1/14/12

CHẤP THÁI BÌNH DƯƠNG: LỊCH SỬ SẼ LẶP LẠI CHĂNG?

 

TS. Đinh Xuân Quân

Ảnh AP

Mỹ vừa kỷ niệm 70 năm trận Chân Châu Cảng (Pearl Harbor) khi Nhật vào 7.30 sáng ngày 7 tháng 12, 1941 đã đánh chìm một số tàu của hạm đội Mỹ tại Thái Bình Dương. Các hàng không mẫu hạm Mỹ thoát nạn nhưng 6 chiến hạm bị đánh chìm cùng với ba khu trục hạm, ba hộ tống hạm và tổn thất trên 350 máy bay. Số binh sĩ tử nạn là 2,400 và 1,200 bị thương.

Nhìn lại thì khi đó TT Franklin Roosevelt của Mỹ đang tranh chấp với Nhật tại Thái Bình Dương để khẳng định: ai làm chủ? Cũng nên nhớ là sau đệ nhất thế chiến, dân chúng Mỹ chán nản về chi phí quốc phòng và từ đó đến đệ nhị thế chiến, chi phí quốc phòng của Mỹ giảm liên miên.

Sau nhiều năm giảm về chi phí quốc phòng, quân đội Mỹ còn ít hơn quân đội Hà Lan, và hải quân giảm từ 774 tàu vào 1918 xuống còn 311 tàu vào 1933, với các tàu chiến hạm giảm từ 33 xuống còn 11 chiếc.

Hiện nay Mỹ đang bàn về giảm chi phí quốc phòng, giảm 1,000 tỷ trong 10 năm tới trong khi ngân sách quốc phòng của Trung Quốc (TQ) ngày càng tăng. Mới đây Tổng Thống (TT) Obama trong chuyến đi 9 ngày qua Hawaii, Canberra (Úc) và Bali (Indonesia), đã công bố một chính sách mới của Mỹ tại Á Châu Thái Bình Dương.

Tại Úc, TT Obama công bố kế hoạch “Hoa Kỳ trở lại Tây Thái Bình Dương” và gởi 2,500 quân TQLC sang Darwin, một thành phố ở cực Bắc Úc Châu. Úc cũng đồng ý để Hoa Kỳ dùng các căn cứ không quân trong vùng Bắc Úc chưa kể là hai nước sẽ cùng tham gia các chương trình huấn luyện, thao dượt và hành quân chung. Nên nhớ là vùng biển Darwin, Guinea, Bornea là nơi từng có những cuộc chiến đẫm máu vào đầu thập niên 1940 giữa Hải Quân Hoa Kỳ và Nhật.

TT Obama nói đến Hiệp ước ANZUS (Australia-New Zeland-USA)- phòng thủ chung ký năm 1951 tại San Francisco liên kết 3 nước Úc, Tân Tây Lan và Hoa Kỳ. Vào thập niên 1970 Hoa Kỳ ra khỏi Tây Thái Bình Dương, nghĩ rằng sự hiện diện của Hạm Ðội 7 là đủ duy trì thế lực và bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ trong vùng. Điều này đúng khi TQ còn nhiều lúng túng với “bước nhảy vọt” hay cuộc “cách mạng văn hóa” và là một lực lượng kinh tế và quân sự chưa đáng kể. Sau 1972, TQ lại là một đồng minh lỏng lẻo với Hoa Kỳ trong một mục tiêu ngăn chận bành trướng của Liên Bang Xô Viết.

Kinh nghiệm quá khứ cho thấy có thể có xung đột mới tại Thái Bình Dương vì hai nước Hoa kỳ và Trung Quốc (TQ) tranh bá quyền? Tranh chấp Mỹ - Trung tại Thái Bình Dương sẽ mang lại chiến tranh hay không? Cái gì khác thời xưa và thời nay?

Kinh nghiệm xưa và tương lai

Tranh chấp TBD và đệ nhị thế chiến 1938-1945

Vào năm 1936 Mỹ-Nhật tranh chấp tại Thái Bình Dương. Mỹ có khuynh hướng giảm chi tiêu quốc phòng và TT Rooselvelt không muốn nước Mỹ dính vào chiến tranh [“except as we seek to isolate ourselves from war”]. Nhật Bản lại hiểu một cách khác cũng như trường hợp TQ bây giờ (tưởng là Mỹ lo về Trung Đông rút khỏi Thái Bình Dương). Nhật lúc đó hiểu là “Á châu do người Á châu” và tăng cường quân đội và hải quân. Nhật hiểu đây là dấu hiệu sự rút lui của Mỹ tại TBD. Nhật đã xâm lăng TQ vào 1938. Việc đánh giá lầm này là nền móng cho chiến tranh TBD.

