2/23/23

Phiếm luận về chữ "Thiên" - Trời

          
Cổng trời (ảnh minh họa)


Thiên 天 là Trời, Thiên 千 là Một Ngàn, Thiên 偏 là Thiên Lệch, Thiên 遷 là Di Dời ... Ở đây, ta chỉ nói đến chữ Thiên 天 là Trời, là phần không gian ở trên đầu của ta mà thôi. Theo "Chữ Nho ...Dễ Học", ta có chữ Nhân là người được viết như thế nầy 人. Đây là chữ Tượng Hình đơn giản nhất, cơ bản nhất và cũng ... Tượng hình nhất : Hình người đứng xoạt 2 chân hiên ngang giữa trời đất đúng như sách Tam Tự Kinh ngày xưa dạy : Tam tài giả, THIÊN ĐỊA NHÂN 三才者,天地人。( TAM TÀI là TRỜI, ĐẤT và NGƯỜI ). Con Người là một thành viên của vũ trụ, hợp với Trời và Đất tạo nên cái thế giới nầy !

Nên ...

Khi cần diễn tả sự to lớn thì chữ nhân 人 dang thêm hai tay ra theo lối CHỈ SỰ 指事 ( Mượn việc dang hai ta ra để chỉ sự to lớn gọi là Chỉ Sự ) thành chữ ĐẠI 大 , theo diễn tiến của chữ viết sau đây :


Nên...

ĐẠI là To, là Lớn, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng phát sinh : là Vĩ Đại, là Trưởng thành ... Nhưng ...

Con người dù cho có cao lớn đến đâu cũng không thể cao lớn bằng Trời được, cho nên thêm một nét ngang tượng trưng cho bầu trời lên phía trên chữ Đại 大, thì ta có chữ THIÊN 天 là TRỜI, được hình thành theo lối HỘI Ý 會意 , theo diễn tiến của chữ viết như sau đây :

Ta thấy :

Theo như Giáp cốt văn và Đại Triện ở trên, ta thấy rõ ràng hình người có cái đầu to tượng trưng cho Đầu Đội Trời, Chân Đạp Đất, gọi là " Đỉnh thiên lập địa 頂天立地 " như Từ Hải trong Truyện Kiều vậy :

 ĐỘI TRỜI đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.
Nên ...

Chữ Thiên 天 chỉ phần cao nhất của cơ thể con người, vượt lên trên đỉnh đầu cao vòi vọi, đó là Trời.

Về mặt thể chất, thì con người không thể cao bằng Trời, lớn bằngTrời được, nhưng về chí khí thì cũng có những người có chí lớn muốn CHỌC TRỜI Quấy Nước làm nên những chuyện Kinh Thiên Động Địa. Cho nên, chữ Thiên 天 mà nhô đầu lên theo chiều dọc để CHỌC thủng Trời thì sẽ thành chữ PHU 夫 là người đàn ông cao lớn mạnh khỏe hiên ngang đứng giữa trời đất, theo diễn tiến của chữ viết như sau :

Nên ...

PHU 夫 : là Người đàn ông trưởng thành, mạnh mẽ, hiên ngang mà các bà các cô ai cũng ước mong trở thành người hôn phối của mình, nên ...

PHU 夫 còn có nghĩa là CHỒNG với các từ ghép nghe cho êm tai và âu yếm là : Phu Tế 夫婿, Phu Lang 夫郎, Phu Tướng 夫相, Trượng Phu 丈夫 ... Như trong Truyện Kiều tả lúc Từ Hải chia tay với Kiều để lên đường lập nghiệp ....

Nửa năm hương lửa đang nồng,
TRƯỢNG PHU thoát đã động lòng bốn phương.

Chữ PHU 夫 lại làm cho ta ....

... Nhớ lại 2 câu thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài "Không Chồng Mà Chửa" là :

Duyên THIÊN chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận LIỄU sao đà nẩy nét ngang ?!

Nữ sĩ đã chơi chữ bằng cách chiết tự rất lý thú và lí lắt như sau :

Duyên THIÊN 天 là duyên trời run rủi, chưa thấy nhô đầu dọc, là chưa thành chữ PHU 夫, nghĩa là chưa có chồng.
Phận LIỄU 了 (là Liễu bồ, là Phận gái) sao đà nẩy nét ngang ? Chữ LIỄU 了 mà " nẩy " nét ngang thì sẽ thành chữ TỬ 子 là CON. Nên 2 câu thơ trên có nghĩa :

Duyên trời nào thấy đâu run rủi,
Phận gái sao đà đã có con ?

Trong dân gian Nam Kỳ Lục Tỉnh, ở Cái Răng Ba Láng Vàm Xán Phong Điền... quê tôi, lúc nhỏ tôi cũng thường nghe bà con lối xóm hát rằng :

Không chồng có chửa mới ngoan,
Có chồng có chửa thế gian sự thường !

Về chữ LIỄU 了 là Kết thúc, kết liễu, đồng âm với chữ LIỄU 柳 là Dương Liễu chỉ phái nữ mềm yếu dịu dàng ẻo lả như nhánh liễu. Ở đây, Hồ Xuân Hương đã chơi chữ bằng cách sử dụng từ Đồng Âm để đánh đồng 2 chữ Liễu theo âm Hán Việt. Chớ chữ Liễu là Dương Liễu thì làm sao có được nét ngang mà "nẩy" ?!

Thiên 天 là Trời, chữ đầu tiên trong sách Tam Thiên Tự 三千字 của soạn giả Đoàn Trung Còn khi mới bắt đầu học chữ Nho hồi xưa :

天 Thiên trời, 地 Địa đất, 舉 Cử cất, 存 Tồn còn, 子 Tử con, 孫 Tôn cháu, 六 Lục sáu, 三 Tam ba, 家 Gia nhà, 國 Quốc nước, 前 Tiền trước, 後 Hậu sau...

Sách tam thiên tự (ảnh minh họa)

Thiên 天 là Trời, là phần không gian cao ngất ở trên đầu ta, nhưng trong dân gian theo tín ngưỡng của người dân Đông Á chịu ảnh hưởng của Nho Thích Đạo, thì Trời là thế giới của cõi trên, có đủ các thành phần Tiên Phật Thần Thánh của thượng giới, và có đời sống giống như ở dân gian, đứng đầu là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà ta quen gọi là Ông Trời, và ông Trời hiện diện đầy đủ trong các mặt vui buồn của cuộc sống con người, ta vẫn thường nghe các câu :

- Vui qúa Trời !
- Buồn qúa Trời !
- Sướng qúa Trời !
- Khổ qúa Trời !....

Vui buồn sướng khổ gì đều kêu Trời cả ! Nên theo truyện cổ tích dân gian thì ... Ngày xửa ngày xưa, ông Trời ở rất gần ta, chỉ cao khỏi ba xào một chút mà thôi, nhưng vì hễ động một chút là người ta kêu Trời : Hôm nay ăn no qúa Trời; Con đói qúa Trời ơi ! Cái con nhỏ đó đẹp qúa Trời ! Nhõng nhẽo qúa Trời; Thấy "ghét" qúa Trời đi !... Nhất nhất cái gì cũng kêu Trời, kể cả "Con mắc ... qúa Trời ơi !". Nên ... Ông Trời nghe thét rồi chán qúa mới "vọt" tuốt lên 9 từng mây mà ở trển luôn cho yên thân ! Chẳng những giới bình dân kêu trời, mà trong văn chương trí thức cũng kêu trời, như Vương Viên Ngoại trong Truyện Kiều, khi biết cô Kiều đã bán mình, ông cũng đã kêu lên :

Trời làm chi cực bấy Trời,
Này ai vu thác cho người hợp tan !?

hay lúc cô Kiều kể cho Vương Bà nghe về nhân cách của Mã Giám Sinh "Gẫm ra cho kỹ như hình con buôn" thì :

Vương Bà nghe bấy nhiêu lời,
Nỗi oan đã muốn vạch Trời kêu lên.

hay khi bị Sở Khanh gạt, rồi còn muốn hành hung nữa, thì cô Kiều cũng đã kêu trời :

Nàng rằng : Trời nhé có hay !
Quyến anh rủ yến sự này tại ai ?
Đem người đẩy xuống giếng khơi,
Nói lời rồi lại ăn lời được ngay !

