Showing posts with label Lý Trinh Trường. Show all posts
Showing posts with label Lý Trinh Trường. Show all posts

11/17/23

Trùng cửu (Trùng dương) - Song thập ?

 Tại sao ngày mùng 9 tháng 9 nông lịch gọi là tết Trùng cửu; ngày 10 tháng 10 dương lich là ngày Lễ Quốc khánh Trung Hoa Dân Quốc /Taiwan gọi là ngày Song thập?

* Theo  ChatGTP

Hỏi : 1. Ngày 9 tháng 9 gọi là Trùng Cửu. Vậy thì tại sao ngày 10 tháng 10 được gọi là Song Thập , không được gọi là Trùng Thập ? 2. Ngày 7 tháng 7 thì được gọi là Song Thất .

Trả lời: 

Ngày 9 tháng 9 được gọi là Trùng Cửu vì trong tiếng Trung, số "9" phát âm giống như từ "Cửu" nên có sự tương quan âm thanh. Tương tự, ngày 10 tháng 10 được gọi là "Song Thập" vì số "10" phát âm giống như từ "Thập". Trong truyền thống ngôn ngữ của nhiều người Á Đông, việc này thường được thực hiện để tạo ra sự tương quan âm thanh và ý nghĩa tích cực.

Tuy nhiên, không có quy tắc cứng nhắc về việc gọi ngày 10 tháng 10 là Song Thập thay vì Trùng Thập. Có thể có nhiều cách gọi khác nhau dựa trên văn hóa cụ thể và khu vực. Một số người cũng có thể gọi ngày này là Trùng Thập nếu họ thích.

Ngày 7 tháng 7 được gọi là Song Thất có thể xuất phát từ việc số "7" phát âm giống như từ "Thất" trong tiếng Trung. Tương tự như trường hợp của ngày 9 tháng 9 và ngày 10 tháng 10, việc đặt tên theo âm thanh của số là một phần của truyền thống văn hóa trong một số nền.

**1)-  Góp thêm  ý kiến :

Kính thưa quý anh chị!

Xin mạn phép góp chút ý kiến để mua vui trong ngày tết Trùng Cửu, đúng sai không quan trọng.

Gọi ngày 9/9 âm lịch là Trùng Cửu (重九) vì cả ngày 9 và tháng 9 đều là ngày dương; số 9 là một cơ số, cơ số là một số dương trong Tiên Thiên Bát Quái Hà Đồ, số 9 là số chiếm vị trí quẻ Ly ở phương Nam trong Cửu Cung Bát Quái (ma phương, gồm 9 ô cộng ngang dọc, chéo đều bằng 15). Quẻ Ly thuộc hành Hoả, là một quẻ dương. Tết Trùng Cửu còn gọi là tết Trung Dương (重陽) là vì thế.

Cái thể của quẻ Ly tuy 2 dương trên dưới kẹp 1 âm ở giữa nhưng lại là quẻ âm. Sở dĩ người ta nói hành hoả ở phương Nam thuộc dương là chú trọng về cái dụng của quẻ Ly, âm thì dùng cho dương cũng như cái dụng của Khôn là Kiền, cái dụng của Thuỷ là Hoả và ngược lại. Quẻ Ly có 2 hào dương cách nhau bởi 1 hào âm nên trùng dương cũng là vì lẽ đó.

 'Trùng' theo nghĩa chữ Hán có nhiều nghĩa tuỳ theo vai trò và từ loại của nó nằm trong văn phong (context) của câu. Ở đây, 'trùng' có thể được hiểu như một lượng từ (danh từ chỉ số lượng) có nghĩa là sự chồng chất lên, mang nghĩa lũy tích, trùng cửu vì thế là sự lặp lại của số 9 trong ngày 9/9. Trùng Dương là sự lặp lại của dương. Còn nếu coi 'trùng' ở đây là một động từ thì nó có nghĩa là thêm vào, nếu xem như là một trạng từ thì có có nghĩa là sự lập lại, tái diễn. Cho nên dù được hiểu theo loại từ nào thì 'trùng' ở đây đều có nghĩa là nhiều hơn 1 lần. Trùng Dương còn được gọi là Trùng Cửu vì lấy ngày 9/9 âm lịch làm ngày lễ tết này. Ngoài ra, cửu () có một chữ đồng âm khác nghĩa (homonym) là chữ , có nghĩa là lâu dài. Tết Trùng Dương người xưa bên Trung Hoa uống trà hoa cúc vì đó là mùa hoa Cúc (Xuân Lan Thu Cúc mặn mà cả hai - Kiều), đó là ngày kính lão (sống lâu, trường thọ trong nghĩa chữ , ngày tế tổ (như là linh hồn tổ tiên phục dương thế).

Ngày Song Thập là ngày quốc khánh của nước Trung Hoa Dân Quốc được thành lập từ sau ngày khởi nghĩa Vũ Xương (thuộc Vũ Hán, Hồ Bắc, TQ ngày nay) mở đầu cho sự thành công của cuộc cách mạng Tân Hợi (10/10/1911), nay vẫn còn tồn tại ở Đài Loan. Gọi là Song Thập vì ngày 10 tháng 10 có 2 số 10.

Ngày 7/7 âm lịch được gọi là ngày song thất cũng một phần vì ngày đó có 2 số 7. Ngày Song Thất là tên khác của tết Thất Tịch (七夕). Ít thấy chữ người ta nói đến ngày Song Thất. Ngày Thất Tịch được nói đến trong sách Thành Ngữ Khảo (成語考) như là ngày hai chòm sao Ngạn Tinh (彥星宿) tức Ngưu Lang và chòm sao Chức Cơ (織姬宿) tức Chức Nữ được hội ngộ mỗi năm 1 lần tại cầu Ô Thước (烏鵲) vào đêm 7/7 âm lịch. Nguyên văn trong Thành Ngữ Khảo:參商二星,其出沒不相見;牛女兩宿,惟七夕一相逢('Tham Thương nhị tinh, kỳ xuất một bất tương kiến; Ngưu Nữ nhị túc, duy thất tịch nhất tương phùng'; nghĩa là sao Hôm và sao Mai ra vào không bao giờ thấy nhau, chòm Ngư Lang và chòm Chức Nữ chỉ mỗi năm đêm 7/7 mới gặp 1 lần). Ngày 7/7 âm lịch sau này được nhiều người trong bàng dân thiên hạ xem như ngày lễ tình nhân.

Theo em thì gọi là 'trùng' hay 'song' thì tuỳ theo ý nghĩa đặc thù của từng ngày lễ. Tuy cả 2 đều là danh từ chỉ số lượng, trùng mang nghĩa tích luỹ, lăp lại trong khi song có nghĩa là hai về số lượng. Ngoài ra, lưỡng, nhị, đôi, cặp cũng có nghĩa tương tự như 'song' nhưng không có nghĩa 'trùng'.

Nhân ngày Trùng Cửu, em xin gửi tặng quý anh chị 2 bài thơ của Lý Bạch một bài cho ngày Trùng Dương và bài kia cho 1 ngày sau Trùng Dương. Đối với tửu thi nhân như Lý Bạch thì dù ngày 9 hay ngày 10 gì cũng là Trùng Dương vì ngày nào cũng 'bảo con con đem ngựa tốt, áo quý ra đổi lấy rượu cùng bạn uống tiêu cái sầu vạn cổ:

'五花馬,千金裘。

呼兒將出換美酒,與爾同銷萬古愁。將進酒 李白

(Ngũ hoa mã, thiên kim cầu.

Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu, dĩ nhữ đồng tiêu vạn cổ sầu) Tương tiến tửu - Lý Bạch. Sau đây là 2 bài thơ mà em thường gọi đùa là 'trùng cửu' và 'trùng trùng cửu'.

九日龍山飲

九日龍山飲,黃花笑逐臣。
醉看風落帽,舞愛月留人

Cửu nhật long sơn ẩm

Cửu nhật long sơn ẩm, 
hoàng hoa tiếu trục thần.
Tuý khán phong lạc mạo, 
vũ ái nguyệt lưu nhân.

Tạm dịch: Trùng cửu uống rượu trên núi Long Sơn.

Trùng Cửu say trên núi,
Cúc cười người bị đuổi.
Gió tung nón người say,
Cùng ánh trăng múa may.

九月十日即事


昨日登高罷,
今朝更舉觴。
菊花何太苦,
遭此兩重陽?

Cửu nguyệt thập nhật tức sự

Tạc nhật đăng cao bãi, 
kim triêu canh cử trường.
Cúc hoa hà thái khổ, 
tao thử lưỡng trùng dương?

Tạm dịch: 

Ngày sau Trùng Cửu 


Hôm qua say trên cao,
Sáng nay lại nâng chén.
Hoa Cúc sao mà khổ!
Trùng Trùng Dương là sao?

Lày A Mản



2)- Trùng và Song (重與雙)

Xin góp ý thêm về câu hỏi : "Khi nào gọi là Song , khi nào gọi là Trùng ?" với tình thần dĩ văn hội hữu (以文會友), để nhóm bạn bằng ngôn tự và lời văn.

Theo sự hiểu biết thiển cận của tôi, Trùng (重) và Song (雙) đôi khi có thể sử dụng lẫn nhau vì có nghĩa là trùng lắp, lặp lại:

Tết Trùng Thập (mùng 10 tháng 10 âm lịch) còn gọi là Tết Song Thập (Hán-Nôm: 雙十) là ngày của các vị thầy thuốc thời xưa. Vào tháng 10, những cây thuốc hấp thụ được khí âm dương của trời đất, kết tụ được sắc thái của tứ thời (Xuân, Hạ, Thu, Đông) mà trở nên có linh khí. Tháng 10 cũng là mùa màng thu hoạch tốt nhất trong năm, người ta thường làm nhiều món ăn thật phong phú để cúng bái và tạ ơn đất trời sau một mùa gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp.

Tết Song Thất (ngày 7 tháng 7 âm lịch) còn được gọi là Trùng Thất tức là Thất Tịch (Hán-Nôm: 七夕). Lịch sử ngày này gắn bó với câu chuyện Ngưu Lang Chức Nữ hoặc vợ chồng Ngâu với nhiều dị bản. Theo truyền thuyết, sau một năm xa cách, hằng năm cứ đến ngày này , Ngưu Lang và Chức Nữ được hội ngộ bên cầu Ô Thước.

Tết Trùng Ngũ (ngày 5 tháng 5 âm lịch) còn được gọi là Tết Song Ngũ tức là Tết Đoan Ngọ (Hán-Nôm: 瑞午節) là ngày người dân tưởng nhớ vị trung thần yêu nước tên là Khuất Nguyên. Vì bị gian thần gièm pha hãm hại, ông đã uất ức gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn ngày mùng 5 tháng 5. Dân làng vô cùng thương xót, họ đã chèo thuyền đến giữa dòng sông để cố gắng cứu vớt nhưng không thành. Sau để tưởng nhớ và tỏ lòng thương tiếc một vị thần trung nghĩa. Vào ngày này hàng năm, dân chúng làm bánh Ú, bên ngoài quấn chỉ ngũ sắc (ý làm cho cá hoảng sợ, không lại gần phá hoại thi thể của ông), rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống để tế bái Khuất Nguyên.

Mặt khác, vì đặc trưng và thói quen của nền văn hóa, có những từ ngữ bắt buộc phải dùng "Trùng":

重重叠叠的山巒 (ngọn núi chồng chất lên nhau) Trùng trùng điệp điệp đích sơn loan, ngọn núi trùng trùng điệp điệp, không nói ngọn núi song song điệp điệp.

福不重來 (phước không đến 2 lần), phước bất trùng lai, không nói phước bất song lai.


Hoặc có những từ ngữ bắt buộc phải dùng "Song"

福慧雙修 (Tu phước tu tuệ) phước tuệ song tu, không nói phước tuệ trùng tu.

雙飛燕 (hai con chim én bay kề vai sánh cánh) song phi yến, không nói trùng phi yến.

Tiện đây, xin mạn phép lược thuật một chút cảm nghĩ về "chữ và nghĩa". Con người vốn lệ thuộc chữ nghĩa quá nhiều, tưởng chừng như ngoài chữ nghĩa là không còn gì nữa! Thực ra, ngôn tự (言字) tức lời nói và chữ viết chỉ là thông tin quy ước dùng làm phương tiện diễn đạt ý. Các trí giả xưa không bám chặt vào ngôn tự và phương pháp, bởi vì mục đích chính không nằm trong đó, chúng chỉ là những phương tiện nhất thời nhằm hướng dẫn đến hình và sắc của sự vật bên ngoài mà thôi. Hơn nữa, trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới, khá phổ biến hiện tượng đồng tự khác nghĩa, thậm chí có nghĩa tương phản. chẳng hạn:

“Quân”(君) nghĩa là vua và “quân”(軍)nghĩa là lính. Vua và lính rõ ràng là hai vị thế xã hội, hai cấp bậc tương phản một trời một vực. Vua thì ở ngôi cao nhất còn lính là vị trí có thể nói gần như dưới cùng.

"Phụ” (父) chỉ đàn ông và “Phụ”(婦) chỉ đàn bà.

Chữ “phụ” với nghĩa chỉ đàn ông được sử dụng điển hình qua trường hợp chỉ người cha như: thân phụ, dưỡng phụ; chữ “phụ” với nghĩa chỉ đàn bà xuất hiện điển hình qua các từ như: phụ nữ, thiếu phụ, chinh phụ...Sự khác biệt tương phản giữa “phụ” (chỉ đàn ông) và “phụ” (chỉ đàn bà) là sự khác biệt về giới tính, ngoại hình, tính cách cùng nhiều thiên chức trong cuộc sống.

“Minh”(冥) nghĩa là tối “u u minh minh” với nghĩa là sâu kín tối tăm. “minh”(明) nghĩa là sáng như: bình minh, minh bạch, minh chứng, minh xét…

“Liệt” (烈) có nghĩa gốc là ngọn lửa nóng, từ đó biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp, ngay thẳng của con người như trong các từ: liệt nữ, liệt sĩ, lẫm liệt... “Liệt”(劣) có nghĩa là “kém, xấu” như trong những từ: bại liệt, tê liệt, liệt giường...

