Showing posts with label Khoa học-Kỹ thuật. Show all posts
Showing posts with label Khoa học-Kỹ thuật. Show all posts

12/20/23

Các nhà khoa học gióng lên hồi chuông cảnh báo sau khi loài cá hồi tìm thấy địa điểm sinh sản mới: 'Một dấu hiệu đáng ngại'

Rick Kazmer Chủ nhật, ngày 17 tháng 12 năm 2023 

Cá hồi/salmon đã bắt đầu bơi về hướng Bắc Bắc cực để đẻ: một dấu hiệu rất đáng lo ngại! Lý do là vì cá hồi phải tìm về chỗ ấm để đẻ, tức là Bắc cực đang nóng lên nhanh gấp 4 lần so với các nơi khác trên trái đất.

Phải chờ để xem hiện tượng này sẽ gây hậu quả thế nào!

Trong cốt truyện gợi nhớ đến câu chuyện cổ tích “ Goldilocks ”, cá hồi chum đang tìm kiếm những vùng nước ấm “thích hợp”.

Theo một báo cáo từ Wired, do hành tinh này quá nóng, món cháo hoàn hảo theo tục ngữ của chúng nằm ở các khu vực Bắc Cực xa xôi mà trước đây chưa từng được biết đến bởi loài cá di cư nổi tiếng với khả năng sinh sản dồi dào của chúng, theo một báo cáo từ Wired , gọi sự phát triển mới là “một dấu hiệu đáng ngại”.

Các nhà nghiên cứu được phỏng vấn trong câu chuyện vẫn chưa biết khu vực sinh sản thay đổi của cá hồi sẽ tác động đến hệ sinh thái như thế nào.

Chuyện gì đang xảy ra ?

Theo tạp chí Nature , Bắc Cực đang nóng lên nhanh gấp 4 lần so với phần còn lại của hành tinh . Các chuyên gia cho rằng sự hiện diện của cá hồi chum ở xa hơn về phía bắc chỉ là một dấu hiệu khác của sự nóng lên chưa từng có.

Peter Westley, nhà sinh thái học tại Đại học Alaska, nói với Wired : “Điều dường như đang xảy ra là những con sông Bắc Cực này mới bắt đầu trở nên phù hợp”.

Tại sao nó lại quan trọng?

Các nhà sinh vật học vẫn chưa biết số lượng cá hồi tăng lên ở các con sông phía bắc xa xôi sẽ tác động như thế nào đến các loài khác mà người dân địa phương trong khu vực phụ thuộc vào. Các nhà nghiên cứu nói với Wired rằng tất cả trứng cá hồi (cá hồi đẻ một đống trứng rồi chết, như một phần trong vòng đời của chúng) có thể cung cấp thức ăn cho các loài khác. Theo nghĩa đó, những người mới đến có thể được xem như một sự trợ giúp.

Tuy nhiên, di cư là một phần của sự thay đổi sinh thái tổng thể, bao gồm băng tan và tăng trưởng xanh hơn, cùng nhiều vấn đề khác.

Một mối quan tâm liên quan đến lượng nước dư thừa do băng tan tạo ra. Wired đưa tin các chuyên gia lo ngại dòng chảy mới sẽ làm suy thoái đất, trộn lẫn nước trên mặt đất với các dòng suối ngầm.

Nhiều thảm thực vật hơn - thậm chí cả những cây bụi cao hơn - có thể có những tác động. Chúng có thể giữ tuyết trên đất, cách nhiệt mặt đất và ngăn không cho mặt đất bị đóng băng.

Wired đưa tin : “Điều đó có thể đẩy nhanh quá trình tan băng vĩnh cửu, từ đó sẽ giải phóng khí mêtan làm nóng hành tinh” .

Những gì đang được thực hiện để giúp đỡ?

Các nhà nghiên cứu đang đặt các cảm biến ở Bắc Cực để đo nhiệt độ nước. Điều này sẽ giúp họ đánh giá xem các vùng nước trên thực tế có thích hợp với sự hiện diện ngày càng tăng của cá hồi hay không, theo Wired.

Giảm ô nhiễm không khí làm hành tinh nóng lên là rất quan trọng để ngăn chặn tình trạng tan băng ở Bắc Cực. Chuyển sang xe điện hạn chế ô nhiễm. Tuy nhiên, Cơ quan Kiểm soát Ô nhiễm Minnesota lưu ý rằng việc tắt máy xe thay vì để xe ở chế độ chờ, cũng như đảm bảo hệ thống ống xả được sửa chữa tốt, có thể giúp đầu đốt xăng sạch hơn một chút.

Trồng và chăm sóc cây là một cách khác để giúp đỡ. Theo Tổ chức Arbor Day , trong một năm, một cây trưởng thành hấp thụ hơn 48 pound ô nhiễm không khí.

10/9/23

BYD – TESLA: CUỘC ĐUA SONG MÃ CỦA HAI GÃ KHỔNG LỒ XE ĐIỆN

Nam Nguyễn - Vn Economy

Nếu bạn đang ở Mỹ và nghĩ về xe điện, cái tên đầu tiên xuất hiện trong đầu bạn gần như chắc chắn là Tesla Inc. Nhưng thực tế, BYD là cái tên duy nhất trên thế giới đang là đối trọng với Tesla.



Trên thực tế, năm 2022, BYD Co. đã bán được nhiều xe hơn Tesla trên toàn cầu. Đây không phải là một phép so sánh hoàn hảo vì Tesla đều là xe điện, trong khi BYD bán cả xe điện và xe plug-in hybrid. Tuy nhiên, các công ty này hiện là hai người chơi lớn nhất trong lĩnh vực mà nhiều nhà sản xuất ô tô trên toàn cầu đang theo đuổi.

Nhà phân tích Corey Cantor của BloombergNEF giải thích thành công của BYD trong thị trường đang bùng nổ và lý do tại sao giờ đây nó có thể dễ bị đẩy lùi khi các thị trường cạnh tranh tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng chiến lược là xe điện và sản xuất pin.

Tháng trước, Ấn Độ đã bác đề xuất của BYD về việc hợp tác xây dựng một nhà máy sản xuất xe điện trị giá 1 tỷ USD với một công ty địa phương. Trong khi đó, chính quyền Biden đã công bố khoản đầu tư hàng tỷ USD và các biện pháp hỗ trợ khác cho ngành công nghiệp pin và xe điện của Mỹ.

Cantor nói: “BYD đã phát triển rất nhanh và hoạt động dưới tầm kiểm soát. Bây giờ mọi người đang chú ý”.

Năm ngoái, BYD đã vượt qua Tesla để trở thành nhà sản xuất xe điện lớn nhất thế giới với hơn 1,85 triệu xe điện được bán ra. Đó là một mức tăng đáng kinh ngạc so với 200.000 chiếc được bán vào năm 2019.

Tuy nhiên, như Cantor lưu ý, đó không hẳn là một phép so sánh quá hợp lý vì hầu hết xe điện của BYD là xe plug-in hybrid trong khi Tesla vẫn là hãng bán xe điện chạy bằng pin lớn nhất, với 1,3 triệu chiếc được bán vào năm 2022.

Hai nhà sản xuất ô tô đang tranh giành một thị trường toàn cầu đang bùng nổ với doanh số bán 10,5 triệu xe điện mới vào năm 2022. Tuy nhiên, Trung Quốc là thị trường lớn nhất tính theo tỷ lệ phần trăm xe chở khách mới, đạt doanh số gần 6,1 triệu xe điện chở khách trong năm và mang lại quy mô cho các đối thủ như BYD.

Ngoài việc chiếm ưu thế về tốc độ tăng trưởng và doanh số bán hàng, Trung Quốc cũng đang dẫn đầu về công nghệ pin, với việc các công ty trong nước đang giảm chi phí không ngừng. Cantor cho biết, trong khi giá trung bình của pin lithium-iron đã tăng lần đầu tiên vào năm ngoái, theo số liệu của BNEF, “kiến thức tích lũy hàng thập kỷ về pin” của Trung Quốc đã cho phép các công ty như BYD có khả năng cạnh tranh cực cao trong việc hạ giá chúng xuống.

Đồng thời với việc BYD tăng cường sản xuất, đã có sự bùng nổ về xe điện và đầu tư vào pin ở Mỹ, một phần được xúc tác bởi Đạo luật Giảm lạm phát. Khoản đầu tư được trợ cấp công khai ở mức cao này là một nỗ lực để phù hợp với việc Trung Quốc đang nuôi dưỡng ngành công nghiệp xe điện nội địa của mình, bao gồm các biện pháp như cung cấp các ưu đãi tài chính trực tiếp cho các nhà sản xuất xe điện cho mỗi đơn vị bán được.

Theo Cantor, một trong những điều mà các công ty Mỹ đang nhận ra là họ phải coi trọng vấn đề pin hơn. Ông nói thêm: “Tôi nghĩ rằng nhiều nhà sản xuất ô tô đã tránh xa phần pin, giống như họ đã tránh xa bộ phận sạc điện trong một thời gian quá dài. Vì vậy tôi nghĩ đó là bài học lớn, bài học rút ra: Trung Quốc đầu tư vào mảng pin và các công ty ô tô đang hiểu rằng đó là chìa khóa cho sản phẩm EV cốt lõi".