Lúc đó 1938, Nhật buôn bán khá nhiều với Mỹ cho nên TT Roosevelt muốn trừng phạt Nhật khi họ xâm lược TQ bằng cách chấm dứt hiệp định thương mại với Nhật. Vào 1940, Mỹ gởi hạm đội đến Pearl Harbor để phô trương lực lượng và Mỹ tiếp tục trừng phạt Nhật qua việc cấm xuất khẩu sắt phế thải và xăng. Vào 1941 thì Mỹ cấm xuất dầu và thép sang Nhật cũng như phong toả tài sản của Nhật tại Mỹ.

Vì bí cho nên Nhật đã chiếm Indonesia nước sản xuất dầu và Malaysia nơi sản xuất cao su. Sau vụ Chân Châu Cảng nước Mỹ lâm chiến. Kết quả đối với Nhật là hai trái bom nguyên tử tại Hiroshima và Nagazaki và sự đầu hàng vô điều kiện của xứ này.

Ngày nay

Ngày nay TQ có nhiều hành động giống Nhật trước đây. TQ hăm doạ các nước tại Biển Hoa Nam (Biển Đông), Biển Hoa Đông, vv, trong khi QH Mỹ không thể giải quyết một số vấn đề như trần nợ, giảm chi tiêu và quân đội Mỹ bị kẹt tại Iraq và Afghanistan. Cho đến tháng 7, 2010, TQ vẫn hiểu lầm Mỹ rút khỏi Á châu để cho TQ rảnh tay.

Trong bối cảnh đó sự cam kết mới của Hoa Kỳ tại Á Châu ra đời vào năm 2011. Tại Quốc Hội Úc, TT Obama đưa những lời lẽ khá mạnh mẽ để cảnh báo TQ về quyết tâm của Hoa Kỳ. Ông nói: “Hoa Kỳ là một thế lực Thái Bình Dương, và chúng tôi sẽ duy trì tư thế đó”. Ông tuyên bố: “Sự cắt giảm ngân sách quốc phòng để giải quyết sự thiếu hụt ngân sách sẽ không, tôi lặp lại, sẽ không, làm giảm cam kết của Hoa Kỳ tại Á Châu” và trước đó một ngày, TT Thống Obama cảnh cáo TQ rằng Hoa Kỳ không lo sợ vì TQ đang lớn mạnh, nhưng TQ phải chơi theo luật quốc tế và “chừng nào TQ chơi theo luật chơi chung, chừng nào TQ biết vị trí của mình, chừng đó chúng ta cùng có lợi.” Còn nếu TQ chơi luật giang hồ, “chúng ta sẽ cho TQ biết rằng không chơi theo luật quốc tế thì TQ không xứng đáng là một siêu cường.”

Hoa Kỳ đã làm một số việc: đưa 2,500 quân đóng tại Darwin. Ngoài ra, Úc còn đồng ý để Hoa Kỳ dùng các căn cứ Không Quân trong vùng Bắc Úc Châu. Không Quân hai nước sẽ cùng tham dự các chương trình huấn luyện, thao dượt và hành quân chung. Từ Darwin đến hai eo biển Malaccavà Sunda là 3,500 km và 2,600 km và từ Darwin-Trường Sa là 4,500 km. Vậy căn cứ Darwin là nơi tốt để xuất phát các cuộc hành quân tại 3 vùng nếu cần.

Tại Á châu, Hoa Kỳ có 28,500 quân đóng tại Nam Hàn, hơn 40,000 đóng tại Nhật và gần 13,000 trên các chiến hạm ngoài khơi Thái Bình Dương. Mục tiêu trước mắt trên lý thuyết là tạo điều kiện để thực hiện chính sách bảo vệ sự lưu thông trên Biển Ðông. Trước đây tại Hà Nội tháng 7 năm 2010, NT Hillary Clinton đã tuyên bố sự lưu thông trên Biển Ðông là quyền lợi thiết yếu của Hoa Kỳ. (Đây là một thực tế vì số lượng hàng hóa mậu dịch giữa Hoa Kỳ và các nước Tây Á Châu đi qua Biển Ðông lên đến 1,200 tỉ (một ngàn hai trăm tỉ) Mỹ kim.