Trong cuộc sống hằng ngày xuất hiện không ít những vấn đề khiến chúng ta đặt dấu chấm hỏi lớn. Có những vấn đề sinh ra một cách rất mâu thuẫn nhưng chúng ta không biết phải giải thích như thế nào? Trong đời sống hàng ngày, Chữ nghĩa và Từ ngữ được dùng để chuyên chở ý tưởng, nhưng có bao giờ chúng ta bất chợt nghĩ đến “nghĩa thật” hoặc xuất xứ của những từ ngữ thường dùng trên đầu môi chót lưỡi không ? Đôi khi, chính từ những ý thắc mắc bâng quơ đó mà ta sẽ ngạc nhiên khi tìm thấy thật nhiều suy nghĩ về cuộc đời, về con người, về thế thái nhân tình, về duyên nợ hồng trần và đôi khi những bài học kỳ thú về lịch sử nữa …

Xin mượn những câu triết lý uyên thâm của Trang Tử để kết thúc cho bài viết hôm nay:


"Thuyên giả sở dĩ tại ngư, 
đắc ngư nhi vong thuyên (筌者所以在魚,得魚而忘筌)

Ðề giả sở dĩ tại thố, 
đắc thố nhi vong đề (蹄者所以在兔,得兔而忘蹄)

Ngôn giả sở dĩ tại ý, đắc ý nhi vong ngôn 
(言者所以在意,得意而忘言)"

Nghĩa:

Có nơm là vì cá, 
được cá hãy quên nơm.
Có dò là vì thỏ, 
được thỏ hãy quên dò.
Có lời là vì ý, 
được ý hãy quên lời.

Trường
Tết Trùng Cửu
10-23-2023

10/31/23

Mạn Đàm Phiếm luận - Tháng MA



Tháng 7 âm lịch vừa qua và tháng 10 dương lịch là "tháng ma" được lưu truyền xưa nay tại các nước Á Đông và Phương Tây.

Ngày trước, mỗi lần đến tháng 7 âm lịch, ba má tôi không cho tôi đi chơi vào ban đêm, lý do là: " đi đêm có ngày sẽ gặp ma." Vì âm phủ mở cửa thả hồn ma lên dương gian, nên rất dễ đụng đầu. Dù không gặp phải, tháng 7 âm phủ mở cửa toác hoác, cũng rất dễ đụng chạm.

Nhưng tại Hoa Kỳ, mỗi năm đến tháng 10 dương lịch, người ta nói nhiều chuyện về ma. Quảng cáo khắp nơi về ma quỷ yêu quái, thương xá trưng bày đủ kiểu quần áo mặt nạ của ma, dân chúng giăng kết màng nhện, treo sô kết tơ trước nhà, cố ý tạo một môi trường rùng rợn ma quái, thậm chí coi nhà mình như nhà ma để đón lễ.

Đêm cuối cùng của tháng 10, cha mẹ trang điểm con mình thành ma thành quỷ, rồi dẫn đi xin kẹo từng nhà. Có người còn nói: " Đêm tháng 10 phải thường xuyên ra ngoài, nếu may mắn sẽ có thể gặp được ma!"

Chuyện đời thay đổi nhanh chóng, ý niệm sợ ma không còn như xưa nữa. Trước đây nói đến ma, người ta sợ bỏ chạy; ngày nay nói đến ma, người ta lại tò mò thích nghe, thích tìm hiểu. Vì vậy, chuyện ma, sách ma, phim ma trở thành sản phẩm tiêu khiển thời thượng của con người.

Thực sự, ma quỷ có ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn hóa của dân tộc và sự an ninh của xã hội. Dân tộc tin có quỷ thần sẽ có một nền văn hóa phong phú, nhiều ý tưởng và sắc thái dồi dào; xã hội tin có ma quỷ thì tin có nhân quả, luân hồi và quả báo."Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo", làm tốt gặp tốt, làm xấu gặp xấu. Tin như vậy thì thiên hạ ít dám làm việc bất lương, xã hội tự nhiên tương đối an lành.

Dưới quan niệm cổ truyền, người ta xem những hồn ma như là "huynh đệ" của mình. Vì vậy, theo tập tục truyền thống của dân tộc Á Đông, rằm tháng 7 âm lịch là ngày Địa Ngục mở cửa thả hồn ma, mà chúng ta gọi là "huynh đệ" (好兄弟). Vì hồn ma bị hành hình đói khát quanh năm, nên ở dương gian vào ngày này, người ta thường bày biện nhiều thức ăn, mời anh em ăn một bữa hả hê. Nghi thức này gọi là "cúng cô hồn" (祭祀亡魂). Rồi đốt tiền giấy cứu tế, đồng thời mời sư sãi tụng kinh siêu độ, mong anh em bất hạnh đọa vào "ác đạo" sớm được siêu thoát, gọi là "phổ độ" (中元普度).

Theo quan điểm của Phật giáo, rằm tháng 7 âm lịch là lễ "Vu Lan" (盂蘭盆), Vu Lan là Phạn ngữ dịch âm, nghĩa là "giải đảo huyền" (解倒懸). Đảo huyền là chỉ thú vật bị treo ngược để chuẩn bị đem bán hoặc dùng làm vật cúng tế. Giải đảo huyền tức là giải cứu các loại súc vật. Ngày hôm đó, chúng ta chân thành lễ Phật, cúng dường tăng ni, dùng công đức này để cứu ác đạo chúng sinh được thoát khổ. Theo Kinh Vu Lan, rằm tháng 7 âm lịch cũng là ngày Bồ Tát Mục Kiền Liên xuống Địa Ngục cứu mẹ.

Tổng hợp những điểm nói trên, chúng ta thấy rằng rằm tháng 7 đúng là một ngày "hiếu đạo". Cúng dường tam bảo (Phật Pháp Tăng), hiếu kính cha mẹ, phổ độ quỷ thần, cứu giúp thú vật cũng đều xuất phát từ một chữ "hiếu".

Nói về Halloween tại các nước Tây Phương, theo truyền thuyết thì trong ngày này tất cả linh hồn đều trở lên thế gian. Người ta ăn mặc trang phục giống như ma để đồng hóa với các “anh em” của mình. Xưa kia còn có người để trái cây và thức ăn tại trước cửa hay sân sau để chiêu đãi hồn ma, không biết từ bao giờ diễn biến thành cách thức cho kẹo. Đốt đèn bí rợ trước cửa trong đêm tối là soi sáng đường về cho hồn ma, chúc “anh em” thượng lộ bình an.

Tất cả nghi thức trong ngày Halloween - mặc áo ma, cho bánh kẹo, đốt đèn bí rợ đều hàm chứa ý nghĩa "từ bi". Ngày cuối cùng của tháng 10 thực sự là một ngày "tình thương". Cúng tế hay cầu nguyện cho linh hồn đều biểu lộ tình thương trân quý của con người.

Theo Phật giáo, ma quỷ cũng là chúng sinh, họ cần tình thương và lòng từ bi, chứ không phải sợ sệt và xa lánh. Sau khi chết, con người đi vào luân hồi, không nhất thiết trở thành ma. Theo Kinh Lăng Nghiêm (楞嚴經):

Người có 7 phần tình dục, 3 phần trí tuệ, sau khi chết, trở thành thú vật.
Người có 9 phần tình dục, 1 phần trí tuệ, sau khi chết, trở thành ma quỷ.
Người hoàn toàn sống trong tình dục, sau khi chết sẽ đọa vào Địa Ngục.

Tham sân si là cội nguồn của tam ác đạo.

Vì vậy, ma quỷ là một tấm gương để chúng ta soi xét. Bởi người đời chìm đắm trong danh lợi quyền thế, say mê trong hồng trần tình dục, rằm tháng 7 và cuối tháng 10 là lúc để chúng ta tạm dừng lại và quay đầu nhìn lại tấm gương này, soi sáng khuôn mặt và nội tâm của mình. Nếu vẫn còn mang nặng tình dục, sân si giận hờn, thì đã cận kề ác đạo ma quỷ.