Tất nhiên, BYD và Tesla không phải là những công ty duy nhất sản xuất xe điện. Tại Trung Quốc, thị trường nội địa Trung Quốc vẫn có tính cạnh tranh cao với số lượng công ty sản xuất xe điện đã giảm xuống còn khoảng 100 công ty đăng ký từ 500 công ty vào năm 2019.

Cantor nhận định: “Khi tôi nói chuyện với những người ở Mỹ, Tesla thực sự đã vượt xa người dẫn đầu. Còn ở Trung Quốc, bạn có tất cả mọi người và các nhà sản xuất ô tô mới như NIO đang bán xe điện. Nhưng ngay cả GM cũng có liên doanh mini bán trăm nghìn chiếc”.

Công ty có trụ sở tại Thâm Quyến hiện đang làm mưa làm gió ở Trung Quốc, truất ngôi Volkswagen AG để trở thành thương hiệu xe hơi bán chạy nhất quốc gia trong quý đầu tiên của năm 2023 - một sự phá vỡ đáng kể sự thống trị của Volkswagen kể từ ít nhất là năm 2008. Một lý do cho sự thay đổi: Trong quý đó, BYD chiếm 39% doanh số bán xe năng lượng mới (xe điện hoặc hybrid) - hoặc 12% tổng doanh số bán xe du lịch - tại Trung Quốc, thị trường ô tô lớn nhất thế giới, dựa trên dữ liệu từ Hiệp hội xe khách Trung Quốc.

Steve Westly, cựu giám đốc Tesla, hiện là đối tác quản lý của Westly Group, một nhà đầu tư giai đoạn đầu về năng lượng và di động, cho biết: “Theo bất kỳ tiêu chuẩn nào, BYD đã xuất thân từ hư không để trở thành một trong những công ty xe hơi lớn trên thế giới. Một số người sẽ nói rằng họ đã vượt qua Tesla”.

Được điều hành bởi người sáng lập kiêm Chủ tịch Wang Chuanfu, BYD, viết tắt của cụm từ “Build Your Dreams”, là một ví dụ cụ thể về giấc mơ Trung Hoa của chính quyền Trung Quốc, bao gồm cả việc trở lại vị trí trung tâm của các vấn đề kinh tế thế giới. Với những chiếc xe hiện đã được bán tại 53 quốc gia và khu vực trên thế giới, BYD là nhà sản xuất ô tô lớn nhất mà hầu hết mọi người chưa từng nghe đến.

Một trong những điểm mạnh lớn nhất của BYD đến từ chiến lược tích hợp theo chiều dọc của công ty. Ban quản lý cho rằng việc sản xuất nhiều bộ phận hơn trong nhà dẫn đến kiểm soát chi phí tốt hơn và phương tiện rẻ hơn. Không giống như nhiều nhà sản xuất ô tô khác, BYD sản xuất pin của riêng mình (hiện là nhà sản xuất tế bào pin số 2 thế giới) và chất bán dẫn của riêng mình, điều này phần lớn bảo vệ họ khỏi những rắc rối của chuỗi cung ứng đã cản trở các nhà sản xuất khác trong đại dịch Covid-19.

Đọc thêm:

10/2/23

Giải Nobel Y Khoa 2023 vinh danh hai nhà khoa học giúp phát triển vac-xin chống Covid

Thanh Hà - Rfi tiếng Việt ngày 02.10.2023

Giải Nobel Y Khoa 2023 về tay nhà nghiên cứu người Hungrary, bà Katalin Kariko, và đồng nghiệp người Mỹ, Drew Weissman. Ủy ban Nobel hôm nay 02/10/2023 vinh danh hai nhà khoa học đã có những đóng góp to lớn chống Covid nhờ phát minh công nghệ ARN thông tin.


Nhà khoa học người Hungary Katalin Kariko (P) và khoa học gia người Mỹ Drew Weissman đoạt giải Nobel Y Học 2023. © AP - Business Wire

Nhờ phát minh này mà vac-xin chống Covid đã được cho ra đời trong một thời gian « ngắn kỷ lục », giúp ngăn chặn một trong những mối « đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe con người ».

Hai nhà nghiên cứu Katalin Kariko và Drew Weissman cùng làm việc tại Đại Học Pennsylvanie - Hoa Kỳ. Cả hai từng đoạt nhiều giải thưởng danh giá, như Lasker Award hồi năm 2021. Từ năm 2005, họ đã bắt đầu nghiên cứu công nghệ thông tin ARN và nhờ đó các viện bào chế dược phẩm Pfizer/BioNTech và Moderna đã nhanh chóng cho ra đời vac-xin chống Covid, đối phó với virus SARS-CoV-2.

Giải thưởng Y Khoa là giải thưởng đầu tiên của mùa Nobel. Giải Nobel Văn Học và Hòa Bình rất được chú ý trong bối cảnh địa chính trị căng thẳng hiện nay. Hai giải thưởng nói trên sẽ được công bố vào Thứ Năm và Thứ Sáu 05-06/10.



Xem thêm video:

9/29/23

Nấm-rễ cộng sinh: ‘‘Bí quyết 400 triệu năm tuổi’’ có giúp nhân loại thoát đại họa khí hậu?

Nghe phần âm Thanh:
Đại thảm họa chồng chất, do Trái đất bị hâm nóng, đang cận kề. Nhiệt độ toàn cầu sắp ‘‘tăng quá 1,5°C’’ so với thời tiền công nghiệp. Sự phụ thuộc nặng nề vào năng lượng hoá thạch ‘‘đã mở cánh cửa địa ngục với nhân loại’’, như cảnh báo của Liên Hiệp Quốc. Viễn cảnh đen tối ngày một khó tránh khỏi. Tuy nhiên, cái khó làm ló cái khôn. Ít năm gần đây ‘‘nấm rễ’’ đang được hy vọng như một giải pháp chống biến đổi khí hậu hàng đầu, có thể giúp nhân loại thoát hiểm.
Nấm rừng mùa thu (ảnh minh họa)

“Nấm rễ” là gì ? Vì sao nhiều hy vọng được đặt vào “nấm rễ” ? Tạp chí của RFI tổng hợp thông tin về chủ đề này. Khách mời của Tạp chí hôm nay là giáo sư Marc-André Selosse, Viện bảo tàng Quốc gia về Lịch sử Tự nhiên (MNHN), Paris, một chuyên gia trong lĩnh vực nấm rễ cộng sinh xứ ôn đới. Ông cũng là tác giả cuốn “L’Origine du monde : une histoire naturelle du sol à l’intention de ceux qui le piétinent” (tạm dịch là “Nguồn gốc của thế giới : Một lịch sử tự nhiên của đất, dành cho những ai bước đi trên đó mà không hay’’).

“Tấc đất” còn giá trị hơn cả “tấc vàng”. Bởi đất là ‘‘nguồn gốc” của sự sống, đất “nuôi dưỡng” sự sống, “bảo vệ” sự sống. “Đất” có ý nghĩa sống còn với sự sống như vậy, nhưng bản thân cuộc sống của đất, cuộc sống trong lòng đất lại là điều còn rất ít được biết đến, và rất ít được chú ý bảo vệ. “Nấm rễ cộng sinh” - một phần căn bản làm nên sự sống của rừng – cũng chính là một giải pháp chống biến đổi khí hậu hàng đầu, theo ghi nhận của giáo sư Marc-André Selosse, chuyên gia về nấm truffle (hay “nấm cục”), một trong các loài nấm rễ cộng sinh nổi tiếng ở Pháp, và ở châu Âu. Giải pháp căn bản cho cuộc chiến chống biến đổi khí hậu nằm ngay dưới chân ta, ngay trong lòng đất.

Thiếu “nấm rễ”, cây còi cọc


Giới khoa học đã phát hiện ra vai trò của nấm rễ như thế nào ? Trả lời RFI Việt ngữ, giáo sư Marc-André Selosse tóm lược:

‘‘Phát hiện về chuyện này diễn ra vào năm 1885. Vào thời điểm đó, Albert Bernhard Frank, một nhà thực vật học người Phổ (nước Đức hiện nay), được bộ trưởng Nông Nghiệp nước này đặt câu hỏi : vì sao nấm truffle luôn mọc dưới gốc cây ? Albert Bernhard Frank đã phát hiện ra rằng bộ phận tồn tại ổn định của nấm truffle nằm sâu trong lòng đất, với vô vàn các sợi có kích thước hết sức nhỏ bé. Cây nấm, bộ phận nổi trên mặt đất, trên thực tế chỉ là ‘‘cơ quan sinh sản’’, cho phép phát tán các bào tử nấm. Các bộ phận siêu nhỏ tồn tại ổn định nằm trong lòng đất nối liền với các rễ cây, nhà khoa học người Phổ gọi đây là hiện tượng ‘‘nấm rễ cộng sinh’’ (mycorhize). Không chỉ có nấm truffle, mà hàng nghìn loài nấm cũng tồn tại theo một cơ chế tương tự. Khi phát hiện nhiều “nấm rễ cộng sinh” ở cây sồi, Albert Bernhard Frank đặt câu hỏi : Phải chăng các loài nấm như vậy giúp cây phát triển ? Năm 1892, ông viết một bài báo, với nhận định : nếu cắt bỏ nấm rễ của cây thông, loại cây này sẽ phát triển không tốt… (…) Khi người phương Tây di thực các loại thông đến những vùng đất ở Nam Mỹ và châu Phi, thoạt tiên, thông không thể phát triển được nếu không có các loại nấm rễ. Đối với các loại cây thông phát triển tốt ở Nam Mỹ, đến mùa, người ta thấy trên rễ chúng cùng các loại nấm như ở châu Âu’’.