Thiên 天 là Trời, là phần đầu của con người như chữ Tượng Hình Hội Ý đã nói ở phần trên, nên trong sách tướng số gọi cái trán là Thiên Đình 天庭, phần giữa trán gọi là Thiên Môn 天門 và phần xương phía trên trán gọi là Thiên Linh 天靈, nên ta mới có từ Thiên Linh Cái 天靈蓋 là cái Mỏ Ác. Lúc còn bé thì phần Mỏ Ác nầy chỉ là một lớp sụn rất mềm, nên người lớn bắt nạt con nít hay nói câu : "Coi chừng tao cú cho một cái lủng Mỏ Ác bây giờ !". Khi lớn, Mỏ Ác đã cứng khó mà "cú" cho lủng, thì lại trở thành "cứng đầu cứng cổ"!.


Từ Thiên Linh Cái 天靈蓋 còn tượng trưng cho cả Cái Đầu, cái Xương Sọ hoặc cái Đầu Lâu, như các thầy Pháp, thầy Phù Thủy luyện Thiên Linh Cái là chuyên sưu tập đầu lâu và xương sọ của các cô gái đã chết và như trong truyện "Trang Tử Cổ Bồn Ca 莊子鼓盆歌", mà ta quen gọi là truyện "Trang Tử Thử Vợ", thì Thiên Linh Cái tượng trưng cho cái đầu với nội dung câu truyện như sau :

Trang Tử tên Chu 周 ( Châu ), tự là Tử Hưu 子休, người nước Tống 宋 thời Chiến Quốc (690-286 TCN), cùng vợ là Điền Thị ẩn cư ở phía nam núi Hoa Sơn. Một hôm, trên đường về nhà, trông thấy một thiếu phụ dùng quạt để quạt một nấm mộ bên đường. Trang Tử thấy lạ bèn hỏi, thiếu phụ cho biết là mộ của chồng mình, vì khi còn sống hai vợ chồng rất thương yêu nhau, nên có hẹn nhau là khi chồng chết, thì sau tang lễ, phải đợi cho mộ khô rồi mới tái giá, nhưng gần đây mưa gió cứ dập dìu, mộ không khô được, nên phải quạt cho mộ mau khô ! Trang Tử nghe nói, thầm cười cho thế thái nhân tình nhưng cũng thi triển pháp lực giúp thiếu phụ quạt khô mộ chồng. Khi về nhà, đem truyện kể lại với vợ là Điền Thị, Điền Thị vô cùng phẫn nộ, chê trách thiếu phụ và bảo rằng : " Trung thần bất sự nhị quân, Liệt nữ bất sự nhị phu 忠臣不事二君,烈女不事二夫 ". Có nghĩa " Tôi trung không thờ hai chúa, gái tiết liệt chẳng lấy hai chồng ". Mấy tháng sau, Trang Tử bệnh chết, có một thiếu niên anh tuấn dắt theo một lão bộc, tự xưng là Vương tôn của nước Sở, vì mộ tiếng của Trang Tử mà tìm đến để theo học đạo. Nay tuy Trang Tử đã mất, nhưng cũng nguyện thủ tang theo lễ thầy trò, ở lại cư tang một trăm ngày và để đọc Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Điền Thị rất vui dạ vì cảm cái vẻ cao sang tuấn tú của Vương tôn, mới nhờ lão bộc làm người mai mối, rồi xuất tiền lo cho hôn sự của hai người. Đêm động phòng hoa chúc, Vương tôn bỗng phát bệnh đau tim, thoi thóp sắp đứt hơi. Lão bộc cho biết là nếu có óc của người sống hoặc của người chết chưa quá bốn mươi chín ngày hòa với rượu uống vào thì khỏi bệnh. Điền Thị bèn xách búa bổ quan tài của Trang Tử định lấy óc ra làm thuốc cứu mạng Vương Tôn.. Không ngờ khi quan tài vừa vỡ ra thì Trang Tử cũng vừa sống lại. Điền Thị cả thẹn, biết mọi việc đều do Trang Tử biến hóa an bày, nên treo cổ mà chết. Trang Tử gõ bồn làm nhịp ca bài điếu tang rồi cảm khái ngâm rằng :

從茲了卻冤家債, Tòng tư liễu khước oan gia trái,
你愛之時我不愛。 Nhĩ ái chi thời ngã bất ái.
若重與你做夫妻, Nhược trùng dữ nhĩ tố phu thê,
怕你斧劈天靈蓋。 Phạ nhĩ phủ phách Thiên Linh Cái.

Có nghĩa :

Từ nay đã hết nợ oan gia,
Nàng bảo yêu, ta hết thiết tha.
Tiếp tục vợ chồng như thuở trước,
Có ngày búa bổ vỡ đầu ta.

Ngâm xong, nổi lửa đốt sạch nhà cửa quan tài ở dưới núi Hoa Sơn rồi đi mất. Dân chúng quanh vùng chỉ nhặt lại được hai quyển Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh chưa bị thiêu rụi mà thôi.


"Phủ phách Thiên Linh Cái" là búa bổ cho vỡ sọ đầu ra ! Đây là chuyện "Trang Tử Thử Vợ" thường tình của " cải lương ", của phim ảnh theo như truyện kể của dân gian đời Tống (960-1279), những người theo Tống Nho dùng để khuyến thế răn đời, chớ con người cao khiết siêu thoát với tư tưởng của Lão Trang như Trang Tử sao lại có thể dùng tiểu xảo gài bẫy để thử vợ một cách không quang minh chính đại như thế !?

*****
Trở lại với Thiên 天 là Trời, trong Nho Giáo THIÊN 天 không phải là Ông Trời, mà là Thiên Lý 天理 là cái Lẽ Trời, nói theo bình dân, là Cái Lý Lẽ tự nhiên công bằng chính trực, chí công vô tư, chí cao vô thượng của Trời, nên cái gì hợp với tự nhiên của nhân tình thế thái thì cái đó là ... Thiên. Ví dụ như :

- Thiên Lương 天良: là Tấm lòng lương thiện ngay thẳng bẩm sinh của trời ban, là cái Lương Tâm vốn có của con người, mà cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã gán cho mình cái nghĩa vụ thiêng liêng là phải phổ biến, gợi mở, khơi dậy cái thiên Lương ở trong lòng mỗi người, nên ông mới mượn bài thơ " Hầu Trời " để nói thác :

Trời rằng : " Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc "thiên lương" của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay"...

- Thiên Bình 天平: là Sự cân bằng thẳng hàng không thiên lệch về bên nào cả, là biểu tượng của Cán Cân Công Lý ở các tòa án, pháp đình, và là cái cân có 2 dĩa cân của các tiểu thương buôn bán ở ngoài chợ, một bên để trái cân một bên để hàng hóa lên đến khi nào cân bằng thì thôi. Nên... Thiên Bình là sự bình đẵng tự nhiên của trời, sự công bằng không thiên lệch cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.


Biểu tượng cái cân của tòa án ngầm bảo rằng mọi người đều bình đẵng trước pháp luật và trước... Trời !



- Thiên Võng 天網: là Cái Lưới của Trời, nó không phải là cái lưới có thật, mà nó là biểu tượng của cái công cụ bảo vệ công lý của trời. Ai làm trái cái lý trời thì sẽ bị cái lưới nầy tóm lấy để trừng trị, như câu nói sau đây :

Chủng qua đắc qua, 種瓜得瓜,
Chủng đậu đắc đậu. 種豆得豆,
Thiên võng khôi khôi, 天網恢恢,
Sơ nhi bất lậu ! 疏而不漏。

Có nghĩa :

Trồng dưa thì được dưa,
Trồng đậu thì được đậu.
Lưới trời lồng lộng,
Tuy thưa nhưng không lọt !

Ý muốn nói, gieo nhân nào sẽ gặt qủa nấy, làm lành sẽ gặp lành, làm ác sẽ gặp ác, không sai chạy bao giờ, chỉ sớm hay muộn mà thôi !

