Cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 khá “ngoạn mục”. Ngoạn mục không chỉ vì đó là năm 2000, đóng lại một thế kỷ, một thiên niên kỷ, và mở ra một thế kỷ mới, một thiên niên kỷ mới. Ngoạn mục vì bầu cử năm đó là một cuộc tranh đua giữa Phó Tổng thống Al Gore, đại diện cho đảng Dân Chủ, và Thống đốc Texas George W. Bush (hai nhiệm kỳ, từ 1995-2000), đại diện cho đảng Cộng Hòa. Từ cuộc bầu cử này người dân Mỹ mới thấy cha con ông Bush làm lịch sử. Cựu tổng thống Bush (H.W.) còn có một người con khác, Jeff Bush, đang làm thống đốc tiểu bang Florida, và ông Bush cha cứ nghĩ “thằng Jeff lanh hơn, sẽ ra trước thằng George”. Nhưng George W. Bush (1946) lại ra trước bởi vì quanh ông đang có đông đúc giới quân sư chính trị làm áp lực. Hai cha con Bush đã làm nên một kỷ lục: lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ, đời cha đời con đều làm tổng thống (không ai phải ăn mặn, không ai phải khát nước).
Qua cuộc bầu cử này, giới quan sát chính trị nhận định: đảng Cộng Hòa, trên bình diện quốc gia, đã chuyển từ cánh hữu sang trung tâm vào những năm 1940 và 1950, sau đó trở lại cánh hữu vào những năm 1970 và 1980. Trong khi đó, đảng Dân Chủ, cũng trên phạm vi quốc gia, đã chuyển từ cánh tả sang trung tâm trong những năm 1940 và 1950, sau đó tiến xa hơn về phía cánh hữu trong những năm 1970 và 1980. Cuộc tranh cử tổng thống vào năm 2000 giữa Bush và Gore đã cho thấy sự phân cực chính trị không thực sự nghiêm trọng. Cuộc bầu cử ở các bang quyết định là New Mexico và Florida đã diễn ra vô cùng sít sao và tạo ra một cuộc tranh cãi gay gắt về việc kiểm phiếu. Kể cả năm 2000, đảng Dân Chủ thường bỏ phiếu cao hơn đảng Cộng Hòa về số phiếu toàn quốc trong mọi cuộc bầu cử từ năm 1992 đến năm 2020, ngoại trừ năm 2004. Thế nhưng bầu cử tồng thống ở Mỹ còn bị vướng mắc bởi qui luật cử tri đoàn mà người ta không chịu bỏ đi hay sửa đổi. Cho nên vấn đề thường ở chỗ đó, rắc rối thường ở chỗ đó.
Ứng cử viên của đảng Dân Chủ Phó tổng thống Al Gore đương nhiên không phải là người xa lạ. Thống đốc bang Texas hai nhiệm kỳ George W. Bush cũng không phải là người xa lạ vì Texas là tiểu bang lớn, mà ông Bush cha cũng lớn. Việc ông Gore chọn Thượng nghị sĩ Joseph Lieberman của Connecticut đứng chung với ông là một việc làm lịch sử; Lieberman trở thành người Mỹ gốc Do Thái đầu tiên tranh cử vào chức vụ quốc gia. Nhờ Lieberman, Gore lấy hết số tiền vận động và số phiếu của người Mỹ gốc Do Thái. Vì Lieberman, Gore mất một số phiếu đáng kể của những người “bài Do Thái”. Cuộc bầu cử cho thấy đất nước được chia cắt như thế nào. Mặc dù sức mạnh của Gore ở Đông Bắc, Illinois và California đã giúp ông dẫn đầu về số phiếu phổ thông, nhưng bản đồ cử tri đoàn lại là một câu chuyện khác. Khi đầy đủ tin tức bầu cử đến từ khắp đất nước, rõ ràng là Florida sẽ quyết định kết quả. Florida là tiểu bang mà Jeff Bush là thống đốc. George W. Bush cũng là người có kinh nghiệm tranh cử. Năm 1994, ông đã thắng bà đương kim thống đốc Texas Ann Richards người Dân Chủ trong cuộc tranh cử thống đốc tiểu bang này, một phần là nhờ quân sư Karl Rove đã khéo gieo tin: bà Richards mắc bệnh đồng tính! Như Reagan trước đây phủ nhận chuyện ông giúp loạn quân Contra, đó là do “mấy đứa ở dưới”, nay ông Bush cũng nói: “Ai gieo tin đồn nhảm, tôi chỉ hái quả”.