Quan hệ cộng sinh Cây và Nấm. 

Cây cung cấp ‘‘đường’’ cho nấm, nấm ‘‘đi chợ’’ giúp cây


Nấm rễ cộng sinh sống trên các mô rễ của cây chủ, sống nhờ vào cây chủ, nhưng tham gia vào thúc đẩy sự sống của cây chủ, trái ngược với các loại nấm hoại sinh, nấm phân giải chất hữu cơ sống nhờ vào các thực thể hữu cơ chết, phân huỷ, hay các loại nấm ký sinh xâm nhập vào cơ thể vật chủ, gây bệnh và thậm chí tiêu diệt vật chủ. Nấm rễ cộng sinh cụ thể như thế nào với cây? Giáo sư Marc-André Selosse giải thích :

‘Trong thế kỷ 20, nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy nấm rễ nhận được từ cây chất đường, chắc chắn là các loại vitamin, và trong nhiều trường hợp cả các axit béo, tức các sản phẩm có được nhờ ở tiến trình quang hợp của cây. Ngược lại, nấm làm việc công việc ‘‘đi chợ’’ trong lòng đất, hay nói cách khác lấy từ đất các chất azot, photphat, potasium, các chất vi lượng, nước… để tự nuôi nó, nhưng cũng để nuôi cây (…) Trong lòng đất có rất nhiều chất, nhưng tồn tại rất tản mát. Nấm rễ nhỏ li ti làm công việc hút lấy các nguồn dưỡng chất, với hiệu suất cao hơn nhiều so với các rễ cây to. Nấm rễ cũng làm cả công việc bảo vệ rễ cây. Khi quan sát rễ cây ở các vùng ôn đới, cả Nam bán cầu cũng như Bắc bán cầu, và một số nơi ở xứ nhiệt đới, nấm rễ làm nên một thứ vỏ bọc bao xung quanh rễ cây. Có một số loại thông hay bạch đàn không thể mọc được trên đất đá vôi chẳng hạn, nếu không có nấm cộng sinh bao bọc rễ. Nấm rễ giúp cây trong việc tiếp nhận calcium, điều hoà lượng nước tiếp nhận, và cả chống lại các vi sinh vật có hại tấn công rễ. Và có một điều tinh vi, quan trọng khác mới được phát hiện gần đây, đó là nấm rễ giúp cả việc tăng cường hệ miễn dịch của cây, đối với toàn bộ cây, không chỉ với rễ cây. Tóm lại, nấm rễ bảo vệ cây, và và hoạt động tương trợ này diễn ra có tổ chức, bởi khi bảo vệ cây, nấm cũng bảo vệ chính kho thực phẩm của mình’’.

Không có “nấm” thì không có rừng

Nấm rễ cộng sinh mang lại sự sống cho đại đa số các hệ sinh thái trên mặt đất là điều mà giới khoa học, và một số định chế quốc tế ghi nhận từ khá lâu nay. Hội Đồng Toàn Châu Âu (Council of Europe), trong một văn bản năm 2001, liên quan đến nấm, làm rõ Phụ lục 1 Công ước Bern (tức Công ước Bảo tồn Thiên nhiên hoang dã ở châu Âu, có hiệu lực từ năm 1982), nhấn mạnh: “Các loài nấm rễ tham gia vào nhiều quan hệ cộng sinh : khoảng 85% cây thân gỗ có cơ chế cộng sinh nấm rễ, và đây là điều quan trọng nhất trong các chức năng sinh thái của chúng – không có nấm rễ thì sẽ không có rừng, và không có các hệ sinh thái tự nhiên có tổ chức khác’’.

Châu Âu có hai tổ chức toàn châu lục bảo vệ nấm rễ : Hội đồng châu Âu Bảo tồn Nấm (The European Council for the Conservation of Fungi - ECCF), thành lập từ năm 1985, và Hiệp hội chuyên về Nấm rễ châu Âu (European Mycological Association - EMA), thành lập năm 2003. Không kể các hiệp hội quốc gia nhiều nước tồn tại từ lâu đời. Hiệp hội nấm rễ Pháp (Société mycologique de France) xuất hiện từ năm 1884, cùng thời với phát hiện của nhà nghiên cứu người Phổ.


Từ rừng bị hâm nóng...

Tuy nhiên, tại châu Âu và với quốc tế nói chung, trong một thời gian dài nấm rễ về cơ bản vẫn chỉ được nhìn nhận về phương diện đa dạng sinh học, không trực tiếp liên quan đến chuyện biến đổi khí hậu. Cuộc chiến bảo vệ đa dạng sinh học diễn ra gần như độc lập với cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh mẽ đến sinh giới. Đa dạng sinh học ngày càng trở thành nạn nhân của việc trái đất bị hâm nóng. Rừng bị biến đổi khí hậu làm cho suy yếu đến mức mà nhiều nơi rừng trở thành nguồn phát thải khí CO2, thay vì là nơi hấp thụ. Vai trò của nấm rễ với biến đổi khí hậu ngày càng trở thành chuyện được quan tâm hàng đầu trong các nghiên cứu về rừng. Nấm rễ được hy vọng như một cứu tinh .

Nhìn chung ‘‘nấm rễ’’ có vai trò như thế nào trong việc hấp thu khí thải CO2 ? Về vấn đề này, giáo sư Selosse lấy trường hợp rừng ở khu vực ôn đới làm ví dụ giải thích:

‘‘Nấm rễ có hai vai trò trong việc hấp thu khí thải CO2. Vai trò gián tiếp và vai trò trực tiếp. Vai trò gián tiếp khi nấm rễ giúp cây phát triển. Khi cây hút khí thải CO2 chính là nhờ sự trợ giúp của nấm rễ. Vai trò thứ hai là trực tiếp hấp thụ cac-bon. Các nấm rễ ở xứ ôn đới rất phàm ăn cac-bon. Nấm rễ tiếp thu đến 40% lượng cac-bon được cây hấp thu trong quá trình quang hợp. Đây là một con số cực lớn. Đặc điểm thứ hai là nấm rễ xứ ôn đới chậm chuyển hoá : trước hết do nấm rễ sống lâu hơn và khi chết, xác của chúng cũng phân huỷ rất chậm’’.

... đến thừa nhận ‘‘vai trò then chốt với khí hậu’’ của nấm rễ

Năm 2019 lần đầu tiên giới khoa học tiến hành một nghiên cứu quy mô về đa dạng sinh học toàn cầu, với tổng cộng 55 triệu cây, hơn 32.000 giống loài, đại diện cho 97% diện tích trái đất, với sự tham gia của khoảng 250 nhà khoa học từ 50 quốc gia. Nghiên cứu Global Forest Biodiversity Initiative (GFBI), với sự tham gia của Viện nghiên cứu nông học vì phát triển Pháp (Cirad) trong ban điều hành, khẳng định ‘‘vai trò then chốt trong việc điều chỉnh khí hậu’’ của quan hệ cộng sinh nấm rễ với cây nói riêng và giữa các vi sinh vật với cây nói chung.

Vai trò to lớn của quan hệ nấm rễ cộng sinh với ‘‘điều chỉnh khí hậu’’ được nhìn nhận cùng lúc với việc giới nghiên cứu chỉ ra quan hệ cộng sinh nấm rễ này lại đang bị chính biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ. Chưa kể tác động của việc rừng bị phá huỷ, bị khai thác theo lối công nghiệp hóa, đất đai bị can thiệp của con người làm suy thoái với phân bón, thuốc trừ sâu, đô thị hóa… Theo điều tra nói trên của GFBI, khoảng 10% nấm “ngoại cộng sinh” (ectomycorrhizal fungi), tức loại nấm rễ sống bao quanh rễ cây (sống chủ yếu ở xứ ôn đới), như giáo sư Selosse nêu trên, có nguy cơ biến mất trước năm 2070. Mà đây lại chính là họ nấm rễ có vai trò then chốt hơn cả đối với việc hấp thu khí thải gây hiệu ứng nhà kính.

Rừng bị khai thác theo lối công nghiệp (coupe à blanc/ Clearcutting) : Cây chết, các mạng nấm rễ trong lòng đất cũng bị tiêu diệt

Thế giới nấm, ‘‘điểm quyết đấu'’ của cuộc chiến Khí hậu-Đa dạng sinh học

Biến đổi khí hậu và các hoạt động của con người đe dọa các hệ sinh thái, đảo lộn đa dạng sinh học toàn cầu ngay trong lòng đất - nền tảng của đời sống sinh giới. Tuy nhiên cũng chính biến đổi khí hậu và các biến động ghê gớm khác cũng làm nổi bật tầm quan trọng hàng đầu của các hệ vi sinh vật nhỏ bé, mong manh trong đất đối với sự ổn định của khí hậu. Việc nhận diện đầy đủ sự tồn tại đa dạng và vô cùng tinh vi của chúng, cùng nỗ lực bảo vệ chúng đang dần dần trở thành một ‘‘điểm quyết đấu’’ mới của cuộc chiến kép - bảo vệ khí hậu, bảo vệ đa dạng sinh học .