Tại Thượng đỉnh Đông Á tại Bali, Biển Đông đã được quốc tế hoá và TT Obama đã tái xác định lập trường “tự do lưu thông” tại Biển Đông và nhắc là các tranh chấp chủ quyền phải dựa trên luật quốc tế kể cả luật Biển của LHQ còn gọi là UNCLOS. Đối với TQ, việc hồ sơ Biển Đông được quốc tế hóa tại diễn đàn này gồm 18 nước là một thất bại chính trị. Hơn nữa TT Obama cũng cho bán 24 oanh tạc cơ F16-C/D cho Indonesia, giúp tàu tuần tra cho Philippines và mới đây, (30.11– 1.12.2011) NT Hillary Clinton sau gần nửa thế kỷ tuyệt giao đã viếng Miến Điện.

Không dừng tại đây, trong phiên họp APEC- Diễn Đàn Hợp Tác Kinh tế Á Châu Thái Bình Dương tại Hawaii, TT Obama đã đưa thêm củ “carốt” về kinh tế qua Transpacific Partnership (TPP), hay hợp tác kinh tế qua một vùng tự do thương mại không có TQ.

Tại sao không có TQ? Kinh nghiệm WTO cho thấy TQ đã trở thành quốc gia số một về xuất cảng, số hai về nhập cảng, chỉ sau Hoa Kỳ và xuất siêu kỷ lục với Hoa Kỳ - hơn 280 tỷ Mỹ kim năm 2010. Khi xin vào WTO, TQ đã viện cớ còn là một nước “đang phát triển” cho nên TQ đã dành được một số điều kiện tốt. Nay TQ đoạt ưu thế kinh tế về sản xuất và xuất cảng kể cả đối với loại mặt hàng công nghiệp cao cấp.

Ngoài ra TQ không tôn trọng những quy định của WTO về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cho phép TQ ăn cắp tác quyền của thiên hạ đưa đến việc TQ nhảy vọt về kỹ thuật, rồi dùng kỹ thuật đó cạnh tranh với các nước khác. TQ còn có “chính sách công nghiệp” cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) giúp nhà nước can thiệp vào kinh tế và nâng đỡ các doanh nghiệp của họ. Hơn nữa TQ bảo vệ khu vực kinh tế nhà nước qua các hang rào ngoài thuế quan và được nâng đỡ tài trợ quốc doanh qua “chính sách công nghiệp.”

Với kinh nghiệm không tốt đó (TQ vừa đánh thuế trên các xe Mỹ), Hoa Kỳ chưa mời TQ vào TPP. Nhiều nước ASEAN muốn tham gia TPP gồm Singapore, Malaysia, Brunei và Vietnam chưa kể các nước khác như Úc, New Zealand, Chile, Peru, Canada, Mexico và Nhật.[1]/

Tất cả các việc trên làm TQ bực bội[2]/ gây cảm tưởng bị bao vây. Trên 10 năm qua, TQ đã rảnh tay và giờ này lẽ dĩ nhiên họ cũng không ngồi yên. Tân Hoa Xã đã chê là TT Obama có hành động theo kiểu chiến tranh lạnh và có thể gây bất ổn tại vùng này.[3]/

Vì vậy, khi đến Bali, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo cho là các tranh chấp chủ quyền cần được giải quyết bằng các điều đình song phương [4]/ ôn hoà. TQ đã cố trấn an các nước ASEAN bằng cách là hứa áp dụng bản DOC ký từ 2002 và 2011 mới có thể thức áp dụng (vì TQ vẫn từ chối ngồi bàn việc này). TQ cũng hứa nâng cao hợp tác kinh tế TQ-ASEAN qua tự do thương mại trong đó có đầu tư, chuyển giao kỹ thuật, nâng cao hạ tầng cơ sở. Đây cũng là một cố gắng làm nhẹ ảnh hưởng của TPP đối với TQ [5]/. TQ coi TPP là một cách của Mỹ tách TQ ra khỏi Thái Bình Dương vì các điều kiện tham gia vào một kinh tế thị trường với việc giảm tối đa sự can thiệp của nhà nước.

