Lá Thư Hàng Tháng
-------------------------
Lưu Thị Bích Đào
(trích Diễn Đàn Thụ Nhân, tháng 5/2011)
Lê Đình Thông
‘‘Hoan nghênh Thông vô cùng. Vì theo ý tôi, đó là cái chết bi đát nhất, thảm khốc nhất, mà danh sách những nạn nhân của cộng sản luôn luôn thiếu chị. Tôi nhớ có một bài viết rất hay về cái chết đó, mà lâu quá quên rồi. Và cũng cần hình của chị.’’ (Hoàng Ngọc Nguyên, Diễn đàn Thụ Nhân 1-2, ngày 22 tháng 4 năm 2011).
Theo Hoàng Ngọc Nguyên, cái chết của chị Lưu Thị Bích Đào là bi đát nhất, thảm khốc nhất. Tôi biết chị Bích Đào ở Saigon, trước khi chị lên Đà Lạt học Văn khoa. Chị thường mặc áo dài trắng, để tang mẹ mới qua đời. Chị Bích Đào quê quán Hội An (Quảng Nam). Trong những ngày học đệ nhất ở Saigon, chị ở nhà người anh cả là nhà văn Lưu Nghi, trong con hẻm nhỏ đường Lê Văn Duyệt, quận 3 Saigon, đối diện Chợ Đũi. Anh Nghi sinh năm 1924, hơn chị Bích Đào 18 tuổi, viết báo Bách Khoa, Nhân Loại, chủ trương nhà xuất bản Trùng Dương. Anh là tác giả tập truyện Đêm Trăng Mùa Hạ và Gió Trên Đồi.
Năm 1969, chị Bích Đào kết hôn với dược sĩ Trần Xuân Chiểu, làm việc ở quân y viện Cần Thơ. Chị Đào tốt nghiệp cử nhân Việt-Hán, là giáo sư trường trung học Phan Thanh Giản (Cần Thơ).
Sau tháng tư đen, vợ chồng anh Chiểu, chị Bích Đào và ba cháu Chi, Tý và Kim vượt biên. Chiếc ghe 12 blocks máy nhổ neo ở Vũng Tầu, vào một đêm không trăng sao để khỏi bị lộ. Công an biên phòng tuần tra rất gắt, chiếu đèn pha vào chiếc ghe có bầu đoàn thê tử người trung úy dược sĩ. Đó là hồi I của tấm thảm kịch bi lụy mang tên Bích Đào.
Vì đồn công an biên phòng không còn chỗ giam người, gia đình anh chị có con nhỏ nên được phóng thích. Anh chị bồng bế con về Cần Thơ. Vợ chồng dành dụm được 15 lượng vàng thì đã nộp hết cho chủ tầu. Trước nhà có công an cầm súng tịch biên. Họ trở thành tứ cố vô thân. Anh chị đi ngang qua nhà mình mà như nhà vô chủ, lặng lẽ đến nương náu nơi người em họ. Đó là bi kịch Bích Đào, hồi thứ II.
Ngày hôm đó, gia đình chị Bích Đào nương náu ở miệt vườn, cách Cần Thơ mấy chục cây số. Hồi kết cuộc của thảm kịch diễn ra lặng lẽ trong đêm thâu. Anh Chiểu chích cho vợ và các con liều thuốc cyanur, rồi tự chích độc dược. Sáng hôm sau, bà Sáu chủ nhà phát giác chị Bích Đào ôm chặt cháu út, nằm cạnh hai cháu Chi và Tý, cả bốn mẹ con đều đã qua đời. Năm 1980, hài cốt chị Bích Đào và các cháu Chi, Tý và Kim được đem về mai táng ở quê chồng ngoài Huế.
Anh Chiểu được cứu sống. Tám năm sau cũng chết trong trại giam Cần Giờ.
Tấm hình đen trắng của chị Lưu Thị Bích Đào chụp ở phi trường Liên Khương (Đà Lạt), phía sau là dãy núi Lâm Viên. Vì chị học Văn khoa, tôi xin làm bài thơ ngũ ngôn, thay cho năm nén nhang, viết vào mùa hoa đào hải ngoại, thắp lên để tưởng nhớ anh Chiểu, chị Bích Đào và các cháu Chi, Tý và Kim, tất cả là năm người.
Anh Chiểu, chị Bích Đào,
Các con chết anh hào.
Thắp nén nhang tịnh độ,
Hồn thiêng cõi thanh cao.