Nấm rễ và thế giới các vi sinh vật nói chung lâu nay nằm ở vị trí chiếu dưới trong cuộc chiến bảo vệ đa dạng sinh học. Trong danh sách đỏ năm 2022 của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), chỉ có 640 loài nấm, trong lúc có hơn 62.000 động vật và hơn 60.000 thực vật (iucnredlist.org).Cho đến nay, các nhà khoa học mới chỉ xác định được khoảng vài chục nghìn loài nấm rễ, trong lúc số chủng loại nấm rễ toàn cầu có thể có đến hàng trăm nghìn loài, thậm chí hàng triệu. Quan hệ cộng sinh rễ - nấm không phải chỉ là giữa một loại nấm với một cây mà nhiều nấm cộng sinh với cùng một cây, và các nấm rễ lại có quan hệ liên thông tạo thành một mạng lưới liên kết rộng lớn, cây cối liên hệ với nhau thông qua nấm rễ.

Nhà sinh học Toby Skiers (giáo sư Đại học Vrije Universiteit Amsterdam, Hà Lan) ví các mạng lưới nấm rễ như “bộ xương của đất”. Nhờ mạng lưới sợi nấm, đất trở nên thông thoáng hơn, ít bị nén chặt hơn, ổn định hơn. Xói mòn ít hơn và giữ nước tốt hơn. Nấm rễ là cả một thế giới mênh mông. Dưới lòng đất, các sợi nấm mỏng manh, vô hình, nhưng có tổng số chiều dài ghê gớm : hàng cây số sợi nấm ẩn trong một centimet khối đất, và nếu tính trên diện tích toàn thế giới, chiều dài tổng cộng của các mạng sợi nấm của 10cm đất đầu tiên dưới lòng đất tương đương với 450 x 1024 km, tức bằng khoảng một nửa chiều rộng của dải Ngân Hà của chúng ta.

Tại nhiều khu vực, nấm rễ có thể chiếm đến 50% tổng trọng lượng sinh khối. Nhà nấm rễ học Stephan Declerck, phụ trách kho lưu trữ nấm rễ lớn nhất thế giới (Đại họcUCLouvain, Bỉ), cho biết cơ thể sống lớn nhất thế giới hiện nay chính là nấm. Một ‘‘con’’ nấm thuộc loài Armillaria Ostoyae, ở công viên quốc gia Oregon (miền tây nước Mỹ), nặng khoảng 600 tấn, trải rộng trên diện tích 8,9 km² trong lòng đất, có tuổi đời từ ít nhất 2.400 năm đến 8.000 năm. Cả một thế giới kỳ lạ, phi thường nằm ngay dưới bàn chân ta.

SPUN thám hiểm ‘‘vũ trụ’’ các mạng lưới “nấm rễ” toàn cầu

Thực tế nấm rễ cộng sinh chính là “điểm mù của cuộc chiến chống biến đổi khí hậu’’, như nhận định của các nhà khoa học nhóm SPUN (Society for the Protection of Underground Network), do khoa học gia Hà Lan Toby Skiers và một số đồng nghiệp chủ trì. Chương trình lập bản đồ toàn cầu đầu tiên về thế giới chuyên về các loài nấm trong lòng đất, khởi sự từ 2021. SPUN hy vọng tìm thấy chính trong “điểm mù” tri thức đó các bí quyết giúp nhân loại thoát hiểm đại thảm họa khí hậu. Dự án SPUN chủ trương lập bản đồ chi tiết đầy đủ về nấm rễ toàn cầu, tìm hiểu về khả năng cất giữ CO2 khổng lồ của loài sinh vật đặc biệt này, bảo vệ các mạng lưới nấm rễ bị đe dọa.

Kế thừa cơ sở dữ liệu khổng lồ GlobalFungi (tập hợp các thành tựu về nghiên cứu nấm rễ toàn cầu trong 20 năm qua), nhờ ở một phần ở trí thông minh nhân tạo và kỹ thuật mô hình hoá (của các chuyên gia Crowther Lab - Đại học Bách khoa quốc gia Zurich), chương trình lập bản đồ nấm rễ toàn cầu 150 triệu km² (của SPUN) về cơ bản có thể “về đích trong hơn 5 năm tới”, theo chuyên gia Pháp Francis Martin, thành viên Hội đồng khoa học của SPUN.



Cây cối trên cạn: Hậu duệ của ‘‘cuộc kết hôn giữa nấm và tảo biển’’

Trong một kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí Current Biology, trên quy mô toàn cầu, nấm rễ có thể hấp thu đến 13,2 tỷ tấn CO2, chiếm khoảng một phần ba lượng khí thải toàn cầu. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết thực vật có liên quan đến nấm rễ cộng sinh có thể hấp thụ lượng cac-bon nhiều gấp 8 lần so với thực vật không có liên hệ với nấm. Hiện tại, những dự báo về khả năng hấp thu CO2 to lớn của nấm rễ vẫn chỉ là ước tính, với độ sai số ắt là khá cao, bởi vũ trụ các mạng lưới nấm rễ trong lòng đất là điều còn rất ít được biết đến.

Dù sao có một điều chắc chắn, được giới chuyên môn đồng thuận, đó là ‘‘cơ chế cộng sinh nấm rễ’’ chính là điều đã giúp cho sự sống nở rộ trên đất liền. Cơ chế cộng sinh này đã từng cho phép “hình thành các hệ sinh thái trên cạn”. Nhờ đó mà các loài tảo biển có thể di cư thành công lên mặt đất cách nay từ 485 triệu đến 443 triệu năm, giai đoạn mà các nhà cổ sinh vật học gọi là kỷ ‘‘Ordovic’’ .

Khác hẳn với đại dương, nơi tảo cùng lúc có được ánh sáng, nước, cac-bon, khoáng chất. Đất liền khác hẳn. Ánh sáng và cac-bon có trong không khí, trong lúc nước và khoáng chất nằm trong lòng đất. Để thành công trong cuộc di thực này, tảo biển đã “ký kết một thoả ước hôn nhân lâu dài” với nấm. Tảo cấp cho nấm đường và các axit béo, nấm cấp cho tảo các khoảng chất nhờ các hệ thống sợi mỏng manh với khối lượng nhỏ hơn rễ đến hàng trăm lần, nhưng vươn xa. Đây chính là lý do khiến quan hệ cộng sinh nấm rễ liên quan đến đại đa số cây cối. Cây cối trên mặt đất là các hậu duệ của cuộc hôn nhân quyết định này.

Đối với nhà sinh học tiến hoá Toby Skiers, ‘‘phá hủy quan hệ đối tác lâu đời hàng trăm triệu năm này cũng chính là tự huỷ hoại thực sự khả năng của con người ngăn chặn biến đối khí hậu”.

“Hệ thống internet trong rừng'' và những Cây Mẹ linh thiêng

Những hiểu biết sâu hơn về đời sống các vi sinh vật trong lòng đất ngày càng làm lộ rõ sự kỳ diệu khôn cùng của các hệ sinh thái. Nhà sinh thái học kỳ cựu về rừng, bà Suzanne Simard, người Canada, từ rất sớm, vào năm 1997, đã từng ví các mạng lưới nấm rễ cộng sinh như một “hệ thống internet” ngầm trong lòng đất, liên kết cả một rừng cây. Cây cối nhờ vào hệ thống này mà có thể “tương trợ” nhau, “các cây mẹ” hỗ trợ đàn cây con. Đây là điều gây cảm hứng lớn cho đạo diễn James Cameron khi làm bộ phim Avatar, ca ngợi sự huyền nhiệm của rừng, mối quan hệ tâm linh nối kết cộng đồng thổ dân với Mẹ Cây linh thiêng (xem thêm phần ''Cây cối hợp tác qua mạng lưới nấm rễ:‘‘Trực giác khoa học’’, ‘‘Niềm tin tâm linh’’ hay ‘‘Khái quát hóa vội vã’’ ?'').



Bí quyết diệu kỳ của “nấm-rễ” : Loài người có kịp rút các bài học?

Trong cái rủi có thể có cái may. Cuộc đại khủng hoảng về môi trường, khí hậu cũng có thể là cơ hội để nhân loại đương đại trở lại với những bài học căn cốt của thiên nhiên. Tạp chí xin khép lại với một nhận định của giáo sư Marc-André Selosse. Trong cuốn ‘‘Jamais seul. Ces microbes qui construisent les plantes, les animaux et les civilisations’’ (tạm dịch là‘‘Không bao giờ cô độc. Các vi sinh vật kiến tạo nên các loài thực vật, động vật và các nền văn minh’’) (2017), nhà sinh học, chuyên gia nấm rễ Viện bảo tàng Quốc gia về Lịch sử Tự nhiên Pháp, kêu gọi chúng ta thứ tạm thời rời bỏ cách nhìn khô cứng coi mỗi ‘‘thực thể’’ là một tồn tại biệt lập (The Conversation.com).