Song song với việc trấn an các nước ASEAN, TQ cũng dùng các báo chí diều hâu hăm doạ trừng phạt VN hay Philippines qua việc giảm du khách TQ hay các biện pháp khác [6]/ hay sự hiện diện của hải quân TQ tại Biển Đông. TQ cũng không bỏ giải pháp dùng võ lực tại Biển Đông và TQ cũng dùng truyền thông để cảnh cáo các nước láng giềng hãy sẵn sàng nghe tiếng súng đại bác.[7]/

Ngày xưa và ngày nay

Có nhiều khác biệt trong việc so sánh TQ và Nhật trước kia. Trước hết về quân sự thì khó có một trận đánh úp như trường hợp Chân Châu Cảng. Hệ thống radar 3 chiều và hệ thống vệ tinh chằng chịt của quân đội Mỹ sẽ không cho phép một trận đánh úp. Ví dụ mới đây vào 14/12/2011, DigitalGlobe Inc., một công ty tư nhân về vệ tinh của Mỹ đã công bố một bức ảnh của chiếc Varyag - Thi Lang của TQ. Theo báo chí TQ thì trong chuyến thử nghiệm kéo dài 13 ngày, kể từ hôm 29/11, các chiến đấu cơ J-15 của TQ đã thực hiện một số chuyến bay từ tàu hàng không mẫu hạm này, trong khi đó tấm ảnh của DigitalGlobecho thấy boong tàu Varyag hoàn toàn trống chẳng có chiếc máy bay nào lên xuống. Như vậy chiến tranh tâm lý – hù doạ ngày càng khó.

Thứ hai các hải quân trong vùng không kém gì về số lượng hay chất lượng với hải quân TQ. Hiện nay hải quân Nhật [8]/ tham gia vào nhiều chiến dịch quốc tế như tại Iraq, Afghanistan, tuần tra eo biển Malacca. Hải quân Nhật lớn hơn hải quân Anh gồm 44 tuần dương hạm (destroyers), 9 frigates, và 15 tàu ngầm. Hải quân Nhật còn có các tàu hàng không mẫu hạm chở trực thăng loại Hyuga-class gọi là “helicopter destroyers” (DDH) và tàu đổ bộ loại Osumi class - 13,000 T chở dược 330 quân và 10 xe tank. Với hạm đội như vậy, Nhật dư sức tuần tra Biển Đông và là địch thủ lợi hại với TQ và chưa chắc Hải quân TQ có thể qua mặt hải quân Nhật.

Nam Hàn đang xây dựng hải quân với khả năng hoạt động ở xa. Họ có các chiến hạm loại Dokdo (LPD) có trọng tải 14,000 T chở 700 binh sĩ, 10 xe tank và 15 trực thăng. Ngoài ra Nam Hàn còn có tuần dương hạm loại KDX I loại 3,900 T, KDX–II loại 5,000 T và nay loại KDX III 7,700 T. Ngoài ra Nam Hàn còn trang bị 9 tàu ngầm Đức loại 209 diesel và họ cũng có chương trình đóng tàu ngầm loại KSS–II Type–214 và sẽ có khoảng 18 tàu ngầm vào thời điểm 2020. Có thể nói Nam Hàn có hải quân đứng thứ 2 sau Nhật tại Á châu. Ngoại trừ tàu ngầm nguyên tử, Nhật và Nam Hàn không thua TQ và nếu hợp lại sẽ hơn cả TQ.

Ấn Độ có hàng không mẫu hạm (2) từ lâu và đang đi tới việc xây dựng một hạm đội tàu ngầm nguyên tử. Ấn đang mua thêm hàng không mẫu hạm loại 45,000 TAdmiral Gorshkov của Nga với khả năng chở MiG–29. Hiện nay hải quân Ấn có 16 tàu ngầm và đang mua thêm 6 tàu của Pháp.