Trong Kinh Phật có kể nhiều chuyện về ma hầu đánh thức và cảnh giác lòng người.

"Kinh Luật Dị Tướng" (經律異相) có kể: Một người chết rồi, linh hồn trở về dùng roi đánh xác của mình, người bên cạnh thấy vậy liền hỏi: "Người này đã chết rồi, tại sao còn đánh đập xác của nó?"

Ma trả lời: "Nó là thân xác của tôi lúc trước, khi còn sống thì làm nhiều việc ác _ lường gạt trộm cắp, xúc phạm đàn bà, bất hiếu cha mẹ, không có từ bi, không trọng nhân nghĩa, keo kiệt không chịu bố thí. Sau khi chết, khiến tôi đọa vào âm giới làm ma quỷ, đau khổ vô cùng. Cái xác này quá tội lỗi và thối tha, cho nên đánh nó để bớt giận."

Vì vậy, tháng 7 âm lịch trở thành tháng ma, không phải là ma quỷ khiến cho người ta sợ hãi, mà là chúng ta phải biết sống với thái độ nghiêm cẩn và giữ giới điều. Nếu chúng ta có lòng sợ sệt và bất an là đi ngược lại ý nghĩa của Phật giáo, không đúng với tinh thần từ bi của nhà Phật.

Thực sự, tháng 7 cũng như tháng 10 là tháng rất tốt để chúng ta hồi tâm tỉnh thức. Chuyện ma quỷ đã ngầm chứa những chân lý của cuộc sống. Nhân ngày này, chúng ta tìm lại sự thanh tịnh và trí tuệ.

Tâm sáng tất Thiên Đàng, tăm tối tất Địa Ngục.

Mở rộng lòng từ bi, buông bỏ tham sân si là ngọn đuốc soi sáng và dìu dắt chúng ta đến con đường tu hành quang minh và tươi sáng.

Lý Trinh Trường tại tư thất
08-31-2023


10/15/23

Tình bạn - Hương quê





Quê ta có bóng dừa xanh
Có đàn cò trắng, có dòng nước non
Tình bạn năm xưa giữ tròn
Đổi thay mặn nhạt hàn ôn mấy người?

Thương nhau chín bỏ làm mười.
Giữ cho cuộc sống thắm tươi hiền hòa
Đắp bồi tình cảm nở hoa
Nghìn dặm xa cách chúng ta trông chờ.

Tình bạn là những vần thơ.
Tối về đắp gối ngâm nga vài lời
Tình bạn áo trắng một thời
Bây giờ áo bạc phai rồi vẫn treo.

Hạt giống tình nghĩa mang theo
Ước nguyện mãi mãi rải gieo suốt đời
Chúc nhau luôn nở nụ cười
Sống vui, sống thiện, làm người nghĩa nhân.

Chúc các bạn Lâm, Mỹ, Sanh, Minh, Lan một chuyến thăm viếng quê nhà và bạn xưa thật nồng ấm, bình an và vui vẻ!

Lý Trinh Trường K5

9/26/23

Giải trí cuối tuần - Xem phim "Cạo gió"

Cạo Gió


Cảm ơn anh K. chia sẻ phim truyện: Cạo Gió (刮痧).

Xin lược thuật câu chuyện như sau:

Một cụ già sinh sống tại Trung Quốc qua Mỹ sum họp với người nhà, một hôm ông cụ dùng cách thức y học cổ truyền trong dân gian cạo gió chữa bệnh cảm sốt cho cháu nội, thao tác cổ xưa lỗi thời ấy đã gây ra nhiều sự hiểu lầm của người ngoại quốc bao gồm bác sĩ bệnh viện, cơ quan giám sát quyền trẻ em, thậm chí các quan tòa và thẩm phán thực hiện quyền xét xử trong các vụ tranh tụng biện luận. Sự kiện đã mang cho gia đình đứa trẻ nhiều vấn đề hóc búa, phiền lụy, cha mẹ ruột bị truy tố về tội hành hạ ngược đãi trẻ con...nói sao cho xiết lý và lẽ.

Theo Đông Y, cạo gió là phương pháp chữa bệnh đã có từ lâu và lưu truyền trong dân gian như một bài thuốc thần kỳ, có hiệu quả đả thông kinh mạch, lưu thông khí huyết, giúp tăng cường hoạt động của hệ thống tuần hoàn.

Còn Tây y thì theo y học thực chứng, các phát biểu phải có nghiên cứu cụ thể. Vì vậy, họ cho rằng cạo gió là một việc làm phản khoa học, các vết đỏ bầm tím qua thao tác cạo gió là dấu vết của trận đòn roi, là bằng chứng của hành vi bạo lực ngược đãi.


Khác nhau ở một cái nhìn, đúng sai tốt xấu tâm mình sáng soi.

Sự kiện y học này khiến tôi liên tưởng đến một vấn đề tín ngưỡng. Trong xã hội hiện nay, còn rất nhiều người hiểu sai về Phật giáo, họ cho rằng Phật giáo là tiêu cực, yếm thế và dị đoan. Trong khi đó, Phật giáo là một tôn giáo lấy từ bi làm gốc, lấy nhẫn nhục làm hạnh, dùng tư bi hỷ xả kết duyên với chúng sinh.

Trong kinh Phật nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó được nghe, lòng tin khó phát”. Thật đúng như vậy! Phật giáo lưu truyền trên hai ngàn năm, đã ảnh hưởng rất sâu rộng trong văn hóa, tư tưởng của dân tộc. Vậy mà cho đến hôm nay, nhiều người vẫn còn xa lạ với Phật giáo. Thực trạng như vậy, không biết là nên buồn cho Phật pháp, hay buồn cho văn hóa nước nhà!

Phật giáo cũng như các tôn giáo khác đều khuyên người lánh ác hướng thiện, phá trừ mê muội. Là Phật tử quy y tam bảo, tôi luôn cảm thấy mình là người đi trên con đường chân chính, y giáo phụng hành. Nhưng với một số người khác, tôi là người đi vào con đường tiêu cực, bi quan, yếm thế, bất vấn thị phi. Những lời lẽ nghịch lý lắm lúc khiến tôi dở khóc dở cười, nên tôi luôn giữ thái độ im lặng trước sự đàm tiếu của thiên hạ, tôi thấy mình tin Phật là đúng, mà người khác chê cười tôi tin Phật cũng là đúng. Thanh giả tự thanh, trọc giả tự trọc, "Đạo bất đồng bất tương vi mưu"(道不同,不相為謀), tư tưởng, quan niệm khác nhau thì không cùng nhau bàn luận trao đổi được, hà tất biện bạch làm gì.

Đạo đời hai lối, mê giác chỉ là nhất niệm.


Phim truyện cạo gió cũng khiến tôi nghĩ đến triết lý cuộc sống :“Đừng lấy tiêu chuẩn của người khác ra hoạch định cuộc đời mình; đừng lấy tiêu chuẩn của chính mình để phán đoán người khác.”  

Mỗi người chúng ta, tùy theo hoàn cảnh sinh sống, truyền thống và thói quen—cấp tiến, bảo thủ, công giáo, phật giáo, xã hội—chúng ta nhìn chân lý và lý giải chân lý dưới một góc độ khác nhau. Nhìn một người đánh một người khác, kẻ thì cho đó là áp bức, kẻ thì cho đó là nghiệp duyên, kẻ thì cho đó là nhân quả, người thì nói là ý trời…

Vấn đề thường nảy sinh vì mỗi người thường cho là chỉ có cách lý giải của mình mới thật là chân lý, các lý giải khác là sai. Và thường đó là đầu mối của sự hiểu lầm, chia cách, tranh chấp và chiến tranh.