Trong thế giới các vi sinh vật, mọi thứ ‘‘trước hết là tương tác’’, liên tục trong tương tác. Ranh giới giữa thực thể này và thực thể khác rất khó xác định. Trong thế giới ‘‘nấm rễ cộng sinh’’, khó có thể nói chắc đâu là cây, đâu là nấm. Đường biên hết sức co giãn. Nấm rễ thông qua các protein nhỏ bé ‘‘làm biến đổi sự vận hành của các tế bào cây, tác động đến quá trình hoạt hóa thông tin di truyền chứa trong gien (hay ‘‘biểu hiện gien’’)’’ . Một ‘‘thực thể cây’’, thông qua các mạng lưới sợi nấm, trao đổi dinh dưỡng và cả thông tin với các cây hàng xóm, và quá trình cứ thế tiếp tục. ''Thực thể cây mở rộng'' kiểu như vậy có thể liên quan đến toàn bộ một khu rừng, hay một đồng cỏ. Trong thế giới đó, ‘‘mỗi vi sinh vật là một giao điểm trong cả một mạng lưới tương tác khổng lồ’’, mênh mông như ‘‘đại dương’’.

Cái thế giới nhỏ bé vô cùng ấy cũng là một thế giới mang trong mình một sứ mạng khổng lồ : duy trì sự cân bằng sinh thái, sự ổn định của khí hậu trên hành tinh. Cuộc đại khủng hoảng khí hậu – môi sinh cận kề buộc nhân loại phải trở lại với cái thế giới ấy, để tìm học những bí quyết diệu kỳ, đã từng kiến tạo nên sự sống trên mặt đất từ hàng trăm triệu năm nay - các điều kiện sống đã cho phép ra đời nền văn minh của con người. Liệu nhân loại còn đủ thời gian để lãnh nhận trước khi những đại khủng hoảng dồn dập ập tới?

Trọng Thành




Bài đọc thêm:

9/14/23

Alibaba ra mắt mô hình AI Tongyi Qianwen *

Tracy Qu (Thượng Hải), ngày 13.09.2023 SCMP

Alibaba ra mắt mô hình AI (Artificial intelligence) Tongyi Qianwen ra công chúng để cạnh tranh với Baidu, Tencent và các công ty công nghệ lớn khác của Trung Quốc.

    Tập đoàn Alibaba đã công bố mô hình ngôn ngữ lớn (LLM large language model), Tongyi Qianwen, sẽ được tích hợp trên các chức năng kinh doanh của Alibaba. Theo tuyên bố của công ty, khách hàng cũng sẽ được cấp quyền truy cập vào chương trình song ngữ này, có khả năng sử dụng tiếng Anh và tiếng Trung.

  • Logo Tongyi Qianwen nhìn thấy trên màn hình điện thoại thông minh. Ảnh: Shutterstock

  • Đơn vị điện toán đám mây của Tập đoàn Alibaba Group đã ra mắt công chúng mô hình ngôn ngữ lớn (LLM = large language model)Tongyi Qianwen, sau một loạt động thái tương tự của các công ty công nghệ địa phương khác đã nhận được sự chấp thuận của chính phủ để triển khai các dịch vụ thương mại giống ChatGPT .


  • Trong một bài báo đăng trên WeChat hôm thứ Tư, Tập đoàn Alibaba cho biết họ nhằm mục đích “để mọi người bình thường và doanh nghiệp được hưởng lợi từ LLM”, công nghệ làm nền tảng cho các chatbot trí tuệ nhân tạo (AI) tiên tiến như ChatGPT của OpenAI. Alibaba Cloud đã bắt đầu thử nghiệm beta Tongyi Qianwen vào tháng 4. Kể từ đó, Alibaba Cloud đã hợp tác với các đơn vị khác của Alibaba, chẳng hạn như nền tảng thương mại điện tử Taobao và công cụ truyền thông công việc DingTalk, cũng như các công ty bên ngoài như thương hiệu điện thoại thông minh Oppo, để đào tạo LLM của riêng họ hoặc phát triển ứng dụng dựa trên Tongyi Qianwen, Alibaba Cloud cho biết.

    Chính phủ Trung Quốc vào cuối tháng 8 đã dỡ bỏ sự kiểm soát chặt chẽ đối với các đối thủ ChatGPT đầy tham vọng của đất nước, bật đèn xanh cho một số dịch vụ AI tổng quát sẽ được phát hành ra công chúng tại một thị trường đông đúc, nơi ChatGPT và Bard của Google chưa có mặt chính thức . Nó diễn ra hai tuần sau khi chính quyền ban hành các quy định quốc gia về công nghệ.

    Các dịch vụ được phê duyệt bao gồm Ernie Bot của gã khổng lồ tìm kiếm internet Baidu, cũng như các dịch vụ từ chuyên gia AI SenseTime, liên doanh mới Baichuan của người sáng lập Sogou Wang Xiaochuan và công ty khởi nghiệp Zhipu AI được nhà nước hậu thuẫn, cùng nhiều dịch vụ khác. 

    Gã khổng lồ về trò chơi điện tử và truyền thông xã hội Trung Quốc Tencent Holdings cũng đã ra mắt mô hình nền tảng AI Hunyuan vào tuần trước.

  • Tập đoàn Alibaba đang nâng AI lên một trong hai trọng tâm chiến lược chính của mình , theo một lá thư nội bộ gửi cho nhân viên vào thứ Ba bởi Giám đốc điều hành mới Eddie Wu Yongming, người vào Chủ nhật cũng đã đảm nhận vị trí người đứng đầu Alibaba Cloud khi cựu chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành tập đoàn Daniel Zhang Yong bất ngờ từ bỏ vai trò của mình tại đơn vị đám mây.

  • Wu viết: “Trong thập kỷ tới, tác nhân thay đổi quan trọng nhất sẽ là sự gián đoạn do AI mang lại trên tất cả các lĩnh vực”.

  • Alibaba Cloud, dự kiến ​​sẽ tách thành một công ty độc lập, niêm yết công khai vào năm tới theo kế hoạch tái cơ cấu sâu rộng của công ty mẹ, đã chứng kiến ​​những thay đổi nhân sự đáng kể trong những tháng gần đây.

    Theo những người quen thuộc với vấn đề này, Wang Jian, người sáng lập Alibaba Cloud và được coi là người đặt nền móng công nghệ cho sự nổi lên của Alibaba như một gã khổng lồ thương mại điện tử, đã trở lại làm nhân viên chính thức vào tháng 5.

Chu Cảnh Nhân, người từng giữ chức phó giám đốc viện nghiên cứu nội bộ Học viện Damo của Alibaba, đã được bổ nhiệm làm giám đốc công nghệ tại Alibaba Cloud vào tháng 12, cùng thời điểm Zhang trở thành quyền chủ tịch đơn vị.

 *Tongyi qianwen=通義千問 (giản thể >通义千问), Hán Việt: thông nghĩa thiên vấn. Nghĩa : thông hiểu ý nghĩa của hàng ngàn câu hỏi.

Bài liên QuanAlibaba rolls out ChatGPT rival, Tongyi Qianwen, for its business apps

5/31/23

Nỗi lo ‘máy khôn hơn người’

May 30, 2023
Hiếu Chân/Người Việt

Một nhóm các nhà lãnh đạo công nghệ Mỹ vừa cảnh báo hôm Thứ Ba, 30 Tháng Năm, rằng công nghệ trí khôn nhân tạo (artificial intelligence – AI) mà họ đang phát triển một ngày nào đó sẽ tạo ra mối đe dọa sinh tử cho nhân loại và do vậy nó phải được coi là một nguy cơ xã hội ngang bằng với dịch bệnh và chiến tranh nguyên tử.

Ông Samuel Altman, tổng giám đốc công ty OpenAI, điều trần trước Ủy Ban Tư Pháp Thượng Viện Hoa Kỳ hôm 16 Tháng Năm, nói về AI, tập trung vào việc quản lý trí khôn nhân tạo. (Hình minh họa: Win McNamee/Getty Images)

Làm giảm rủi ro bị diệt chủng vì AI phải là một ưu tiên toàn cầu bên cạnh những rủi ro ở quy mô toàn xã hội khác, chẳng hạn như đại dịch và chiến tranh nguyên tử.” Đó là lời cảnh báo súc tích, chỉ một câu – được đưa ra trong lá thư ngỏ của Trung Tâm Vì An Toàn AI (Center for AI Safety), có chữ ký của 350 nhà quản lý doanh nghiệp, nhà nghiên cứu, và kỹ sư trong lĩnh vực trí khôn nhân tạo, được đăng lại trên nhật báo The New York Times – quả là đáng lo ngại, giữa lúc mọi người đã mất ăn mất ngủ với những vấn đề thời sự nóng, ví dụ như nguy cơ chiến tranh nguyên tử ở Ukraine.