Thiên võng khôi khôi, 天網恢恢

Ông trời luôn luôn đứng về phía người hiền, người lương thiện, nên Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu :

Nhân hữu thiện nguyện, 人有善願,
Thiên tất hựu chi ! 天必祐之!

Có nghĩa :

Người mà có những ước nguyện tốt lành, thì...
Trời sẽ phù trợ ủng hộ cho người đó !

- Thiên Chức 天職 : Không phải là cái chức tước do trời ban, mà là trách nhiệm vốn có mà trời đặt để cho mỗi con người trong xã hội. Như Thiên Chức của Cha Mẹ là phải nuôi dạy con cái cho nên người, và con cái thì phải biết hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ...

- Thiên Bẩm 天禀, Thiên Tài 天才, Thiên Phú 天賦, Thiên Tư 天資 : đều là những cái sanh ra đã có sẵn mà trời ban riêng cho người nào đó mà người khác không thể có được. Như cụ Nguyễn Du đã khen cô Kiều :

Thông minh vốn sẵn Tư Trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Tư Trời là Thiên Tư của trời ban cho đó !

Cái gì thuộc về tự nhiên thì đều gán hết cho Trời, và được gọi là Thiên Nhiên 天然, ví dụ như Trời Mưa, Trời Nắng, Trời Gió... và Tai họa do những thứ đó gây ra như Mưa lũ, Hạn hán, Gió bão...đều được gọi là Thiên Tai 天災, là tai họa chết chóc, đổ vỡ do trời gây ra cho con người. Song song với Thiên Tai thì Trời cũng set-up sẵn một chỗ để tưởng thưởng cho những người lương thiện, mà tôn giáo nào cũng có, đó chính là Thiên Đàng 天堂, nơi yên vui sung sướng nhất mà mọi người đều mong ước. Tất cả những hiện tượng thời tiết mùa màng xảy ra chung quanh cuộc sống con người đều là những thứ sỡ hữu của trời như câu nói :

Thiên hữu tứ thời xuân tại thủ, 天有四時春在首,
Nhân sanh bách hạnh hiếu vi tiên. 人生百行孝為先。

Có nghĩa :

Trời có bốn mùa thì mùa xuân là mùa đứng đầu, còn...
Người thì có cả trăm phẫm hạnh, hiếu là phẩm hạnh trước tiên.

Ông Trời làm nên tất cả, cả thân phận của con người cũng do trời đặt để, như cụ Nguyễn Du đã nói :

Trời kia đã bắt làm người có thân,
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao

Bỉ sắc 彼嗇 thì tư phong 茲豐, có nghĩa Cái kia cạn thì cái nầy đầy, hết cơn bỉ cực thì đến ngày thái lai. Ông trời luôn bắt người ta phải " phong trần " trước, rồi mới cho " thanh cao " sau. Bắt cô Kiều phong trần mười lăm năm rồi mới cho gặp lại Kim Trọng. Thế mà khi đoàn viên lại phải cảm kích cái lòng tốt của ông trời :

Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời.
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa !

Khéo mà nói sạo để... nịnh ông trời !

Còn giới bình dân thì không khách sáo gì cả, vợ chồng cứ đẻ sòn sọt năm một, mỗi năm một đứa, nhà trên mười anh chị em là chuyện " thường tình " ở quê tôi, đời sống nheo nhóc nhưng lại rất lạc quan mà... đổ thừa cho ông trời :

- Trời sanh trời nuôi.
- Trời sanh voi sanh cỏ !

Tội nghiệp cho ông trời, cứ đẻ cho đã rồi đổ thừa cho ông trời là xong ngay ! Nhưng... nói cũng lạ, " nhờ Trời " rồi tất cả cũng đều khôn lớn nên người, lắm gia đình lại còn trở nên khá giả giàu có nữa là đằng khác ! Các Thầy Đồ ta ngày xưa thường nói :

Hữu nhi bần bất cửu, 有兒貧不久,
Vô tử phú bất trường. 無子富不長。

Có nghĩa :

Có con thì nghèo không lâu, vì khi lớn lên con sẽ làm ra thêm của cải.. Còn ... Không có con thì giàu không bền, vì không có ai làm thêm của cải cho mình. Nên các Cụ cứ... đẻ thả giàn !

Thiên 天 là Trời, nên Thiên Hạ 天下 là dưới gầm trời nầy, là núi non sông nước, là đất đai ruộng vườn mầu mỡ của dân cư, là lãnh thổ, là cương thổ mà theo quan niệm phong kiến ngày xưa thì ai có tài thao lược giỏi giang, ai có đức trị dân thì sẽ là chúa tể của cái Thiên Hạ nầy, nên mới có thành ngữ Trục Lộc Thiên Hạ 逐鹿天下, có nghĩa là Đuổi bắt con nai trong thiên hạ nầy theo xuất xứ sau đây :

Trục Lộc Thiên Hạ 逐鹿天下

Theo "Sử Ký. Hoài Âm Hầu Liệt Truyện 史記˙淮陰侯列傳": Tần chi cương tuyệt nhi duy thỉ, sơn đông đại nhiễu, dị tính tịnh khởi, anh tuấn ô tập. Tần thất kỳ lộc, thiên hạ cộng trục chi, ư thị cao tài tật túc giả tiên đắc yên.秦之綱絕而維弛,山東大擾,異姓並起,英俊烏集。秦失其鹿,天下共逐之,於是高材疾足者先得焉。

Có nghĩa :

" Giềng mối của nhà Tần đã hết nên lỏng lẻo, đất Sơn Đông đại loạn, các họ khác đều nổi lên, anh hùng các nơi tập hợp. Tần như làm sổng mất con nai, nên thiên hạ đều cùng đuổi bắt, vì thế, ai tài giỏi và nhanh chân thì sẽ bắt đựơc." Và...

Các lộ anh hùng lại tiêu diệt lẫn nhau, cuối cùng đưa đến thế Hán Sở Tranh Hùng, như World-cup vào đến vòng chung kết vậy ! Nên...

Thiên Hạ là của chung, ai giỏi thì giành được. Ngày xưa, quan niệm Thiên Hạ là đất Trung Nguyên mầu mỡ với dân cư đông đúc, nên thành ngữ trên còn được nói là Trục Lộc Trung Nguyên 逐鹿中原, và tại sao phải là Lộc mà không phải là con vật khác ? Vì chữ Lộc 鹿 là con Nai đồng âm với chữ Lộc 祿 là Thiên Lôc 天祿, có nghĩa là " Lộc của trời ban", chính là cái ngôi vua của Thiên Tử 天子 là con trời, vì Thiên Tử mới là người xứng đáng hưởng Thiên Lộc mà thôi !

Còn "Thiên Hạ" trong tiếng Việt Nam ta là Phiếm Chỉ Đại Từ, có nghĩa là : Người ta, Người Khác hay chỉ chung Quảng Đại Quần Chúng...như :

- "Thiên hạ" đồn rằng...
- Đó là chuyện của "thiên hạ", đâu phải chuyện của mình.
- Hơi sức đâu mà lo chuyện của "thiên hạ" !...

Ông tú Vị Xuyên Trần Tế Xương trong bài tứ tuyệt "Chợt Giấc" cũng đã buồn cho thời cuộc mà lẫy rằng :

Nằm nghe tiếng trống, trống canh ba,
Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra.
Thiên Hạ dễ thường đang ngủ cả,
Việc gì mà thức một mình ta ?!

Còn Thiên Hạ trong đạo Phật là cõi Ta-Bà, là bể khổ trầm luân, nên khi Bổn sư Thích Ca Mâu Ni thác sinh làm Thái Tử Tất Đạt Đa, sau khi đi bảy bước nở ra bảy đóa hoa sen thì một tay chỉ Trời, một tay chỉ đất và nói câu : Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn 天上天下唯我獨尊, có nghĩa : " Trên trời dưới trời duy chỉ có TA là tôn qúy ". Cái TA hay cái NGÃ đó chính là Chân Ngã 真我, là Pháp Thân 法身 thường trụ, không bao giờ hoại, bao trùm khắp không gian và thời gian mà chúng sinh đều có. TA đó chính là Phật Tánh 佛性, là Chân Tâm 真心 để giải thoát cho tất cả mọi loài khỏi trầm luân trong bể khổ của cái Thiên Hạ Ta-Bà nầy ! Chính cái Phật Tánh đó là Thiên Hạ độc tôn, chớ không phải Đức Như Lai tự cho mình là độc tôn trong Thiên Hạ.