Vì vậy, không nên có cái nhìn hẹp hòi, chủ quan, như “thầy bói xem voi”. Mỗi người chúng ta là một cá thể riêng biệt tuyệt nhiên sẽ có nhiều góc nhìn khác nhau. nên chớ vội phán xét người khác khi chưa ở trong hoàn cảnh của họ. 


Cùng xem qua câu chuyện ngụ ngôn của hai con hổ, một con ở trong chuồng, một con nơi hoang dã. Hai con hổ đều cho rằng hoàn cảnh của bản thân mình không tốt, đôi bên đều ngưỡng mộ đối phương, thế là chúng quyết định thay đổi thân phận với nhau. Lúc mới bắt đầu, cả hai đều vô cùng vui vẻ, nhưng không lâu sau đó, hai con hổ đều không còn: 

Một con chết vì đói. Con hổ sống trong chuồng sau khi ra ngoài rừng núi, tuy hưởng được sự tự do thoải mái nhưng lại không có khả năng săn mồi để sinh sống.

Một con chết vì u sầu. Con hổ vào chuồng tuy không cần lo về miếng ăn mỗi ngày, nhưng lại mất đi sự tung tăng vẫy vùng nơi chốn sơn lâm.


Ngẫm nghĩ sự đời:

Có những lúc, mọi người nhắm mắt làm ngơ đối với hạnh phúc của chính bản thân mình, để rồi luôn để mắt đến hạnh phúc của những người khác. Thật ra, những gì mà mình đang có chính là những điều mà người khác phải ngưỡng vọng.

"Cái nhìn đa chiều", chúng ta sẽ có những nhận xét bao quát, tổng thể và biết suy nghĩ cho người khác, đem lại niềm hạnh phúc cho bản thân và mọi người xung quanh.

“Tầm nhìn bao dung”, chúng ta sẽ thấy mỗi một người đều vừa có điểm tốt vừa có điểm chưa tốt; dù còn khiếm khuyết nhưng vẫn có nhiều điều rất đáng trân trọng và đáng để ta học tập!


Đây chính là tiền đề để kết nối những mối quan hệ trở nên bền chặt và chân thành hơn.

Thực vậy, chuyện đời như một đồng tiền hai mặt, tương sinh tương hành:

"Bạn có thể phàn nàn vì hoa hồng có gai, hoặc bạn cũng có thể vui mừng vì gai có hoa hồng."


Trường K5

09-25-2023



Xem phim: Cạo gió

8/30/23

Hoằng Nhất Đại Sư

      


  Tống Biệt                                                       送别         
Trường đình ngoại, cổ đạo biên                    長亭外 古道邊
 Phương thảo bích liên thiên                         芳草碧連天 
 Vãn phong phất liễu địch thanh tàn             晚風拂柳笛聲殘
 Tịch dương sơn ngoại sơn                           夕陽山外山 
 Thiên chi nhai, địa chi giác                         天之涯 地之角 
 Tri giao bán linh lạc                                     知交半零落 
 Nhất biều trọc tửu tận dư hoan                    濁酒盡餘歡 
 Kim tiêu biệt mộng hàn                              今宵别夢寒

Diễn giải bài thơ:

Một túp lều nho nhỏ, khiêm tốn tọa lạc giữa bãi cỏ xanh mướt, bên cạnh một con đường mòn xinh xắn, quanh co uốn khúc đến tận chân trời, xa xa những ngọn núi chồng chất lên nhau, gió đêm nhẹ lay cành liễu vi vu, hòa cùng tiếng kêu não lòng của kẻ ở người đi. Tất cả mọi cuộc tiễn đưa đều không hẹn ngày tái ngộ, trong thời chinh chiến, mỗi một cuộc tiễn đưa là sự vĩnh biệt. Nhấp cạn chung rượu lòng ôn lại tuổi thơ hồn nhiên, vô tư; nghe lòng bồi hồi, xao xuyến để mong được một lần trở về quê xưa, ngồi bên thềm cũ cùng bạn tri giao dốc bầu tâm sự.

Lý Thúc Đồng viết bài thơ trên vào một đêm đông năm 1914, tên bài thơ là "Tổng Biệt", một tuyệt tác bất hủ với thời gian. Có người cho rằng nếu có thể viết được một bài thơ từ như vậy, thì dẫu có chết ngay đi cũng không ân hận. Đó là một sự đánh giá tột bậc đối với Lý Thúc Đồng.

Cuộc đời của Lý Thúc Đồng là một câu chuyện truyền kỳ về mặt nhập thế lẫn xuất thế. Ngài sống trọn vẹn 38 năm với duyên hồng trần; đồng thời công đức viên mãn trong sự tu tập trì giới 24 năm tại cửa Phật thanh tịnh. Nhiều người đều biết, thời niên thiếu Lý Thúc Đồng là một tài tử phong lưu thường tới lui chốn đèn hồng tửu sắc, phù phiếm xa hoa; nửa đời sau lại trở thành một vị cao tăng chân tu trong giới "Luật Tông", một tông môn trì giới nghiêm cẩn, tu hành khắc khổ nhất so với các tông môn khác trong Phật giáo.

Đời sống của Lý Thúc Đồng như truyện thần thoại truyền kỳ đã làm rung động biết bao lòng người kim cổ. Nhiều người vẫn chưa hiểu rõ tại sao Lý Thúc Đồng đang sống trong cảnh giàu sang phú quý lại đột nhiên độn tích Không Môn, dứt khoát đoạn tuyệt với hồng trần, thậm chí người vợ dẫn hai con thơ, nước mắt đầm đìa quỳ trước cổng chùa suốt 3 ngày đêm, Ngài cũng đứt ruột xé gan để dòng nước mắt xóa mờ đi mọi cảnh tượng bên ngoài, nhất quyết không rời phòng thiền để gặp vợ con. Ngài nhất định cắt đứt mọi sự vấn vương với hồng trần tục lụy. Đó là lạnh nhạt bạc bẽo hay là từ bi buông xả. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu câu chuyện của Hoằng Nhất đại sư, sau đó mỗi người sẽ tìm được đáp án của riêng mình.

Hoằng Nhất đại sư tục danh Lý Thúc Đồng, sanh ngày 23-09-1880 trong một gia đình quý phái ở Thiên Tân, một trong bốn thành phố lớn nhất của Trung Quốc. Gia đình buôn bán muối, muối là nhu yếu phẩm hàng đầu dưới sự quản thúc của nhà nước vào thời Mãn Thanh Trung Quốc. Thương gia về nghiệp vụ muối phải là quan lớn hoặc dòng dõi quý tộc. Về sau thân phụ của Lý Thúc Đồng còn kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng, tài sản kếch xù, là gia đình giàu nhất tại Thiên Tân. Lý Thúc Đồng là công tử giàu có bậc nhất đương thời, ngay từ khi ra đời đã sống trong nhung lụa. Lý Thúc Đồng thông minh xuất chúng học rất giỏi, sáu tuổi đọc được tuyển tập thơ văn cổ ngữ, tám tuổi đọc tứ thư ngũ kinh, mười ba tuổi thông thạo thư pháp trong lĩnh vực nghệ thuật và văn hóa Trung Quốc.