Trong số người ký có ông Sam Altman, giám đốc điều hành OpenAI – cha đẻ của ứng dụng ChatGPT đang làm mưa làm gió trên thế giới từ cuối năm ngoái đến nay; ông Demis Hassabis, giám đốc điều hành chương trình DeepMind của Google – cha đẻ của ứng dụng AlphaGo từng đánh bại các kỳ thủ giỏi nhất thế giới môn cờ vây; ông Geoffrey Hinton và ông Yoshua Bengio – hai nhà khoa học được giải Turing Award về nghiên cứu mạng thần kinh não bộ, được coi là “bố già” của công nghệ trí khôn nhân tạo hiện đại; cùng nhiều nhà khoa học lỗi lạc khác…

Lời cảnh báo được đưa ra vào lúc mối lo ngại về những tác hại tiềm tàng của công nghệ AI đang gia tăng sau khi có những tiến bộ trong lĩnh vực gọi là các mô hình ngôn ngữ lớn, hay LLMs (Large Language Models) – nền tảng của các ứng dụng đối thoại (chatbot) như ChatGPT. Những tiến bộ này đe dọa loại bỏ hàng triệu công việc làm lao động trí óc, từ bác sĩ, luật sư, đến nhà báo và chuyên viên tiếp thị.

Thực ra các ứng dụng trí khôn nhân tạo đã có từ lâu. Người dùng điện thoại iPhone của Apple đôi khi nhờ “trợ lý ảo” Siri tìm kiếm thông tin bằng cách nói vào máy. Amazon có trợ lý ảo Alexa. Google có câu thần chú “Hey, Google!” mỗi khi muốn Google làm một việc gì đó trên mạng. Hầu hết các cơ sở dịch vụ như ngân hàng, trung tâm y tế, và cả những cơ quan chính phủ, cũng có những “trợ lý ảo” như vậy để giúp khách hàng tìm kiếm thông tin và thực hiện một số dịch vụ căn bản mà không phải cất công đi tới trụ sở của dịch vụ.

*****
Bước nhảy vọt khổng lồ của các trợ lý ảo (virtual assistant) xảy ra vào cuối năm ngoái khi công ty OpenAI trình làng ChatGPT – một chatbot có khả năng trả lời những câu hỏi phức tạp thuộc nhiều lĩnh vực tri thức bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, làm thơ, viết mã điện toán, phiên dịch… Trong học đường, sinh viên học sinh nhờ ChatGPT làm bài tập nộp cho thầy cô giáo hoặc viết luận án tốt nghiệp, các tòa báo dùng AI viết ra những bản tin “mạch lạc đến kinh ngạc,” có luật sư đã dùng ChatGPT để soạn bài bào chữa trước tòa, còn ở Nhật, thành phố Yokosuka thuộc tỉnh Kanagawa nhờ chatbot AI giúp thực hiện các công việc hành chính do thiếu nhân viên…

Hai tháng sau khi ChatGPT trình làng và được tích hợp vào công cụ tìm kiếm Bing của Microsoft, Google cho ra chatbot Bard, giới hạn trong một số người dùng ở Anh và Mỹ. Trung Quốc cũng nhanh chóng vào cuộc khi tập đoàn Baidu giới thiệu chatbot Ernie vào giữa Tháng Ba vừa qua… Cuộc đua tạo ra những công cụ AI nhanh hơn, chính xác hơn, thông minh hơn vẫn đang diễn ra rất quyết liệt.

Có thể nói, công nghệ trí khôn nhân tạo là phát minh vĩ đại nhất gần đây của nhân loại sau máy điện toán và mạng toàn cầu Internet. Con người hãnh diện đã làm ra được thứ máy móc “giống người,” có thể đảm nhiệm, thậm chí làm tốt hơn con người trong nhiều công việc đòi hỏi kiến thức, trí thông minh và khéo léo như vẽ tranh, chẩn đoán bệnh, phân tích dữ kiện, lái xe, hay đánh cờ, viết báo…

Nhưng cũng như mọi phát minh khoa học khác, trí khôn nhân tạo là con dao hai lưỡi, có thể làm cho cuộc sống của con người tốt đẹp lên rất nhiều nhưng cũng có thể hủy diệt cuộc sống đó. Ở Trung Quốc chẳng hạn, công nghệ AI và nhận diện khuôn mặt được nhà cầm quyền sử dụng để theo dõi hàng trăm triệu người dân, dập tắt mọi biểu hiện phản kháng. Ở chiến trường Ukraine, nó được dùng để điều khiển các hỏa tiễn chính xác tự tìm và diệt mục tiêu theo lệnh đặt trước. Không Quân Mỹ mới đây còn thử nghiệm để AI “lái” chiến đấu cơ F-16 thay cho phi công – mở ra kỷ nguyên vũ khí được trí khôn nhân tạo điều khiển. Ở mức độ phổ biến hơn, AI đang được dùng để chế biến ra những hình ảnh giả như thật (deepfake), viết các bản tin giả như thật, lũng đoạn nhận thức, tâm lý của nhiều nhóm người trong xã hội.

Tạp chí Foreign Affairs nhận định bước tiến nổi bật nhất trong 100 năm qua của nền văn minh chính là khả năng của nhân loại chấm dứt sự tồn tại của chính mình! Năng lực tự hủy diệt của loài người được thực hiện qua việc làm biến đổi khí hậu, bào chế ra các loại virus gây đại dịch như COVID-19, chế tạo vũ khí nguyên tử và phát triển công nghệ trí khôn nhân tạo. Tuy hiện nay các hệ thống AI hoạt động theo chỉ thị của người điều khiển nhưng với đà tiến bộ nhanh chóng của công nghệ “học máy” (machine learning) chẳng mấy chốc các cỗ máy “giống người” sẽ học được cách suy luận, cách ra quyết định, không phụ thuộc vào con người và thậm chí chống lại loài người. Không bao lâu nữa AI sẽ tiến hóa thành AGI (artificial general intelligence), một kiểu trí khôn nhân tạo bắt kịp hoặc vượt qua khả năng của con người trong hàng loạt nhiệm vụ khác nhau. Đó không còn là chuyện viễn tưởng trên màn ảnh xi nê mà đang trở thành một thực tế.

*****

Giật mình trước sự bùng nổ của công nghệ AI và những hậu quả tai hại nếu nó được sử dụng vào mục đích xấu, hồi cuối Tháng Ba, hơn 1,000 nhà khoa học và nhân vật nổi tiếng trong lĩnh vực công nghệ Mỹ, trong đó có tỷ phú Elon Musk – chủ các công ty Space X, Tesla, và Twitter; ông Steve Wozniak – đồng sáng lập Apple; ông Andrew Yang – doanh nhân, ứng cử viên tổng thống Mỹ… đã ký bức thư ngỏ của Viện Tương Lai Sự Sống (Future of Life Institute) yêu cầu “tạm ngừng” trong sáu tháng các hoạt động nghiên cứu phát triển trí khôn nhân tạo để “xây dựng các quy tắc an toàn chung” cho các hệ thống AI. Bức thư cảnh báo, những người phát triển công nghệ AI “đang lao vào một cuộc đua ngoài tầm kiểm soát để phát triển và ứng dụng những bộ óc kỹ thuật số ngày càng mạnh mẽ mà không ai – kể cả những người tạo ra chúng – có thể hiểu được, dự đoán được hoặc kiểm soát được một cách đáng tin cậy.”

Những lá thư ngỏ cảnh báo như vậy dường như có rất ít tác dụng vì khó mà thuyết phục cộng đồng công nghệ tự nguyện “tạm ngừng” công việc mà họ đang say mê theo đuổi. Vì vậy, hồi đầu tháng này, các ông Sam Altman, Hassabis, và Dario Amodei đã đến Tòa Bạch Ốc, gặp Tổng Thống Joe Biden, Phó Tổng Thống Kamala Harris để yêu cầu phải quản lý công nghệ AI. Trong cuộc điều trần trước Thượng Viện sau đó, các nhà khoa học này biện luận rằng rủi ro của các hệ thống trí khôn nhân tạo hiện lớn đến mức chính phủ phải can thiệp để ngăn chặn các tác hại tiềm tàng của nó.

Họ cho rằng công nghệ trí khôn nhân tạo phải được quản lý một cách có trách nhiệm. Cần có sự hợp tác giữa những công ty hàng đầu về phát triển AI, cần có nhiều nghiên cứu về kỹ thuật các mô hình ngôn ngữ lớn, cần thành lập các tổ chức về an toàn AI toàn thế giới, tương tự như Cơ Quan Năng Lượng Nguyên Tử Quốc Tế (International Atomic Energy Agency – IAEA) đang làm nhiệm vụ kiểm soát việc sử dụng năng lượng nguyên tử. Trước mắt, theo đề nghị của ông Altman, chính phủ Mỹ cần có luật buộc những công ty phát triển các mô hình AI tiên tiến phải ghi danh, được kiểm tra và cấp giấy phép trước khi đưa ra thị trường thương mại cho công chúng.

Tác hại của công nghệ AI không dễ thấy như trái bom nguyên tử thả xuống Hiroshima hay như con virus SARS-CoV-2 trong đại dịch vừa qua nhưng không kém phần khủng khiếp nếu không sớm tìm được biện pháp quản lý nó, để đến lúc thần đèn đã chui ra khỏi chiếc đèn cổ thì e rằng đã quá muộn! 