Trong quyển tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng của Kim Dung là " Thiên Long Bát Bộ " có một nhân vật nữ theo Đạo Gia là Thiên Sơn Đồng Mỗ, nhưng lại tu tập môn võ công của Phật Gia là " Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn Công " rất lợi hại, bà ta cầm đầu và khống chế cả 81 Động và 72 Đảo võ lâm bàng môn tả đạo đều phải nghe theo lệnh của bà ta răm rắp .

Còn Thiên Hạ của Đạo Giáo 道教 (Lão Giáo) là Cõi Hồng Trần 紅塵, nơi bụi bặm mịt mù mà con người chỉ là những cái hình chiếu từ cuộc sống thực tế ở trên trời, như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết trong Cung Oán Ngâm Khúc là :

Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm !

nên con người phải biết tu tập theo đạo pháp để trở về với cuộc sống thực ở trên trời, tức là thành Thần thành Tiên để về nơi Thượng Giới !

Thiên Hạ của ngày nay là Năm Châu Bốn Bể, là bề mặt của qủa địa cầu nầy, là cả thế giới như bài học thuộc lòng ngày xưa của lớp Đồng Ấu :

... Người bốn giống : đen, vàng, đỏ, trắng,
Trời bốn phương : nam, bắc, đông, tây.
Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn ?!

Thiên 天 là Trời, khi nào thì ta thấy được trời : Ban Ngày, nên Thiên 天 là Ban Ngày, như Tam Thiên Tam Dạ 三天三夜 là Ba ngày ba đêm. Thiên còn có nghĩa là Ngày, nên Kim Thiên 今天 là ngày hôm nay; Khi trời sáng trở lại là ngày hôm sau, nên Minh Thiên 明天 là ngày mai...

Thiên còn có nghĩa là Thời Tiết, Mùa Màng, như : Thiên Vũ 天雨 là Trời mưa, nhưng Vũ Thiên 雨天 là Mùa Mưa. Tương tự, Thiên Tình 天晴 là Trời nắng, Tình Thiên 晴天 là Mùa nắng. Như thời tiết ở Miền Nam nước ta, mỗi năm chỉ có 2 mùa Mưa và Nắng, theo như câu nói :

Tứ thời vô xuân hạ, 四時無春夏,
Nhất vũ tiện thành thu. 一雨便成秋。

Có nghĩa :

Bốn mùa không có xuân hạ gì cả, hễ...
Mưa xuống một cái thì thành mùa thu ngay !

Thiên còn là cái gì cao quý nhất, cần thiết nhất, như câu nói trong sách Hán Thư 漢書 : Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên 王者以民為天,而民以食為天. 

Có nghĩa : " Bậc vương giả lấy dân làm cao nhất, còn dân thì lấy cái ăn làm cao nhất."


Ý nói : Vua thì coi dân là cần thiết nhất, vì không có dân thì làm vua với ai đây ? Còn dân thì coi cái ăn là cần thiết nhất, vì không có cái ăn thì làm sao mà sống ?! Câu nói nầy thường hay bị nói sai thành : Dân dĩ thực vi TIÊN 民以食為先, có nghĩa : Dân thì lấy cái ăn làm trước hết. Sai mà không Sai, chỉ là một cách nói khác đi mà thôi, nhưng ý của chữ TIÊN 先 không mạnh bằng ý của chữ THIÊN 天 là Trời, là Cao nhất, là Cần thiết nhất.

Thiên 天 là Trời, Thăng Thiên 升天 là Lên trời, Phi Thiên 飛天 là Bay lên trời, còn Quy Thiên 歸天 là Về trời, là chết. Nhưng không phải ai chết cũng được về trời, vì trời chỉ có 9 tầng mà thôi, ta hay nghe nói Cửu Trùng Thiên 九重天, còn địa ngục thì có tới 18 tầng lận, gấp đôi số tầng của trời. Điều nầy cho thấy là ở trên đời người xấu nhiều gấp đôi người tốt, nên Địa Ngục phải xây 18 tầng mới đủ chỗ chứa !

Về từ Cửu Trùng Thiên 九重天, ngoài nghĩa là 9 tầng trời ra, Cửu Trùng Thiên còn được dùng để chỉ ông vua thời phong kiến ngày xưa, như 2 câu thơ mở đầu trong bài thơ Tả Thuyên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương 左遷至藍關示侄孫湘 của Hàn Dũ đời Đường :

Nhất phong triêu tấu Cửu Trùng Thiên, 一封朝奏九重天,
Tịch biếm Triều Dương lộ bát thiên. 夕貶潮陽路八千 .

Có nghĩa :

Buổi sáng trình lên nhà vua một phong tấu sớ,
Buổi chiều bị đày đi Triều Dương xa tám ngàn dặm đường.

Cửu Trùng Thiên 九重天 là Vua, còn được gọi là Đấng Cửu Trùng, hay Cửu Trùng mà trong tiếng Nôm ta gọi là Chín Tầng, như câu thơ trong đoạn mở đầu của Chinh Phụ Ngâm do Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm :

Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
CHÍN TẦNG gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.

Thiên còn là Thiên Thời 天時, ngoài nghĩa chỉ Thời tiết mùa màng ra, Thiên Thời còn có nghĩa là Thời Cơ của Trời, là cái cơ trời vận hành đến một lúc nào đó, như Thúy Vân đã phân bua :

Cơ Trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình !

Ta thường nghe câu nói trong sách Mạnh Tử là "Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa 天時不如地利,地利不如人和". Có nghĩa : Thời cơ của trời không bằng lợi thế của đất, cái lợi thế của đất không bằng cái hòa đồng hòa hợp của con người. Ví dụ như :

Thiên thời 天時, Địa lợi 地利, Nhân hòa 人和 còn được nói thành Thiên Tường 天祥, Địa Nghi 地宜, Nhân Thuận 人顺. Có nghĩa :

* Thiên Tường 天祥 : là cái Điềm lành của trời, là cái mặt tốt về thời cơ, thời vận, là Thiên Thời đó.

* Địa Nghi 地宜 : là cái Tiện nghi của đất, của cái nơi mà ta định làm hay cái chỗ mà sự việc xảy ra, là Địa Lợi đó.

* Nhân Thuận 人顺 : là Nhân sự được suôn sẻ, mọi người đều đồng ý, không ai chống đối, là Nhân Hòa đó.

Nhưng đối với bà con lối xóm ở quê tôi thì THIÊN TƯỜNG là " Thương Tiền ", từ dùng để chỉ những người keo kiệt hà tiện mà tham lam chỉ biết có TIỀN, cả câu như thế nầy :

" Thiên tường tác biệt hựu thu sương ".
Có nghĩa là : " Thương tiền, Tiếc bạc lại Thương xu ".

Có một câu chuyện vui kể rằng : Có ông trưởng giả nhà quê nọ mời bạn ăn mừng thọ lục tuần. Thiệp mời có kèm theo môt câu như thế nầy : Sách có câu chữ rằng " Xuân đình hiền tạ tống mặt khơi ". Câu sách đó có nghĩa là : " Xin đừng hà tiện tới mặt không !".

Cái Thời Cơ của Trời, chính là cái Thiên Lý đã được đề cập ở phần đầu bài viết nầy, nói lên cái lý lẽ công bằng tự nhiên của Trời, như câu :

Tử sinh hữu mệnh, 死生有命,
Phú quý tại thiên. 富貴在天.

Có nghĩa :

Chết sống đều có số mạng,
Giàu sang là do trời ban.

... và không phải ai cũng được trời ban, phải đúng với cái lẽ trời thì mới được, như trong Minh Tâm Bửu Giám ghi lại câu nói nổi tiếng của Khổng Minh Gia Cát Lượng là :

Mưu sự tại nhân, 謀事在人,
Thành sự tại thiên. 成事在天,
Nhân nguyện như thử như thử, 人願如此,如此,
Thiên lý vị nhiên vị nhiên ! 天理未然,未然!