Sau khi thân phụ qua đời, Lý Thúc Đồng cùng mẹ đến định cư Thượng Hải. Thượng Hải là thành phố phồn thịnh xa hoa bậc nhất của Trung Quốc. Nếp sống hoa lệ muôn hồng nghìn tía khiến con người quay cuồng trong cơn lốc xa hoa và vòng xoáy của thời đại. Thời trẻ của Lý Thúc Đồng cũng không ngoại lệ, với tố chất thông minh, học giỏi, giàu có, điển trai, đa tài đa nghệ... nên khi vừa đặt chân đến Thượng Hải, Lý Thúc Đồng đã tạo nên một cơn địa chấn, từ phòng trà ca nhạc đến sân khấu kịch nghệ, chàng giao du mật thiết với các nữ nghệ sĩ xinh xắn, đắm chìm trong mê đồ của chốn phồn hoa náo thị. Với con người hào hoa phóng khoáng như vậy, thường dễ đọa lạc vào một nếp sống hoan lạc vô độ. Nhưng với Lý Thúc Đồng thì không hẳn như vậy, lương tri cho chàng cảm thấy sự hoang đàng vô độ trong cuộc vui chơi rượu chè trác táng; ý thức được sự trống vắng thê lương sau khi người tản tiệc tan. Trong cái thân xác vật dục bề ngoài luôn ẩn tàng một linh hồn khao khát tìm về chân lý của cuộc sống. Thế nên, lúc 15 tuổi, Lý Thúc Đồng viết nên hai câu thơ:

Nhân sinh do tựa tây sơn nhật, phú quý chung như thảo thượng sương (人生猶似西山日,富貴終如草上霜.) Đời người ngắn ngủi như mặt trời đang khuất dần vào hướng tây, phú quý mỏng manh tựa giọt sương mai trên ngọn cỏ. 

Người ta thường nói, “thiếu niên bất thức sầu tư vị” (少年不識愁滋味), tuổi trẻ đâu biết vị khổ sầu. Đúng ra 15 tuổi là tuổi mộng mơ, là tuổi chắp cánh dần vào giấc mộng hồng. Tuy nhiên Lý Thúc Đồng lại có tư tưởng ngược với tuổi đời của ông, tựa như ông đã chuẩn bị sẵn hành trang cho một cuộc quật khởi trong tương lai để giã từ với phú quý phồn hoa khi ông vừa ở tuổi 15.

Lúc Lý Thúc Đồng 26 tuổi, được tin mẹ ra đi không một lời giã từ, đau như xé lòng, Lý Thúc Đồng tự đổi tên mình thành Lý Ai (李哀,) Ai là bi ai, để tỏ lòng đau xót của một người con trước sự mất mát quá lớn lao như vậy.

"Còn mẹ nhiều kẻ yêu vì,
Một mai mẹ khuất ai thì thương con."

Qua một cú sốc lớn mất mẹ hiền, và sau khi chu tất việc an tán mẹ năm 26 tuổi, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời của Lý Thúc Đồng. Từ giã quê hương, Lý Thúc Đồng tìm đường du học sang Nhật Bản, mở rộng tầm mắt học hỏi thêm những tư tưởng trào lưu tân tiến. Ông chuyên tâm về các môn học nghệ thuật văn hóa và trình diễn, đồng thời cũng bắt đầu truy cầu cuộc sống về thế giới nội tâm, ông đem hết tất cả tình cảm, tâm huyết và nỗi sầu nhớ mẹ ký thác vào sự học hành tại chốn xứ lạ quê người.

Năm năm miệt mài trong nghệ thuật hội họa và âm nhạc phương Tây tại Trường Đại Học nghệ thuật Đông Kinh “Tokyo”, đạt được một số thành quả và tiếng vang. Năm 1910, Lý Thúc Đồng trở về nước để khai triển sự nghiệp của mình, cũng trong lúc ấy, việc kinh doanh của gia đình đi vào ngõ cùng, gia đình khánh tận. Kiếp đời mê mang 30 năm, đây chính là lúc Lý Thúc Đồng tỏ rõ tài năng và chí lực của mình để tự tạo cho mình một chỗ đứng vững vàng mà mọi người phải công nhận.

Ông giữ chức dạy học tại Trường Cao đẳng Công nghiệp Thiên Tân và Trường Nghệ thuật âm nhạc Thượng Hải, đồng thời cũng là chủ bút nhật báo Thái Bình Dương. Người là một nhạc gia nổi tiếng, là một tay thư pháp có hạng, thông thạo về thơ văn, từ phú. Người cống hiến rất nhiều và có thành tựu rực rỡ trong ngành nghệ thuật Trung Quốc. Người ảnh hưởng và đào tạo nhiều nghệ thuật gia nổi tiếng như họa sĩ Phong Tử Khải, âm nhạc gia Lưu Chất Bình, nhà thư pháp Tiền Quân Đào, Đại sư tranh thủy mặc Phan Thiên Thọ… Có thể nói rằng Lý Thúc Đồng đã lên đến tột bậc trong mọi lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật. Tâm lý con người thường cảm thấy bơ vơ cô độc khi đi đến điểm cao nhất của cuộc sống, như chiếc thuyền nan lênh đênh chân trời mặt biển tìm không ra bến bờ.

Một cơ hội ngẫu nhiên khi ở tuổi 39, Lý Thúc Đồng nội trú trong chùa Định Huệ Hàng Châu 17 ngày đêm và tập pháp "đoạn thực"(nhịn ăn một thời gian đặc biệt nào đó trong việc tu hành) để giữ thân tâm thanh tịnh. Trong thời gian này, dưới sự huân tập của tiếng mộc ngư chuông chùa, Lý Thúc Đồng cảm thấy bình yên thanh tịnh và tâm trí như chợt lóe sáng. Nếp sống đạm bạc và trang nghiêm của người xuất gia như thể thức tỉnh tâm hồn đang mê đắm nơi bể khổ trở về cõi yên lành. Người ý chừng thấy được một lối thoát cho sinh mạng vô thường của cõi đời; tìm được một cách sống để thân tâm được an trú trong hồng trần tục lụy.

Ngày 15/01/1918, Lúc 39 tuổi, Lý Thúc Đồng chính thức xuống tóc xuất gia tại chùa Hổ Bào Định Huệ (虎跑定慧寺), quy y Điểu Ngộ pháp sư, được ban pháp danh Diễn Âm, hiệu Hoằng Nhất.

Nửa đời phú quý nửa đời tăng, từ nay không còn Lý Thúc Đồng. Kể từ đó, trên thế gian đã không còn tài tử tuyệt thế Lý Thúc Đồng biết làm thơ, tinh thông âm nhạc, hội họa, thư pháp, hí kịch, triện khắc kia nữa, mà chỉ có Hoằng Nhất đại sư, một trong tứ đại cao tăng nổi tiếng đương thời.

Sau khi quy y cửa Phật, người vợ Nhật dẫn theo đứa con thơ, nghìn dặm xa xôi đến Hàng Châu, ôm theo một tia hy vọng sau cùng, mong chồng đừng bỏ rơi mình mà xuất gia.

Một buổi sớm mai trên mặt nước Tây Hồ sương mù dày đặc, hai chiếc thuyền đi về phía nhau.


Người vợ gọi to: “Thúc Đồng…”

Lý Thúc Đồng: “Xin hãy gọi tôi là Hoằng Nhất”.