4/22/23

Tàu cao tốc đang chạy đua trên khắp thế giới. Nhưng không phải ở Mỹ

YAN'AN, TRUNG QUỐC - 12 THÁNG 4: Một đoàn tàu cao tốc chạy qua một vườn chè vào ngày 12 tháng 4 năm 2023 ở Diên An, tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc. (Ảnh của Liu Guoxing/VCG qua Getty Images)

CNN — 

Tàu cao tốc đã chứng tỏ giá trị của mình trên khắp thế giới trong 50 năm qua.

Nó không chỉ giúp giảm thời gian di chuyển mà quan trọng hơn là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và mang cộng đồng lại gần nhau hơn. Trung Quốc, Nhật Bản và Châu Âu dẫn đầu.

Vậy tại sao nước Mỹ không có mạng lưới đường sắt cao tốc như vậy?

Đối với một quốc gia giàu có và thành công nhất về kinh tế trên hành tinh, với hơn 300 triệu dân ngày càng được đô thị hóa, đó là một vị trí ngày càng khó biện minh.

Mặc dù Nhật Bản bắt đầu xu hướng này với “Tàu cao tốc” Shinkansen vào năm 1964 , nhưng chính sự ra đời của TGV của Pháp vào đầu những năm 1980 mới thực sự khơi mào cho cuộc cách mạng tàu cao tốc toàn cầu đang tiếp tục phát triển.

Cuộc cách mạng tàu cao tốc

Hành khách chuẩn bị lên tàu cao tốc Shinkansen ở Kyoto, Nhật Bản.

Nhưng đó là một cuộc cách mạng cho đến nay đã bỏ qua Hoa Kỳ. Người Mỹ hầu như vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào các đường cao tốc tắc nghẽn hoặc sự căng thẳng gây đau đầu của một sân bay và mạng lưới hãng hàng không dễ bị tan chảy.

Trung Quốc đã xây dựng khoảng 26.000 dặm (42.000 km) đường sắt cao tốc chuyên dụng kể từ năm 2008 và có kế hoạch lên tới 43.000 dặm (70.000 km) vào năm 2035.

Trong khi đó, Hoa Kỳ chỉ có 375 dặm đường ray được dọn sạch để vận hành với tốc độ hơn 100 dặm/giờ .


“Nhiều người Mỹ không có khái niệm về đường sắt cao tốc và không thấy được giá trị của nó. William C. Vantuono, tổng biên tập của Thời đại Đường sắt, ấn phẩm ngành đường sắt lâu đời nhất ở Bắc Mỹ, cho biết: “Họ mắc kẹt một cách vô vọng với tư duy về đường cao tốc và hàng không.

Ô tô và máy bay đã thống trị du lịch đường dài ở Hoa Kỳ kể từ những năm 1950, nhanh chóng soán ngôi mạng lưới tàu hỏa chở khách sang trọng với những cái tên gợi liên tưởng như “The Empire Builder”, “Super Chief” và “Silver Comet”.

Bị các ngôi sao điện ảnh Hollywood và khách doanh nhân bỏ rơi, các tuyến đường sắt nổi tiếng như Trung tâm New York phần lớn bị phá sản vào đầu những năm 1970, chuyển giao các chuyến tàu thua lỗ của họ cho Amtrak , nhà điều hành tàu chở khách quốc gia được thành lập vào năm 1971.

Trong nhiều thập kỷ kể từ khi cắt giảm đáng kể đó, các tuyến đường sắt vận chuyển hàng hóa của Hoa Kỳ đã phát triển mạnh mẽ. Đường sắt chở khách dường như là ưu tiên rất thấp đối với các nhà lập pháp Hoa Kỳ.

Các nhóm vận động hành lang hùng mạnh trong ngành hàng không, dầu mỏ và ô tô ở Washington đã chi hàng triệu USD để duy trì ưu thế đó, nhưng vị thế của họ đang suy yếu trước những lo ngại về môi trường và tình trạng tắc nghẽn ngày càng trầm trọng.

Hàng tỷ đô la để cải thiện đường sắt

Dự luật cơ sở hạ tầng trị giá 1,2 nghìn tỷ đô la của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden bao gồm khoản 170 tỷ đô la chưa từng có để cải thiện đường sắt.

Một số trong số này sẽ được đầu tư vào việc sửa chữa Hành lang Đông Bắc (NEC) đang đổ nát của Amtrak nối liền Boston, New York và Washington.

Ngoài ra còn có các kế hoạch lớn để đưa các chuyến tàu chở khách trở lại nhiều thành phố khác trên toàn quốc – cung cấp dịch vụ đi lại nhanh chóng, bền vững đến các thành phố và khu vực đã không có tàu chở khách trong nhiều thập kỷ.

Thêm vào đó là sự thành công của hoạt động Brightline do tư nhân tài trợ ở Florida, đã được bật đèn xanh để xây dựng tuyến đường sắt cao tốc trị giá 10 tỷ đô la giữa Los Angeles và Las Vegas vào năm 2027, cộng với các kế hoạch ở California, Texas và Cascadia được đề xuất tuyến đường nối Portland, Oregon, với Seattle và Vancouver, và Hoa Kỳ cuối cùng dường như đang ở trên đỉnh của cuộc cách mạng đường sắt chở khách.

Đầu tư lớn hơn

Amtrak có kế hoạch giới thiệu các đoàn tàu Avelia Liberty thế hệ mới của mình để thay thế Acelas, trong hình, trên NEC vào cuối năm nay.

Scott Sherin, giám đốc thương mại bộ phận xây dựng tàu hỏa của Alstom tại Mỹ cho biết: “Mọi tổng thống kể từ Ronald Reagan đều nói về nhu cầu cấp thiết phải cải thiện cơ sở hạ tầng trên khắp Hoa Kỳ, nhưng họ luôn có những ưu tiên khác lớn hơn cần giải quyết.

“Nhưng bây giờ có một động lực rất lớn để khiến mọi thứ chuyển động – đó là thời điểm của sự lạc quan. Nếu chúng ta xây dựng nó, họ sẽ đến. Là một ngành công nghiệp, chúng tôi đang trưởng thành và chúng tôi sẵn sàng thực hiện bước tiếp theo. Đã đến lúc tập trung vào đường sắt chở khách.”

Sherin chỉ ra rằng các dịch vụ công cộng khác như đường cao tốc và sân bay được “trợ cấp ồ ạt”, vì vậy sẽ không có vấn đề gì khi làm điều tương tự đối với đường sắt.

Ông nói thêm: “Chúng ta cần làm tốt hơn việc trình bày rõ ràng những lợi ích của đường sắt cao tốc – việc làm chất lượng cao, kích thích kinh tế, kết nối tốt hơn so với hàng không – và điều đó sẽ giúp chúng ta xây dựng được sự ủng hộ của lưỡng đảng”. “Đường sắt cao tốc không phải là giải pháp cho mọi thứ, nhưng nó có vị trí của nó.”

Chỉ Hành lang Đông Bắc của Amtrak mới có các chuyến tàu có thể di chuyển với tốc độ gần bằng 300 km một giờ (186 dặm / giờ) TGV và Shinkansen.

Ngay cả ở đây, các chuyến tàu Amtrak Acela hiện đang đạt tốc độ tối đa 150 dặm / giờ - và chỉ trong các đợt ngắn. Tốc độ tối đa ở những nơi khác là gần 100 dặm / giờ trên các đường ray tắc nghẽn được chia sẻ với các chuyến tàu chở hàng và hành khách.


Thế hệ tàu hỏa mới


Năm nay, Amtrak có kế hoạch giới thiệu các đoàn tàu Avelia Liberty thế hệ mới của mình để thay thế các tàu Acelas đã hết hạn sử dụng trên NEC.

Có khả năng đạt tốc độ 220 dặm/giờ (mặc dù chúng sẽ bị giới hạn ở tốc độ 160 dặm/giờ trên NEC), các đoàn tàu sẽ mang công nghệ đường sắt cao tốc mới nhất của Alstom đến Bắc Mỹ.

Các đầu máy ở mỗi đầu – được gọi là toa điện – là họ hàng gần của các đoàn tàu TGV-M thế hệ tiếp theo , dự kiến ​​ra mắt tại Pháp vào năm 2024.

Ngồi giữa những chiếc xe điện là những chiếc xe chở khách, sử dụng công nghệ Tiltronix của Alstom để chạy nhanh hơn qua các khúc cua bằng cách nghiêng thân xe, giống như một tay đua MotoGP. Và không chỉ khách du lịch sẽ được hưởng lợi.

Shawn D. Hogan, cựu thị trưởng thành phố Hornell ở bang New York cho biết: “Khi Amtrak trao hợp đồng cho Alstom vào năm 2015 đến 2016, công ty có khoảng 200 nhân viên ở Hornell.

“Con số đó bây giờ là gần 900, với việc tuyển dụng tiếp tục với tốc độ nhanh. Tôi tính toán rằng đã có tổng đầu tư công/tư nhân hơn 269 triệu đô la vào thành phố của chúng ta kể từ năm 2016, bao gồm một khách sạn mới, một bệnh viện hiện đại và các dự án phát triển nhà ở.

