhất, thảm khốc nhất. Tôi biết chị Bích Đào ở Saigon, trước khi chị lên Đà Lạt học Văn khoa. Chị thường mặc áo dài trắng, để tang mẹ mới qua đời. Chị Bích Đào quê quán Hội An (Quảng Nam). Trong những ngày học đệ nhất ở Saigon, chị ở nhà người anh cả là nhà văn Lưu Nghi, trong con hẻm nhỏ đường Lê Văn Duyệt, quận 3 Saigon, đối diện Chợ Đũi. Anh Nghi sinh năm 1924, hơn chị Bích Đào 18 tuổi, viết báo Bách Khoa, Nhân Loại, chủ trương nhà xuất bản Trùng Dương. Anh là tác giả tập truyện Đêm Trăng Mùa Hạ và Gió Trên Đồi.
Năm 1969, chị Bích Đào kết hôn với dược sĩ Trần Xuân Chiểu, làm việc ở quân y viện Cần Thơ. Chị Đào tốt nghiệp cử nhân Việt-Hán, là giáo sư trường trung học Phan Thanh Giản (Cần Thơ).
Sau tháng tư đen, vợ chồng anh Chiểu, chị Bích Đào và ba cháu Chi, Tý và Kim vượt biên. Chiếc ghe 12 blocks máy nhổ neo ở Vũng Tầu, vào một đêm không trăng sao để khỏi bị lộ. Công an biên phòng tuần tra rất gắt, chiếu đèn pha vào chiếc ghe có bầu đoàn thê tử người trung úy dược sĩ. Đó là hồi I của tấm thảm kịch bi lụy mang tên Bích Đào.
Vì đồn công an biên phòng không còn chỗ giam người, gia đình anh chị có con nhỏ nên được phóng thích. Anh chị bồng bế con về Cần Thơ. Vợ chồng dành dụm được 15 lượng vàng thì đã nộp hết cho chủ tầu. Trước nhà có công an cầm súng tịch biên. Họ trở thành tứ cố vô thân. Anh chị đi ngang qua nhà mình mà như nhà vô chủ, lặng lẽ đến nương náu nơi người em họ. Đó là bi kịch Bích Đào, hồi thứ II.
Ngày hôm đó, gia đình chị Bích Đào nương náu ở miệt vườn, cách Cần Thơ mấy chục cây số. Hồi kết cuộc của thảm kịch diễn ra lặng lẽ trong đêm thâu. Anh Chiểu chích cho vợ và các con liều thuốc cyanur, rồi tự chích độc dược. Sáng hôm sau, bà Sáu chủ nhà phát giác chị Bích Đào ôm chặt cháu út, nằm cạnh hai cháu Chi và Tý, cả bốn mẹ con đều đã qua đời. Năm 1980, hài cốt chị Bích Đào và các cháu Chi, Tý và Kim được đem về mai táng ở quê chồng ngoài Huế.
Anh Chiểu được cứu sống. Tám năm sau cũng chết trong trại giam Cần Giờ.
Tấm hình đen trắng của chị Lưu Thị Bích Đào chụp ở phi trường Liên Khương (Đà Lạt), phía sau là dãy núi Lâm Viên. Vì chị học Văn khoa, tôi xin làm bài thơ ngũ ngôn, thay cho năm nén nhang, viết vào mùa hoa đào hải ngoại, thắp lên để tưởng nhớ anh Chiểu, chị Bích Đào và các cháu Chi, Tý và Kim, tất cả là năm người.
Anh Chiểu, chị Bích Đào,
Các con chết anh hào.
Thắp nén nhang tịnh độ,
Hồn thiêng cõi thanh cao.

3/31/11

Xin Chúc Mừng Quí Thầy Cô & quí Anh Chị:

Năm Mới Tân Mão gia đạo bình an, sức khỏe dồi dào, mọi việc tốt lành.


View more presentations or Upload your own.

2/22/11

Vọng Xuân

Dạo:
Xuân kia vẫn khuất chân trời,
Sao hoa vội nở, mặc người trong đêm.

Cóc cuối tuần:

望 春

灝 灝 冬 霖 漫 草 田,
桃 花 老 鳥 待 新 年.
鰥 猴 戴 影 峯 頭 噭,
病 藻 含 霜 水 畔 眠.
壯 士 窮 途 屍 滿 地,
英 雄 末 路 恨 滔 天.
春 暉 未 到 花 狂 放,
鳥 死 寒 矑 望 故 園.
陳 文 良


Âm Hán Việt:

Vọng Xuân

Hạo hạo đông lâm mạn thảo điền,
Đào hoa lão điểu đãi tân niên.
Quan hầu đái ảnh phong đầu khiếu,
Bệnh tảo hàm sương thủy bạn miên.
Tráng sĩ cùng đồ, thi mãn địa,
Anh hùng mạt lộ, hận thao thiên.
Xuân huy vị đáo, hoa cuồng phóng,
Điểu tử, hàn lô vọng cố viên.
Trần Văn Lương
Dịch nghĩa:

Ngóng Xuân
Mênh mông mưa dầm mùa đông làm ướt sũng ruộng cỏ,
Hoa đào và con chim già (cùng) đợi năm mới.
Con khỉ góa vợ đội bóng mình gào khóc trên đầu núi,
Rong rêu bệnh hoạn ngậm sương nằm ngủ ven bờ nước.
Tráng sĩ cùng đường, xác (nằm) đầy đất.
Anh hùng cuối nẻo, nỗi hận ngập trời.
Nắng xuân chưa đến (mà) hoa đã điên cuồng nở,
Con chim chết, (nhưng) tròng mắt lạnh (vẫn) ngóng về vườn cũ.

Phỏng dịch thơ:

Ngóng Xuân

Mưa Đông lạnh đầm đìa trên xác cỏ,
Con chim già, cánh đào nhỏ chờ Xuân.
Đầu non cao, khỉ góa khóc vang rân,
Rong rêu úa lịm dần bên bến đục.

Tráng sĩ sa cơ, xương nằm chen chúc,
Anh hùng mạt lộ, oán ngút trời xanh.
Xuân chưa sang, hoa vội thắm rực cành,
Con chim chết, mắt buồn canh lối cũ.
Trần Văn Lương
Cali, Xuân Tân Mão, 2/2011

Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư :
Xuân chưa sang, hoa đã nở. Con chim già kia chết làm sao nhắm mắt được, hỡi ơi!