Có nghĩa :

Mưu tính công việc là ở người, còn...
Thành công hay thất bại là do trời,
Người muốn như thế nầy, như thế nầy đây, nhưng...
Cái lẽ trời cho biết là còn chưa được, còn chưa được !


Gia Cát Khổng Minh là người giỏi cả binh thư thao lược, trên thông thiên văn dưới thông địa lý, mang chí lớn muốn khôi phục lại nhà Hán, lập rất nhiều công lớn trong việc giúp Lưu Bị tam phân thiên hạ, lập nên nhà Thục Hán, nhưng lục xuất Kỳ Sơn đều thất bại, cuối cùng đành ôm hận mà chết với câu than bất hủ là " Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên " như đã nêu trên.

Con người khi còn nằm trong bụng mẹ, chưa được sanh ra, chưa thấy trời, thì gọi là Tiên Thiên 先天. Được sanh ra rồi, mở mắt đã thấy trời rồi, thì gọi là Hậu Thiên 後天. Hằng ngày phải đầu tắt mặt tối đội trời để làm việc kiếm sống, thì gọi là Thiên Thiên 天天. Vui vẻ trong cuộc sống thì gọi là Lạc Thiên 樂天. Buồn thảm trong cuộc sống thì gọi là Bi Thiên 悲天. Khi nhắm mắt xuôi tay rồi thì gọi là Quy Thiên 歸天. Tuổi thọ và những năm tháng mà ta có được gọi là Thiên Niên 天年, là những ngày tháng của Trời ban cho.

Mong rằng tất cả đều quy thiên 歸天 trong cái tâm tình lạc thiên 樂天 để đều được vui hưởng những thiên niên 天年 tuyệt vời trong cuộc sống !

Đỗ Chiêu Đức - 杜紹德

2/22/23

Giới Luật

Giới Luật

        Có một lần cùng các huynh tỷ đi làm công tác từ thiện, khi kết thúc buổi công tác thì trời đã đi dần vào xế chiều, các huynh tỷ đề nghị cùng nhau dùng cơm tối để luôn tiện hàn huyên tâm sự sau một thời gian dài không được hội ngộ vì cơn dịch Covid. Vì đa phần các huynh tỷ không thọ giới chay trường, nên chúng tôi chọn một nhà hàng hải sản. Tôi thì tùy duyên nên chỉ ăn những cọng rau bên cạnh thịt cá, miễn sao hòa đồng với mọi người. Nhưng có một huynh khác thì trì giới nghiêm cẩn, huynh ăn chay như người xuất gia, chỉ ăn những thực vật thanh tịnh không có máu huyết và kiêng cữ luôn cả những đồ tanh, hành tỏi... Vì vậy, sư huynh cương quyết từ chối chung vui với chúng tôi, rồi ra về một mình. Nhìn bóng dáng huynh lủi thủi xa dần trong buổi chiều tà đêm đông, mọi người đều cảm thấy ít nhiều sự tiếc nuối và bầu không khí đột nhiên trở nên hơi nặng nề.

        Sự kiện xảy ra khiến tôi suy nghĩ. Nếu đứng trên phương diện tôn giáo và đức tin thì dĩ nhiên phải tuân theo giới luật quy định. Nhưng nếu đứng trên góc nhìn thông thoáng một tí, thì tôn chỉ và mục đích của bất cứ tôn giáo nào cũng muốn mọi người được sống vui vẻ và hạnh phúc. Nghiêm trang và cảm thông cũng như mọi sự việc trên đời đều như hai mặt của một đồng tiền bổ túc lẫn nhau để thể hiện sự toàn diện và viên mãn.

        Tất cả giới luật trong Phật giáo không nhằm mục đích ràng buộc bất cứ một ai. Luật lệ xã hội cũng chỉ nhằm ngăn ngừa những lỗi lầm để cho con người sống có hạnh phúc. Nhưng tất cả đều tùy theo hoàn cảnh và phương tiện mà du di để con người được an lạc. Ví dụ, nếu chúng ta bị giấy phạt vì vượt đèn đỏ, sau đó chúng ta yêu cầu được lên tòa giao thông xin trình bày lý do vi phạm luật đi đường, lỗi ấy không phải là một hành vi cố tình, mà vì hôm đó thắng xe bị trở ngại đột ngột, chúng ta nhận sai sót này. Thường thì luật và quan tòa sẽ châm chước và giảm khinh án phạt cho sự cố trên.
 
        Đó là sự linh động của luật lệ, thế nên trong giới luật Phật pháp có bốn phần: Khai, giá, trì, phạm (開遮持犯). Khai là mở, giá là ngăn che, trì là giữ, nếu không giữ được là phạm. Ví dụ người xuất gia thì không được va chạm với phụ nữ, nhưng nếu gặp trường hợp nhìn thấy một phụ nữ bị té ngã mà không ra tay cứu giúp vì phải giữ giới thì thiết nghĩ sự dửng dưng đó không hợp lý hợp tình. Thực sư giới luật trong nhà Phật tức là đạo đức, chúng ta giữ giới nhằm tăng trưởng đạo đức của con người. Như vậy chúng ta còn gì đạo đức khi thấy người khác gặp nạn mà không ra tay cứu giúp. Trong khi cứu giúp mà cần phải bồng bế nhưng tâm không bao giờ có sự đen tối ô uế hay tà ý, chỉ nhằm mục đích cứu người chớ không có bất cứ một sự lợi dụng nào cả. Như vậy, thiết nghĩ tu sĩ ấy không phạm giới, nói đúng hơn vị tu sĩ ấy biết cách giữ giới.

        Người có đạo ắt có đức nên gọi là đạo đức. Chúng ta theo đạo không phải để bái kính hay tôn thờ một đấng thần linh tối thượng nào, mà là giữ giới để làm tròn nhân cách của mình. Giới là đạo đức, càng giữ giới thì nhân cách càng thanh cao.

        Năm 2004, pháp sư Tịnh Không đến Bắc Kinh hoằng pháp, tạm trọ ở Nhà Hàng Quốc Tế tại Bắc Kinh. Một hôm tình cờ gặp một đồng tu rất thân, là thương gia nổi tiếng tại địa phương. Hôm đó vị đồng tu chủ trì hôn lễ cho con trai và có nhã ý mời Sư làm người chứng hôn mặc dù người bạn ấy trước đó đã mời chủ tịch cục chánh hiệp Bắc Kinh đảm trách vai trò chứng hôn rồi. Nếu hôn lễ được một tăng một tục cùng chứng hôn thì hôn lễ sẽ càng có ý nghĩa và tròn đẹp. Khi được biết con dâu là người Nhật và khách đến dự hôm đó gồm nhiều viên chức đại sứ quán Nhật, cán bộ trong bộ nội vụ Bắc Kinh cùng nhiều thương gia nổi tiếng địa phương. Đây là cơ duyên hiếm có để giới thiệu Phật pháp cho giới thượng lưu ít có cơ hội tiếp xúc đạo lý không môn, cho nên Sư đồng ý nhận làm chứng hôn.

        Sự hiện diện của Sư Tịnh Không hoàn toàn nằm ngoài dự tính, cho nên buổi tiệc toàn là đồ mặn. Sư tùy duyên dùng rau cải bên cạnh thịt cá. Cuộc vui nào đương nhiên đều có mời rượu để mọi người chúc phúc nhau. Sư tuyên bố chỉ nhấp ly nhỏ. Có người cho rằng “Sư Tịnh Không” phá giới, nhưng Sư nói đó là khai duyên, bởi vì Sư không có dự tính tham dự buổi tiệc thế tục và mời rượu chúc phúc cho hôn lễ. Học Phật phải được lợi ích chân thật, vậy lợi ích chân thật là biết áp dụng nguyên tắc khế lý khế cơ vào đời sống hằng ngày. Khế lý: “khế” tức là hợp, “lý” tức là chân lý. có nghĩa là phù hợp với đạo lý, pháp lý. Khế cơ : có nghĩa là phù hợp với từng hoàn cảnh, từng căn cơ của người nghe. Phật hiểu được căn tánh của chúng sanh mà tùy nghi hóa độ, đưa ra những phương tiện để dẫn dắt chúng ta đi đến chánh pháp. Nếu quá nghiêm khắc chấp trước trong việc hoằng đạo, không trắng là đen, không kiên thủ thì có tội, thì nhiều người sẽ e ngại và không muốn tiếp xúc với Phật pháp.