“Đó là một dự án phát triển kinh tế mang tính chuyển đổi về cơ bản chưa từng có ở vùng nông thôn nước Mỹ và nếu nó có thể xảy ra ở đây thì nó cũng có thể xảy ra trên khắp nước Mỹ.”

Alstom đã chi gần 600 triệu USD để xây dựng chuỗi cung ứng tại Hoa Kỳ cho tàu cao tốc của mình – hơn 80% đoàn tàu được sản xuất tại Hoa Kỳ, với 170 nhà cung cấp trên khắp 27 tiểu bang.

“Đường sắt cao tốc đã có ở đây. Avelia Liberty được thiết kế chung với các đồng nghiệp châu Âu của chúng tôi, vì vậy chúng tôi có những gì chúng tôi cần cho 'TGV-USA',” Sherin cho biết thêm.

“Tất cả đều là công nghệ đã được chứng minh từ các đoàn tàu hiện có. Chúng tôi đã sẵn sàng để đi khi cơ sở hạ tầng đến.”

Và những dòng mới đó có thể đến sớm hơn bạn nghĩ.

Đường vào tốc độ cao


Vào tháng 3, Brightline đã xác nhận kế hoạch bắt đầu xây dựng tuyến đường cao tốc dài 218 dặm (351 km) giữa Rancho Cucamonga, gần Los Angeles và Las Vegas, tạo ra một con đường xuyên qua Dãy núi San Bernardino và băng qua sa mạc, theo Hành lang liên bang 15.

Tuyến đường 200 dặm/giờ sẽ cắt giảm thời gian xuống còn chưa đầy một giờ – một lợi thế lớn so với mức trung bình bốn giờ bằng ô tô hoặc năm đến bảy giờ bằng xe buýt – khi nó mở cửa vào năm 2027.

Mike Reininger, Giám đốc điều hành của Brightline Holdings, cho biết: “Là dự án đường sắt cao tốc sẵn sàng nhất ở Hoa Kỳ, chúng tôi đang tiến một bước gần hơn đến sân chơi bình đẳng với các dự án cơ sở hạ tầng và giao thông công cộng trên khắp thế giới, và chúng tôi tự hào sử dụng những công nhân lành nghề nhất của Mỹ để đạt được điều đó.”

Brightline West dự kiến ​​sẽ mang lại khoảng 10 tỷ đô la lợi ích cho nền kinh tế của khu vực, tạo ra khoảng 35.000 công việc xây dựng, cũng như 1.000 công việc lâu dài trong lĩnh vực bảo trì, vận hành và dịch vụ khách hàng ở Nam California và Nevada.

Nó cũng sẽ đánh dấu sự trở lại của các chuyến tàu chở khách đến Las Vegas sau 30 năm gián đoạn – Amtrak đã hủy tuyến “Gió sa mạc” vào năm 1997.

Một dự án khác của California


Brightline hy vọng sẽ thu hút khoảng 12 triệu trong số 50 triệu chuyến đi một chiều được thực hiện hàng năm giữa Las Vegas và LA, 85% trong số đó được thực hiện bằng xe buýt hoặc ô tô.
Việc xây dựng đang được tiến hành trên Đường sắt Cao tốc California (CHSR,), một hệ thống cao tốc giữa Los Angeles và San Francisco.

Trong khi đó, việc xây dựng đang được tiến hành trên một tuyến đường cao tốc khác đi qua Thung lũng San Joaquin.

Dự kiến ​​khai trương vào khoảng năm 2030, Đường sắt Cao tốc California (CHSR) sẽ chạy từ Merced đến Bakersfield (171 dặm) với tốc độ lên đến 220 dặm/giờ.

Cùng với đề xuất nâng cấp các tuyến đường sắt đi lại ở cả hai đầu, dự án này cuối cùng có thể cho phép tàu cao tốc chạy 350 dặm (560 km) giữa Los Angeles đến các khu vực đô thị San Francisco chỉ trong hai giờ 40 phút.

CHSR đã được đưa ra thảo luận từ năm 1996, nhưng việc thực hiện nó đã gây tranh cãi.

Những bất đồng về tuyến đường, các vấn đề quản lý, sự chậm trễ trong việc thu hồi đất và xây dựng, chi phí vượt mức và không đủ kinh phí để hoàn thành toàn bộ hệ thống đã cản trở dự án – bất chấp những lợi ích kinh tế mà nó sẽ mang lại cũng như giảm ô nhiễm và tắc nghẽn. Khoảng 10.000 người đã được tuyển dụng trong dự án.

Chi phí từ 63 tỷ đến 98 tỷ đô la, tùy thuộc vào mức độ cuối cùng của kế hoạch, CHSR sẽ kết nối sáu trong số 10 thành phố lớn nhất của tiểu bang và cung cấp sức chứa tương tự như 4.200 dặm đường cao tốc mới, 91 cổng sân bay bổ sung và hai sân bay mới. đường băng có giá từ 122 tỷ đô la đến 199 tỷ đô la.

Với dân số California dự kiến ​​sẽ tăng lên hơn 45 triệu người vào năm 2050, đường sắt cao tốc mang đến giải pháp có giá trị tốt nhất để giữ cho tiểu bang không bị tắc nghẽn do sương mù.

Hành lang cho tiềm năng lớn nhất

Brightline West và CHSR cung cấp các mẫu cho việc mở rộng đường sắt cao tốc trong tương lai ở Bắc Mỹ.

Bằng cách tập trung vào các cặp thành phố hoặc khu vực quá gần để di chuyển bằng đường hàng không và quá xa đối với người lái xe ô tô, các nhà quy hoạch giao thông có thể dự đoán hành lang nào mang lại tiềm năng lớn nhất.

Sherin nói: “Thật hợp lý khi Hoa Kỳ vẫn chưa phát triển mạng tốc độ cao trên toàn quốc. “Trong nhiều thập kỷ, việc di chuyển bằng ô tô không phải là một khó khăn, nhưng khi tình trạng tắc nghẽn đường cao tốc trở nên tồi tệ hơn, chúng ta đã đến giai đoạn mà chúng ta nên bắt đầu xem xét các giải pháp thay thế một cách nghiêm túc hơn.

“Những con số kỳ diệu là những trung tâm dân cư với khoảng ba triệu người cách nhau từ 200 đến 500 dặm, cho thời gian di chuyển dưới ba giờ – tốt nhất là hai giờ.

“Khi những điều kiện đó áp dụng ở Châu Âu và Châu Á, đường sắt cao tốc làm giảm thị phần của hàng không từ 100% xuống gần bằng không. Mô hình này sẽ hoạt động tốt ở Hoa Kỳ cũng như trên toàn cầu.”

Giấc mơ viển vông?





Leoty X/Andia/Nhóm hình ảnh phổ quát/Hình ảnh Getty
Tàu cao tốc TGV Duplex của Pháp, được xây dựng vào những năm 1990, có tốc độ tối đa 186 dặm một giờ.

Tiến sĩ Fatih Birol, giám đốc điều hành của IEA, lập luận rằng vận tải đường sắt “thường bị bỏ quên” trong các cuộc tranh luận công khai về các hệ thống vận tải trong tương lai – và điều này đặc biệt đúng ở Bắc Mỹ.

Birol cho biết thêm: “Bất chấp sự ra đời của ô tô và máy bay, các loại đường sắt vẫn tiếp tục phát triển và phát triển mạnh.

Trên toàn cầu, khoảng 3/4 hành khách đi đường sắt được thực hiện trên các phương tiện chạy bằng điện, đặt phương thức này vào một vị trí đặc biệt để tận dụng sự gia tăng của năng lượng tái tạo trong những thập kỷ tới.

Ở đây, Hoa Kỳ cũng tụt hậu xa so với phần còn lại của thế giới, với việc điện khí hóa gần như chưa từng được biết đến từ NEC.

Mạng lưới đường sắt ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Châu Âu, Trung Quốc và Nga được điện khí hóa hơn 60%, theo số liệu của IEA , tỷ lệ điện khí hóa đường ray cao nhất là Hàn Quốc với khoảng 85%.

Mặt khác, ở Bắc Mỹ, chưa đến 5% tuyến đường sắt được điện khí hóa.

Quy mô khổng lồ của Hoa Kỳ và dân số phân tán rộng rãi của nó làm giảm thiểu khả năng tạo ra một mạng lưới thống nhất, duy nhất thuộc loại đang được xây dựng ở Trung Quốc và được đề xuất cho Châu Âu .

Du lịch hàng không có thể vẫn là lựa chọn ưa thích cho các chuyến đi xuyên lục địa có thể dài hơn 3.000 dặm (khoảng 4.828 km).

Nhưng có nhiều hành lang du lịch liên thành phố ngắn hơn, nơi đường sắt cao tốc, hoặc sự kết hợp giữa cơ sở hạ tầng mới và đường ray được nâng cấp hoặc tàu nghiêng, cuối cùng có thể cung cấp một giải pháp thay thế vô địch cho du lịch hàng không và đường cao tốc.



Bản tiếng Anh :