“Hoằng Nhất đại sư, xin hãy cho tôi biết yêu là gì?”

“Yêu, chính là từ bi.”

Cuối cùng, người vợ vặn hỏi trong đau đớn: Đại sư có thể từ bi với tất cả người đời, Tại sao lại chỉ khiến tôi đau khổ?”

Hoằng Nhất đại sư im lặng khá lâu rồi quay mũi thuyền rời đi. Người vợ nhìn chiếc thuyền nhỏ xa dần ôm mặt khóc nức nở.

Đạo đời hai lối, mê giác chỉ là nhất niệm.

Có giác ngộ mới sinh ra lòng từ bi, Đạo Phật chủ trương yêu thương gắn liền với sự giác ngộ. Yêu quý một ai đó thì nên dẫn dắt người ấy hướng về chánh đạo, giúp đỡ người ấy ngày càng hoàn thiện và chín chắn hơn. Trong cuộc sống chúng ta luôn gặp phải những tình huống khó khăn trong sự lựa chọn một giải pháp thích đáng để vẹn toàn cả đạo và đời. Phàm phu thì sống theo duyên nghiệp, trí giả thì tìm giải pháp cho sự cứu cánh của cuộc sống.

Thế gian an đắc song toàn pháp, bất phụ Như Lai bất phụ khanh (世間安得全法,不負如來不負卿). Thế gian làm gì có chuyện mọi thứ đều như ý vừa không phụ lòng chư Phật vừa không phụ lòng giai nhân?

Câu chuyện xuất gia của Hoằng Nhất đại sư khiến tôi nghĩ đến Đức Phật Thích Ca.

Ngài là thái tử của một tiểu vương quốc tại Ấn Độ. Qua trải nghiệm thực tế về sinh lão bệnh tử, Ngài giác ngộ sự vô thường trong cõi đời, sau một thời gian suy ngẫm, Ngài nhất quyết từ bỏ tất cả sự vấn vương của tục lụy: phụ vương, ngôi vàng, vợ con, cuộc sống vinh hoa phú quý và hạnh phúc của một hoàng tử, khoác lên mình chiếc áo vàng của người tu sĩ, từ đó bắt đầu cuộc sống tu hành của người xuất gia cầu đạo. Khi đó Ngài mới 19 tuổi.

Hoằng Nhất đại sư xuất thân tại một gia đình quyền quý ở Thiên Tân, là công tử giàu sang bậc nhất đương thời. Từ nhỏ sống trong hoàn cảnh phú quý nhung lụa, nhưng những biến thiên và tụ tán trong đời sống thăng trầm khiến Ngài ý thức được sự vô thường tạm bợ của cuộc đời. Qua một thời gian suy ngẫm và truy tầm chân lý. Ngài quyết định xuống tóc xuất gia, giã từ tất cả sự phú quý phồn hoa của hồng trần, trở nên một vị chân tu trong giới Luật tông, một tông môn khó tu nhất trong Phật giáo. Khi đó Ngài 39 tuổi.

Theo quan niệm cá nhân của tôi, nhân duyên xuất gia của Phật Đà và Hoàng Nhất đại sư rất giống nhau, cả hai Ngài đều sớm nhìn thấu sự hư ảo của cõi đời và truy tầm sự cứu cánh của cuộc sống. Sau cùng công đức viên mãn, Phật Đà được tôn là Bổn Sư Thích Ca, Hoàng Nhất đại sư trở nên Tổ thứ mười một của Luật Tông Nam Sơn.

Tuy nhiên, một số người vẫn cho rằng sự xuất gia của Phật Đà mang sắc thái từ bi; còn sự xuất gia của Hoằng Nhất đại sư xem chừng như có tính cách nhẫn tâm vì bỏ ngang vợ con.

“Đừng lấy tiêu chuẩn của người khác ra hoạch định cuộc đời mình; đừng lấy tiêu chuẩn của chính mình để phán đoán người khác.”

Thực ra, cuộc sống vốn là một chuỗi dài của sự giã từ, giã từ tuổi xuân, giã từ người thân, giã từ bạn bè, giã từ lợi danh... Tất cả mọi sự gặp gỡ cuối cùng cũng là giã từ, khác biệt chỉ là cách thức của sự giã từ mà thôi. Thực vậy, Chúng ta chẳng biết làm gì hơn là đành chịu khi đối mặt với những sự hợp tan của nhân duyên trong cuộc đời.

Mãi cho đến hiện nay, nhiều người vẫn chưa am tường sự lựa chọn của Hoằng Nhất đại sư, tại sao có thể đang từ chốn xa hoa nhất rồi bước vào cuộc sống nghiêm ngặt nhất. Đối với mọi thắc mắc của người đời, Hoằng Nhất đại sư giữ thái độ im lặng, cúi đầu niệm Phật. Một cánh cửa Thiền chia ra hai thế giới giác mê. Thực ra, cảnh giới của Hoằng Nhất đại sư quá cao, phàm phu tục tử làm sao thấu hiểu, mà cũng không cách nào thấu hiểu.

Trong khi đó, học trò của Hoằng Nhất đại sư là Phong Tử khải có lối phân tích rất hữu lý và cho rằng sự xuất gia của thầy mình là chuyện đương nhiên. Vì nhân sinh của con người, có thể phân thành ba tầng: Một là đời sống vật chất, hai là đời sống tinh thần, ba là đời sống tâm linh. Đời sống vật chất là cái ăn cái mặc, đời sống tinh thần là văn nghệ học thuật, đời sống tâm linh là tôn giáo vậy.

Hoằng Nhất đại sư xuất thân từ gia đình quý phái, không thiếu thốn gì về vật chất, cho nên Ngài tìm đến tầng kế tiếp, Hoằng Nhất đại sư xuất sắc cả về phương diện học thuật, nghệ thuật và mỹ thuật. Tâm hồn của con người sẽ rất cô độc trơ trọi khi mọi lĩnh vực đều đạt đến một đỉnh cao tột bậc. Từ đó Ngài khao khát trong sự truy tầm chân lý của cuộc sống và cội nguồn của sinh mệnh.

Từ mê đến giác, từ phàm nhập thánh, tuy xa mà gần, nó không phải là nghìn trùng xa cách mà chỉ là một niệm trong tâm mà thôi.

Ngày 13-10-1942, duyên đời của Hoằng Nhất đại sư đã đi đến chung điểm, 63 năm không dài, nhưng Ngài để lại cho đời sau nhiều sự tích và gương sáng rực rỡ về tâm linh trí tuệ. Trước khi viên tịch, Ngài để lại bốn chữ "Bi Hân Giao Tập"(悲欣交集), lời ngắn ý dài.

Bi là bi thương (đau xót), hân là hân hoan (vui mừng), Bi Hân Giao Tạp nghĩa là buồn vui lẫn lộn.

Có người nói, Ngài xót thương cho những tháng ngày phóng đãng buông tuồng trong nửa phần đời trước, khi Ngài còn đắm say ngụp lặn trong mê đồ của danh lợi và dục vọng; cũng có người nói Ngài đền bù vì phải chuộc tội cho quá khứ mà Ngài đã cố tình hay vô ý làm tổn thương bao nhiêu người, nên buộc mình lựa chọn Luật tông, một tông môn khắc nghiệt nhất, khó tu nhất trong đạo Phật. Thực ra, tất cả lời giải thích cho sự xuất gia của một vị cao tăng chân tu đều quá miễn cưỡng và gượng gạo.