        Trở lại câu chuyện buổi hôn lễ, trong khi mời rượu, chủ hôn mời Sư nói vài lời chúc phúc cô dâu chú rể, đây là cơ duyên hoằng pháp rất khế cơ khế thời. Mở đầu, Sư giới thiệu sơ lược về Phật pháp. Nhờ vậy mà có nhiều người đã hiểu thêm và chấp nhận Phật pháp. Sư giải bày giáo lý nhà Phật không ràng buộc bất cứ điều gì trong cuộc sống, giới luật nhà Phật linh động uyển chuyển, giữ giới là giữ nhân cách để cuộc sống được hạnh phúc cho chính bản thân và người khác.

        Khai giới là lợi ích cho chúng sinh, trì giới là lợi ích cho chính mình. Nếu cứ khư khư giữ giới tu trì mà không nghĩ đến hạnh phúc của người khác thì không phù hợp với giáo lý của đạo Phật là từ bi chúng sanh, cứu nhân độ thế. (Trích lục từ buổi khai thị "A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung kinh"(阿難問事佛吉凶經)15-13-57).

        Khoảng 3000 năm trước thời Phật còn tại thế, chư tăng phải giữ giới thanh quy, chỉ đi trì bình thác bát, khất thực nuôi thân và không được giữ tiền. Thời gian trôi qua, cuộc sống xã hội đã thay đổi, chư tăng không thể ngày ngày ôm bình đi khất vì có thể bị hiểu lầm là loại sâu mọt xã hội. Thế nên Tổ thiền tông Bách Trượng Hoài Hải đã lập ra một thanh quy "nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực" (một ngày không làm, một ngày không ăn). Xã hội công nghiệp ngày nay, chú trọng hiệu quả kinh tế, nhiều nhà chùa không còn ngồi chờ bá tánh cúng dường, do đó, một số chùa tự sản xuất thực phẩm, nhang đèn để tự lực cánh sinh. "Sống là làm" đã trở thành một triết lý tự nhiên trong đời sống cũng như tu hành để không ăn cơm của chùa và bá tánh một cách uổng phí.

        Chư tăng ngày nay không thể đi bộ để hoằng pháp như thời đức Phật, nếu không giữ tiền, ai cho lên xe. Đừng vì thế mà bảo là phạm giới.

        "Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác" (佛法在世間,不離世間覺), sự tồn tại của Phật Giáo là hướng dẫn con người có một cuộc sống chơn thiện mỹ, và trở thành người có nhân cách đạo đức toàn thiện. Phật pháp tồn tại vì đời người. Nếu không có đời thì sẽ không có đạo, đời và đạo nương nhau mà có. Vì vậy thế gian pháp tức Phật pháp, Thế sự biến thiên vô thường, Phật pháp cũng có thể uyển chuyển linh động. Tinh thần giới luật của Phật phải tùy cơ, tùy thời và tùy xứ. Vì thân tâm thanh tịnh và sự ổn định của xã hội mà giữ giới; vì từ bi hỷ xả và lợi ích chúng sinh mà khai giới. Giới luật đưa đến trí tuệ, dùng trí tuệ hướng dẫn giới luật mà không bị giới luật một mực cấm chế để rồi làm mất đi giá trị thâm thúy thiêng liêng của giáo lý nhà Phật.

Trường
02-22-2023





2/20/23

Phiếm luận về chữ LẠC - 落

Nhất Diệp Tri Thu 一葉知秋

LẠC 樂 là Vui, LẠC là Liên Lạc 聯絡, LẠC là con Lạc Đà 駱駝... Trong bài viết nầy ta chỉ đề cập đến LẠC 落 là Rơi, là Rụng, là Rớt... Theo "Chữ Nho... Dễ Học" thì chữ LẠC thuộc dạng Hài Thanh, có diễn tiến chữ viết như sau :
               

Ta thấy :
            Ta thấy qua Đại Triện Tiểu Triện đều có bộ dạng của chữ Thảo 艸 bên trên, đến chữ Lệ chữ Khải thì đã hình thành bộ Thảo 艹 như chữ viết hiện nay; Phần bên dưới là diễn tiến của chữ Lạc 洛 dùng để chỉ Âm Đọc, còn phần trên bộ Thảo là Hoa Cỏ dùng để chỉ Ý Nghĩa. Nên nghĩa gốc của  chữ LẠC 落 là chỉ "Sự Rơi, Rụng của Cây Cỏ Lá Hoa". Như 2 câu cổ thi sau đây :

                           梧桐一葉落,    Ngô đồng nhất diệp lạc,
                           天下共知秋。    Thiên hạ cộng tri thu.
Có nghĩa :
               - Một lá ngô đồng rơi rụng,
               - Thiên hạ đều biết thu sang !


   Từ đó hình thành thành ngữ NHẤT DIỆP TRI THU 一葉知秋 : Chỉ cần một chiếc lá thôi thì đã biết mùa thu đã đến rồi. Trong truyện Kiều để diễn tả mùa thu đã đến từ lâu, cụ Nguyễn Du đã cho đến vài chiếc lá ngô đồng rơi rụng, khi tả đoạn Thúc Sinh về nhà thăm Hoạn Thư :

                         Thú quê thuần hức vén mùi,
                    Giếng vàng đã rụng Một Vài Lá Ngô.

        LẠC DIỆP 落葉 là Lá rơi. LÁ RƠI lại làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ bất hủ của nhà thơ Giả Đảo trong bài Ức Giang Thượng Ngô Xử Sĩ 憶江上吳處士 :

                                    秋風吹渭水, Thu phong xuy Vị Thủy,
                                 落葉滿長安。  LẠC DIỆP mãn Trường An.
Có nghĩa :
                             Gió thu sông Vị sóng vây,
                                    Lá thu theo gió rụng đầy Trường An !

         "Lạc diệp mãn Trường An" gợi lên hình ảnh trời thu ngút ngàn với lá vàng rơi rụng phủ kín cả thành Trường An. Qủa là một cảnh thu gợi hình và nên thơ vô hạn ! Trong Đào Hoa Nguyên Ký của Đào Tiềm đời Tấn thì gọi hoa rụng đầy trời là LẠC ANH TÂN PHÂN 落英繽紛 khi ông lạc vào cảnh Đào Nguyên :

                             芳草鮮美,     Phương thảo tiên mỹ,
                             落英繽紛.     Lạc anh tân phân !
Có nghĩa :
                       Cỏ non thơm ngát đâu đây,
                 Hoa đào theo gió rụng đầy khắp nơi !

        Thành ngữ LẠC ANH TÂN PHÂN 繽紛 là "Hoa rụng tơi bời" lại làm cho ta nhớ đến LẠC ANH CHƯỞNG PHÁP 落英掌法 của Đào Hoa Đảo Chủ Hoàng Dược Sư trong truyện Anh Hùng Xạ  Điêu của Kim Dung, ông đã sáng tác chưởng pháp HOA RỤNG nầy dạy cho con gái Hoàng Dung để phòng thân, vì khi múa lên thì như có muôn ngàn đóa hoa rơi chung quanh để bảo vệ thân mình, nên mới đặt tên là LẠC ANH 落英 (Hoa Rụng) chưởng pháp.

        ANH 英 là tinh anh của cây cỏ, nên cũng có nghĩa là Hoa. LẠC ANH tức là LẠC HOA 落花. Trong văn học cổ ta hay gặp nhóm từ Lạc Hoa Lưu Thủy 落花流水 là Hoa rụng nước chảy, nhưng ta thường nói thành "Nước chảy hoa trôi" như trong câu nói : Lạc hoa hữu ý, Lưu thủy vô tình 落花有意,流水无情。Là Hoa rơi có ý mà nước chảy vô tình; thường dùng để chỉ "Muốn người ta người ta không muốn, Xách cây dù đi xuống đi lên" mà nào ai có thấu hiểu cho đâu !