Thái độ TQ làm các láng giềng lo lắng, không chỉ ASEAN mà cả Mỹ, Nhật, Ấn Độ và Úc cũng lo ngại. Các hành động gây hấn của TQ trên Biển Đông hay Biển Đông Hoa ngày rõ ràng. TQ gởi tàu ngư chính xuống tuần tra tại vùng Hoàng Sa, đe dọa các tàu đánh cá VN, đe doạ tàu thăm dò dầu lửa của VN và Philippines sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Không chỉ là tranh giành tại Biển Đông TQ còn biểu lộ tham vọng kiểm soát Ấn Độ Dương. Trong những thập niên qua TQ đã xây dựng các ống dẫn dầu và xa lộ tại Miến để có thể sử dụng một cảng ở Ấn Độ Dương (Từ lâu TQ đã thiết lập căn cứ radar trên quần đảo Coco Island trong Vịnh Bengal và Miến có thể trở thành các căn cứ tiếp liệu cho hải quân TQ). TQ cũng tranh giành chủ quyền với Nhật tại Biển Hoa Đông, gây sự với Nam Hàn v.v…

Hậu quả là sự hình thành của liên minh chống TQ với sự liên kết của ASEAN và Mỹ, Nhật, Ấn Độ và Úc, trong đó Mỹ đóng vai trò đối trọng với Trung Quốc. Nam Hàn cũng ký hợp tác quân sự với Úc trong khi Nhật gia tăng hợp tác với Ấn và Ấn hợp tác với Úc. Nhật vừa ký hợp tác quân sự và trao đổi tin tức với VN và Philippines. Tại Bali, Nhật ký với các nước ASEAN tìm cách duy trì tự do hàng hải tại Biển Đông. Hơn nữa Nhật hứa viện trợ các nước về việc xây dựng hạ tầng cơ sở.[9]/ Hơn nữa lần đầu tiên có sự kết hợp giữa Nhật và Ấn trong việc “quốc tế hoá” vấn đề Biển Đông.

Hậu quả của chính sách TQ đã giúp Mỹ liên kết với từng nước và liên kết với cả khối ASEAN-Thái Bình Dương. Rõ ràng là TQ đang bị chiếu tướng.[10]/

Sau cùng, mặc dù TQ có nhiều thái độ hung hăng, Mỹ vẫn đối xử nhẹ nhàng với TQ – sẵn sàng để của mở cho TQ nếu TQ thấy cần thương thuyết. Mỹ muốn “hướng dẫn” TQ để một ngày nào đó TQ có thể có cách “cư sử văn minh” của một nước lớn.

Tạm kết luận

Câu hỏi căn bản là liệu có chiến tranh hay không? Liệu có một trận Chân Châu Cảng nữa hay không? Liệu lịch sử có tái diễn không?

Tại Hawaii, nơi của Chân Châu Cảng TT Obama tuyên bố không chống lại “sự trổi dậy hoà bình” của TQ và nước Mỹ mong TQ tham gia vào thế giới, áp dụng luật chơi thế giới. Tại Hawaii, TT Obama có đàm phán với TQ và Mỹ muốn một giải pháp “win-win.” Hoa Kỳ đã để cửa ngỏ trong việc thương thuyết với TQ.

Về kỹ thuật và về hải quân TQ còn kém xa Hoa Kỳ kể cả các nước Á châu liên hoàn với nhau. Thời nay có đường dây “nóng” giữa các nước để tránh các đụng chạm đáng tiếc.

Trong lịch sử có nhiều sự kiện đã lặp lại, nhưng nhất định việc tranh chấp tại Thái Bình Dương sẽ không xẩy ra như Nhật đã đánh úp Mỹ tại Hạ Uy Di, năm 1941.

TS DXQ

[1]/ (Washington Post, November 13; Global Times, November 19; Mainichi Daily [Tokyo] November 13).

[2]/ (Washington Post, November 15; Associated Press, November 17; Wall Street Journal, November 18, 2011).

[3]/ (Xinhua News Agency, November 19; Agence France-Presse, November 19 2011).

[4]/ Xinhua News Agency, November 18; Sina.com, November 19 2011

[5]/ Xinhua News Agency, November 19; Global Times, November 17).

[6]/ (Global Times, November 19, November 17; BBC News, November 17).

[7]/ Global Times, November 11, October 25; Reuters, October 25).

[8]/ The Chinese Navy:Expanding Capabilities, Evolving RolesEdited by Phillip C. Saunders, Christopher D. Yung, Michael Swaine, and Andrew Nien-Dzu YangThe Center for the study of Chinese Military Affairs, National Strategic Studies, Dec 2011, Chapter 2, page 30

[9]/ Ming Pao, November 19; Reuters, November 18; China News Service, November 18).

[10]/ Xem bài của tác giả trên Diễ Đàn Thế kỷ tháng 9, 2011.

No comments:

Post a Comment