Nhà Phật bảo: Tứ Đại Giai Không, bất dĩ vật hỉ, bất dĩ kỷ bi (四大皆空,不以物喜,不以己悲). Không vì ngoại vật mà vui, không vì bản thân mà buồn. Chúng ta làm sao đủ trí sáng để hiểu nỗi vui buồn của Hoằng Nhất đại sư. Tuy nhiên, nếu nhìn kĩ bên cạnh "Bi Hân Giao Tập" còn có 3 chữ nhỏ “Kiến Quan Kinh” (見觀經), phải chăng Ngài muốn nhắc nhở người sau, nên căn cứ trên ý nghĩa của Kinh Phật để giải thích 4 chữ này.

Nhà Phật lấy từ bi làm tâm nguyện, Hoằng Nhất đại sư từ bi thương xót những ai giống mình lúc còn trẻ, vẫn đang đắm chìm trong dòng xoáy của danh lợi và vật dục; vui mừng cho mình sớm giác ngộ được chân lý của Phật pháp, để có thể kết duyên từ bi với tất cả chúng sinh trong cõi ta bà.

Câu chuyện truyền kỳ của Hoằng Nhất Đại Sư tựa như Bổn Sư Phật Thích Ca, đều đi từ cuộc sống sung túc nhất đến con đường tu hành khắc khổ nhất, đó là một sự chuyển biến long trời lở đất, cuối cùng đạt đến cứu cánh viên mãn, soi sáng con đường cho người đời sau muốn truy tầm chân lý của cuộc sống.

LT Trường K5

08-23-2023


Bài đọc thêm Link bài hát: 
Dream of home and mother (John Pond Ordway)

7/21/23

Trở Về Mái Nhà Xưa

Cám ơn anh K. chia sẻ video "để nhớ lại kỷ niệm ngày xưa", nói lên nỗi niềm thương nhớ quê hương bản quán, mảnh đất mà ta đã sinh sống, đã trưởng thành, đã ấp ủ bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, được mất, hạnh phúc và xót xa ... 

Hầu như, những ai có chút ít "tâm hồn hoài cổ", nhất là về tuổi điểm sương, đều có lúc chạnh lòng, mà "đê đầu tư cố hương"(低頭思故鄉), cúi đầu nhớ quê xưa. Còn hết thảy những ai tha phương cầu thực, rời quê đi lập nghiệp mưu sinh chốn xứ lạ quê người, thì hẳn nỗi nhớ quê hương lại càng ẩn hiện trong lòng thường xuyên hơn, mãnh liệt hơn.


Sài Gòn-Chợ Lớn năm xưa, mọi nơi từ sáng sớm cho đến đêm khuya, cũng đều nghe tiếng rao của gánh hàng bán bưng. Có những tiếng rao quen thuộc đến nỗi chỉ vắng một hôm cũng khiến người mua thắc mắc lo lắng cho người bán rong, để rồi ngày hôm sau gặp nhau vui mừng bắt tay chào hỏi; có những tiếng rao dường như mang theo cả thân phận nghèo khó, rầm rì cuộc mưu sinh cho nhu cầu sinh hoạt tối thiểu hằng ngày; có những tiếng rao đi sớm về khuya, chắt chiu mơ ước về một ngày mai tươi sáng giữa chốn phương xa...


Thương nhớ thay, những chuỗi ngày tuy cuộc sống còn khó khăn, nhưng mọi người đều cưu mang giúp đỡ lẫn nhau như bầu bí chung giàn; đất nước còn đa nạn nhưng tình người thì luôn dạt dào niềm nở như trăng sao trên trời ...


Nhớ lại những món ăn một ngày nào, là tôi nhớ lại biết bao là êm ái và dịu ngọt, mà những món ăn tuy tầm thường bé nhỏ ngày xưa ấy, nhưng lại là món quà vô giá của những tháng ngày yên vui sống mãi trong tâm tư của mọi người.


Một trong những món ngon nức tiếng dành cho giới bình dân Sài Gòn Chợ Lớn là món bò vò viên, hình ảnh các xe bán bò vò viên từ lâu đã đi vào ký ức của nhiều thế hệ. Hẳn nhiều vị cao niên còn nhớ một chén hủ tiếu bò vò viên trong nước lèo có vị ngọt của củ cải trắng, thêm vài giọt dầu mè, chấm với tương đen và ớt sa tế, vừa nhai chóp chép vừa húp nước lèo là sướng như lên mây. Ước gì được trở lại làm con nít như ngày xưa để ngồi trên chiếc ghế xếp đặt ven đường đầu làng cuối xóm rồi ăn một tô bò vò viên cho hả lòng hả dạ.


Kỷ niệm làm đẹp cuộc sống. Ngoài món bò vò viên, còn có những món quà tuyệt diệu của tuổi thơ mà bây giờ chỉ còn lưu lại trong chúng ta hương vị ngọt ngào của một thời đã xa mãi mãi...


Quả thật, thuở học trò không mấy ai là không thèm ăn quà vặt, riêng tôi lúc nhỏ thì thích nhất:

- Kẹo Bông Gòn, cho vào miệng lớp bông đường tan nhanh để lại vị ngọt ram ráp trên đầu lưỡi như một chút tiếc nuối.

- Xôi đậu xanh và Xôi nếp than, trét một lớp nhưn đậu xanh, rưới một muỗng mỡ hành, rắc một lớp đường cát trắng và chan lên một muỗng nước cốt dừa. Ôi! thơm ngon hấp dẫn làm sao!

- Gỏi khô bò, một nắm đu đủ bào, vài sợi khô bò nhỏ xíu, một chút rau thơm thái sợi, chan đẫm nước giấm và nước tương, thêm chút ớt đỏ cay cay,  ăn hết đu đủ húp cạn hết cả nước giấm mà vẫn còn thấy thòm thèm!

- Bò Bía, những cuốn nhỏ bánh tráng có ít củ sắn và cà rốt thái sợi, vài lát Lạp Xưởng, một ít tép ruốc, một ít trứng chiên vàng cắt sợi, một lá xà lách, vài ngọn rau thơm, ăn với tương ngọt và tương ớt có ít đồ chua. Ngon tuyệt vời!


Hiện nay tôi ăn chay trường, tại đây tôi chỉ hồi tưởng lại những cảm nghĩ lúc bấy giờ một cách trung thực, gói ghém cả những ngọt ngào của quá khứ và kỷ niệm, của một thời với những tháng ngày yên vui mãi mãi trong tâm tư ý niệm...


"Mong ước trở về lại tuổi thơ

Cắp sách đi học còn dại khờ

Mái nhà lụp xụp ngôi trường cũ

Quê nghèo khoai sắn vậy mà mơ


Tôi nhớ canh cà cá kho môn

Xúm xít ăn chung để sinh tồn

Góc bếp tuy nhỏ nhưng đầm ấm

Có tiếng cười đùa lẫn yêu thương


Giờ đây lưu lạc sống tha phương

Cảnh cũ người xưa thấm đoạn trường

Nỗi niềm rung cảm nơi tiềm thức

Lòng buồn dạ héo mãi nhớ thương


Ở nơi xứ người chỉ thân đơn

Nhớ lại tuổi thơ tâm chờn vờn

Bao năm phiêu bạc miền đất khách

Đâu nữa quê nhà vẫn là hơn!"


Chúc các bạn cuối tuần vui vẻ.

Trường

07-21-2023