        LẠC HOA là Hoa rụng, nên Mùa Hoa Rụng được gọi là LẠC HOA THỜI TIẾT 落花時節, thường dùng để chỉ khoảng thời gian cuối xuân đầu hạ, như 2 câu thơ trong bài "Giang Nam phùng Lý Quy Niên 江南逢李龜年" của Thi thánh Đỗ Phủ 杜甫 :

                     正是江南好風景,     Chính thị giang nam hảo phong cảnh,
                     落花時節又逢君。     LẠC HOA THỜI TIẾT hựu phùng quân. 
Có nghĩa :
                     Đúng lúc Giang nam phong cảnh đẹp,
                     Đang mùa hoa rụng lại tương phùng.

       
        Giống như Lá rơi, hoa rơi, mưa rơi là LẠC VŨ 落雨, Tuyết rơi là LẠC TUYẾT 落雪, Lệ rơi là LẠC LỆ 落淚... Nhưng LẠC THỦY không phải là Nước rơi, mà là Rơi xuống nước. Ta có thành ngữ LẠC THỦY CẨU 落水狗 là Con chó té xuống nước, chỉ những kẻ xấu xa bị báo ứng trông nhếch nhác thảm hại như con chó bị té xuống nước vậy ! Nhưng THỦY LẠC 水落 lại có nghĩa là nước rút xuống, lấy ý một câu trong bài Tiền Xích Bích Phú của Tô Đông Pha là THUỶ LẠC THẠCH XUẤT 水落石出. Có nghĩa Khi nước rút xuống thì đá sẽ bày ra. Thành ngữ nầy dùng để chỉ việc gì đó đã  được rõ ràng minh bạch, không còn gì nghi ngờ hay khuất lấp nữa.

         Ta lại có từ LẠC NHẬT 落日 là Mặt trời lặn, là Nắng đã xế chiều, như trong 2 câu thơ của Thi tiên Lý Bạch trong bài Tống Hữu Nhân như sau :

                           浮雲遊子意,      Phù vân du tử ý,
                           落日故人情。    Lạc nhật cố nhân tình !
Có nghĩa :
                   Ý người du tử mây trôi nổi,
                   Tình cố nhân kia tựa nắng chiều !

        Người du tử ra đi như đám mây trôi nổi khắp bốn phương trời vô định, còn tình của kẻ cố nhân thì quyến luyến tựa ánh nắng chiều bám víu mãi không thôi. Quả là tình ý thiết tha sâu đậm biết bao nhiêu !  

        Còn trăng lặn thì đã có 2 câu thơ nổi tiếng trong bài Phong Kiều Dạ Bạc 楓橋夜泊 của Trương Kế 張繼 đời Đường là :

                       月落烏啼霜滿天,        NGUYỆT LẠC ô đề sương mãn thiên,
                       江楓漁火對愁眠.        Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Có nghĩa :
                       Trăng lặn quạ kêu sương đầy trời,
                       Hàng phong sầu đối lửa chài phơi .

        
        LẠC 落 là rơi là rớt cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, như "Đôi mắt em như 2 vì sao Lạc" là lời nói "xạo" để lấy lòng người đẹp. LẠC ĐỀ 落題 là "Rớt" khỏi đề tài của người ta đưa ra hay yêu cầu. Đi thi mà LẠC ĐỀ 落題 sẽ đưa đến LẠC ĐỆ 落第. Lạc Đệ là rớt khỏi các bậc thang mà người ta xếp hạng, nên LẠC ĐỆ 落第 là Thi rớt, như LẠC ĐỆ TRẠNG NGUYÊN 落第狀元, LẠC ĐỆ TÚ TÀI 落第秀才... Thi Rớt còn có một thành ngữ rất hay, rất lý thú là DANH LẠC TÔN SƠN 名落孫山, theo như tích sau đây :
        Vào đời nhà Tống có thư sinh tài tử, tên là Tôn Sơn 孫山 tính tình vui vẻ lại thích nói đùa, nên mọi người đều gọi anh ta là "Hoạt kê Tài tử 滑稽才子". Có một bận, anh ta cùng với con trai nhà hàng xóm ra tỉnh thành ứng thi Cử Nhân. Khi bảng vàng được trương ra, anh ta thấy tên mình đậu ở cuối bảng, nhưng lại không thấy tên của con người hàng xóm. Khi về đến thôn làng, người hàng xóm đón anh ta lại để hỏi thăm xem con của mình có đậu được Cử Nhân hay không. Với tính hài hước cố hữu, hơn nữa lại sợ làm đau lòng người hàng xóm, anh ta bèn đáp rằng : “Giải Nguyên tận xứ thị Tôn Sơn, Hiền lang cánh tại Tôn Sơn ngoại 解元盡處是孫山,賢郎更在孫山外!. Có nghĩa : Người đậu Giải Nguyên (cách gọi tôn xưng đối với người đậu Cử Nhân) cuối cùng là Tôn Sơn tôi đây, còn tên con của bà thì ở phía ngoài tên Tôn Sơn của tôi nữa ! Tôi là người đậu cuối bảng rồi, con của bà ở phía sau tên của tôi nữa là nó đã "rớt mất tiêu" rồi ! Câu nói vừa khôi hài vừa an ủi, tên con của bà đứng sát tên của tôi là khoa tới nó sẽ đậu đó.
       Từ đó về sau, người ta gọi người thi rớt là DANH LẠC TÔN SƠN, hay người thi rớt tự nói cho đỡ ngượng là :"Kỳ thi này, tôi đã DANH LẠC TÔN SƠN 名落孫山 rồi !
                           
        Đi theo không kịp người khác, bị rớt lại phía sau thì gọi là LẠC HẬU 落後, không cập nhật,  theo không kịp người khác về các mặt văn hóa, xã hội, tư tưởng... đều gọi là LẠC HẬU. Còn thất sở thân sơ lang thang đây đó thì gọi là LƯU LẠC 流落, nhất là sau 1975, người Việt Nam ta Lưu Lạc khắp nơi trên thế giới, gọi là LƯU LẠC THA PHƯƠNG 流落他方 lang thang nơi dị quốc. Còn LIÊU LẠC 寥落 là Cô Liêu Hoang Lạc 孤寥荒落, là thưa thớt, vắng vẻ, quạnh quẽ, như bài thơ Hành Cung 行宮 của Nguyên Chẩn 元稹 đời Đường :

                           寥落古行宮,    LIÊU LẠC cổ hành cung,
                           宮花寂寞紅。    Cung hoa tịch mịch hồng.
                           白頭宮女在,    Bạch đầu cung nữ tại,
                           閒坐說玄宗。    Nhàn tọa thuyết Huyền Tông.
Có nghĩa :
                         Vắng vẻ hành cung xưa,
                         Cung hoa đỏ lưa thưa.
                         Tóc trắng người cung nữ,
                         Kể chuyện Huyền Tông xưa !      

         LƯU LẠC 流落 là cuộc sống nổi trôi, lang thang rày đây mai đó, nhưng LẠC PHÁCH 落魄 (còn được đọc là LẠC THÁC) lại là cuộc sống phóng túng điểm chút hào hùng của những người thích tự do tự tại với thói sống giang hồ, nên ta lại có thành ngữ LẠC PHÁCH GIANG HỒ 落魄江湖 để chỉ những kẻ ăn chơi bạt mạng bất cần đời, không hại ai nhưng cũng chẳng giúp ích gì cho xã hội, như bài thơ Khiển Hoài 遣懷 phóng túng của nhà thơ Đỗ Mục 杜牧 trong buổi Tàn Đường sau đây :

                落魄江湖載酒行,  Lạc phách giang hồ tải tửu hành,
                楚腰纖細掌中輕。  Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh. 
            十年一覺揚州夢,  Thập niên nhất giác Dương Châu mộng,
                贏得青樓薄幸名。  Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh !
Có nghĩa :
                Bầu rượu giang hồ khắp lữ trình,
                Eo thon mình nhẹ khéo là xinh.
                Mười năm tỉnh giấc Dương Châu ấy,
                Nổi tiếng lầu xanh kẻ bạc tình !

        Câu cuối của bài thơ đã được cụ Nguyễn Du mượn lời để nói về anh chàng Sở Khanh trong Truyện Kiều là ...
                       Bạc tình nổi tiếng lầu xanh,
                (Một tay chôn biết mấy cành phù dung!) 


        LẠC NHẠN TRẦM NGƯ 落雁沉魚 là Chim sa cá lặn, chỉ 2 người đẹp Vương Chiêu Quân và Tây Thi gái  đất Việt. Vương Chiêu Quân đẹp đến nổi khi đi ra cửa ải Nhạn Môn Quan chim nhạn trông thấy nàng đều sa cả xuống bãi cát không bay lên nổi; Từ tích nầy lại hình thành một thành ngữ khác là BÌNH SA LẠC NHẠN 平沙落雁 là tên một khúc cổ cầm có từ đời Đường do Trần Tử Ngang biên soạn, qua các đời Tống, Nguyên, mãi đến đời Minh(1634)mới  được  sưu tập lại trên 50 bài bản phổ biến đến hiện nay. Nhưng ...
            
                    Nghe hợp tấu cổ khúc: Lạc nhạn trầm ngư

       Thành ngữ mà Hoa Việt gì đều thông dụng cả, đó chính là LẠC DIỆP QUY CĂN 落葉歸根 mà ta thường nói thành "Lá rụng về cội".  Còn làm việc hay xử lý sự việc đâu ra đó hẵn hoi, đầy đủ tình lý đàng hoàng thì gọi là QUANG MINH LỖI LẠC 光明磊落.
 
       LẠC 落 còn là một đơn vị hành chánh, như THÔN LẠC 村落 là Xóm Làng. BỘ LẠC 部落 là một bộ tộc của đồng bào thiểu số. VIỆN LẠC 院落 hay ĐÌNH LẠC 庭落 là chỉ Một góc sân trong nhà.

         LẠC 落 còn là tên của một khúc hát dân gian, như LIÊN HOA LẠC 蓮花落 là tên của một khúc hát của Cái bang ở miền bắc Trung Hoa. Đọc truyện võ hiệp của Kim Dung sẽ thấy đám đệ tử của Bc Cái Hồng Thất Công khi lập Đả Cẩu Trận sẽ hát khúc Liên Hoa Lạc nầy để cùng tiến cùng lui cùng công cùng thủ. 

Hồng Thất Công và Kiều Phong : Bang chủ Cái Bang (Ảnh minh họa)

       Trong bài "Vọng Lư Sơn Bộc Bố" (Ngắm thác nước Lư Sơn) của Thi Tiên Lý Bạch có 2 câu cuối rất hay như sau :

                      飛流直下三千尺,   Phi lưu trực há tam thiên xích,
                      疑是銀河落九天     Nghi thị Ngân Hà LẠC cửu thiên.
Có nghĩa : 
                      Bay thẳng từ cao ba ngàn thước,
                      Cứ ngỡ Ngân Hà rớt khỏi mây!

      Với thủ pháp nghệ thuật điêu luyện, Thi Tiên Lý Bạch đã đã tả lại vẻ hùng vĩ tráng lệ của con thác Lư Sơn như từ trên chín từng mây đổ xuống qua sương khói của đỉnh Hương Lư sầm sập trút thẳng xuống như dãy Ngân Hà nghiêng đổ. Lời thơ mạnh mẽ với các từ như "Phi lưu trực há : Chảy như bay đổ thẳng xuống !", "Ngân Hà LẠC cửu thiên : là Ngân Hà RƠI từ trên chín từng trời rơi xuống !"


        LẠC BÚT 落筆 là đặt ngòi bút chạm vào giấy để viết hay vẽ; còn LẠC KHOẢN 落款 là đặt ngòi bút xuống chỗ nào đó trên giấy hoặc trên tranh để ghi chú, đề từ hay ký tên vào đó. Còn LẠC THÀNH 落成 là Khánh thành nên LẠC THÀNH ĐIỂN LỄ 落成典禮 là Lễ Khánh Thành  (công trình nào đó). Còn...
            LẠC TỈNH 落井 là Té giếng, ta lại có thành ngữ LẠC TỈNH HÁ THẠCH 落井下石 để chỉ lòng dạ của những kẻ ác gian; Thấy người ta đã té xuống giếng rồi còn ném theo một tảng đá nữa "cho mầy chết luôn !".


*********

Cuối cùng ta có thành ngữ :        
     - Nhân Đầu Lạc Địa 人頭落地 là Đầu người rơi xuống đất, ý chỉ bị chết chém.
   ... và một thành ngữ nữa trái ngược với thành chữ trên là :
     - Oa Oa Lạc Địa 呱呱落地 là em bé mới được sanh ra đầu rớt trước xuống đất nên cất tiếng khóc oa oa...

       Còn rất nhiều rất nhiều những từ ngữ thành ngữ có chữ LẠC trong ngôn ngữ cuộc sống, như LẠC ĐỊA KHAI HOA 落地開花 là Rớt xuống đất bèn nở hoa, là lời nói khéo khi ta làm rớt bể cái ly cái chén gì đó, nói cho vui cho đỡ ngượng... Từ chữ NHO (Hán Việt) chữ LẠC đã bị NÔM HÓA đi vào cuộc sống thường ngày của dân ta với rất nhiều từ ngữ, như...

       Người Hoa gọi là LẠC HOA SANH 落花生, người miền Bắc của ta gọi tắt thành một chữ LẠC, trong khi người miền Nam gọi là ĐẬU PHỌNG; nên LẠC RANG là ĐẬU PHỌNG RANG.
       Cái gì đó RƠI, RỚT ra ngoài cái lẽ thường tình thì đều được gọi là LẠC. Như ca rớt nhịp, thì gọi là LẠC NHỊP; Ca sai giọng thì là LẠC GIỌNG; Đàn không ăn dây thì gọi là LẠC PHÍM, như lời của bài hát Đường Lên Sơn Cước của nhạc sĩ Lê Bình :

              ... Dây tơ LẠC PHÍM, chim ngưng cánh bay
                  Quê hương khuất bóng sông dài
                  Xanh xanh mặt nước còn in bóng dừa ?
                  Tìm đâu thấy con đò xưa...

       Làm thơ không theo đúng đề thì là LẠC ĐỀ, không đúng vần thì gọi là LẠC VẬN; Con chim tìm không được bầy để về thì gọi là LẠC BẦY; lìa khỏi đàn thì gọi là LẠC ĐÀN. Như Thúy Kiều bán mình chuộc cha, một thân một mình rời khỏi gia đình để đi theo Mã Giám Sinh, thì gọi là LẠC LOÀI, cô đã tiếc rẻ khi phải thất thân với Mã Giám Sinh :                       

                    Biết thân đến bước LẠC LOÀI,
               Nhụy đào thà bẻ cho người tình chung.
              
       Không biết đường về nhà, hay không biết đường nào để về nhà, thì gọi là LẠC ĐƯỜNG; nhưng đi sai đường lối của tổ chức, hội đoàn hay con đường đúng đắn phải đi cũng gọi là LẠC ĐƯỜNG, như khi Thúy Kiều kể lể với cái anh chàng Sở Khanh để nhờ cứu giúp : 
                 
                      Rằng: “Tôi bèo bọt chút thân,
                 LẠC ĐƯỜNG mang lấy nợ nần yến anh. 
                       Dám nhờ cốt nhục tử sinh,
                 Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau !

        TRỤY LẠC 墜落 hay ĐỌA LẠC 墮落 gì Đều chỉ cuộc sống bị Rơi khỏi cái tiêu chuẩn, cái chuẩn mực bình thường, là đời sống sa đọa thấp hèn của những con người Lầm Đường LẠC lối. Trong  đời sống của cái xã hội đầy xa hoa đầy cám dỗ trước mắt, con người rất dễ bị LẠC. Mong rằng tất cả chúng ta đều phải nên cẩn trọng, để được LẠC bước đến Thiên đàng, đừng để phải LẠC đường vào  Địa ngục sẽ muôn kiếp chẳng được siêu sinh !

Đỗ Chiêu Đức  杜紹德