Đến cuối tháng 11, hội đồng vận động tranh cử của bang Florida đã chứng nhận Bush là người chiến thắng với 537 phiếu bầu, nhưng cuộc bầu cử vẫn chưa được giải quyết do các cuộc chiến pháp lý vẫn còn. Cuối cùng, Tòa án Tối cao Florida đã quyết định (4–3) ra lệnh kiểm phiếu lại bằng tay trên toàn tiểu bang đối với khoảng 45.000 phiếu bầu không đủ tiêu chuẩn—các phiếu bầu mà máy ghi lại là không thể hiện rõ ràng một phiếu bầu tổng thống—và chấp nhận một số kết quả chưa được xác nhận trước đó ở cả Miami-Dade và Palm Beach, làm giảm số phiếu dẫn đầu của Bush xuống chỉ còn 154. Chiến dịch tranh cử của Bush nhanh chóng đệ đơn kháng cáo lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, yêu cầu tòa án này hoãn kiểm phiếu lại cho đến khi có thể xét xử vụ việc; tòa án đã ban hành quyết định tạm hoãn vào ngày 9-12. Ba ngày sau, tòa án kết luận (7–2) rằng việc kiểm phiếu lại công bằng trên toàn tiểu bang không thể được thực hiện kịp thời để đáp ứng hạn chót ngày 18-12 để xác nhận các đại cử tri của tiểu bang, tòa án đã đưa ra phán quyết định với tỷ lệ 5-4 gây nhiều tranh cãi, đảo ngược lệnh kiểm phiếu lại của Tòa án Tối cao Florida, có nghĩa là Bush được xem là đã chiến thắng. Nhờ chiến thắng mù mờ ở Florida, Bush đã giành được phiếu đại cử tri sát nút trước Gore với tỷ số 271/266 — chỉ nhiều hơn 1 phiếu so với yêu cầu 270 (một cử tri Gore bỏ phiếu trắng). Tuy nhiên, Gore đã hơn Bush về số phiếu phổ thông với khoảng 500.000 phiếu bầu—sự đảo ngược đầu tiên giữa phiếu đại cử tri và phiếu phổ thông kể từ năm 1888.
Vì uất ức trước kết quả bầu cử này, nghe nói Gore (1948-) đã không được “bình thường” trong hơn 20 năm qua, dù cho năm 2007 ông được giải Nobel vì đấu tranh cho việc bảo vệ môi trường, ngăn ngừa global warming. Sự đời là thế: Bush cha không đáng thua, lại không thắng; Bush con không đáng thắng, lại không thua!
Chương trình trong nước. Nội các của Bush là một “tuyển tập” Cộng Hòa chính thống từ bao đời, từ Phó Tổng thống Dick Cheney đến Ngoại trưởng Colin Powell, Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld, Bộ trưởng Tư pháp John Ashcroft, Bộ trưởng Lao động Elaine Chao…. Việc thành lập Văn phòng Sáng kiến Cộng đồng Dựa trên Tín ngưỡng (Office of Faith-Based Community Initiatives) của Nhà Trắng vào đầu nhiệm kỳ đầu tiên của Bush là một ví dụ điển hình về con người “bảo thủ nhân ái” hay chính sách “tân bảo thủ” của Bush. Sử gia vẫn gọi Bush có con đường bảo thủ mới, mục tiêu là giúp các tổ chức cộng đồng từ thiện, bao gồm cả các tổ chức tôn giáo, dễ dàng tiếp cận với các quỹ liên bang cho các chương trình trong các lĩnh vực như phòng chống tội phạm, giáo dục ma túy, nghèo đói và quan hệ gia đình.
Chính quyền đã thúc đẩy những thay đổi về quy định trong một số bộ phận điều hành để giúp các nhóm này làm việc với chính phủ liên bang. Đạo luật Không trẻ nào bị bỏ lại phía sau 2001 (No child left behind) đã chứng minh rằng giáo dục công lập là một ưu tiên cao. Giáo viên phải có chứng chỉ của tiểu bang, kiểm tra hàng năm là bắt buộc để đánh giá tiến độ học tập và học sinh của các trường có thành tích kém có cơ hội chuyển sang trường công lập khác, trường bán công hoặc nhận các dịch vụ giáo dục bổ sung. Những người ủng hộ “No Child Left Behind” lập luận rằng nó đưa trách nhiệm giải trình vào giáo dục tiểu học và trung học, trong khi những người chỉ trích chỉ ra việc thiếu kinh phí liên bang để hỗ trợ các mục tiêu của nó.
Giảm thuế là một yếu tố thực sự quan trọng trong chính sách kinh tế của chính quyền. Quốc hội đã thông qua ba đợt cắt giảm thuế từ năm 2001-2003, dù nhiều người cho rằng chủ yếu mang lại lợi ích cho người Mỹ giàu có. Tổng thống lập luận rằng việc cắt giảm tạo ra công ăn việc làm và giúp chấm dứt tình trạng suy thoái nhẹ trong năm đầu tiên ông cầm quyền. Không có gì bất đồng khi doanh thu liên bang giảm vào thời điểm chi tiêu tăng đáng kể. Ngoài các chi phí liên quan đến Iraq và cuộc chiến chống khủng bố, chính quyền đã hỗ trợ các chương trình mới tốn kém, chẳng hạn như phúc lợi thuốc theo toa của Medicare được gọi là Medicare Phần D. Chi phí dự kiến ban đầu trong mười năm là hơn 500 tỷ đô la. Được ban hành vào năm 2003 và có hiệu lực vào năm 2006, phúc lợi cung cấp hỗ trợ tài chính cho những người nhận Medicare, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, những người phải tự trả chi phí cho thuốc của họ; đến tháng 6/2006, 22,5 triệu người Mỹ đã đăng ký tham gia các chương trình Medicare Phần D.
Hồ sơ môi trường của Bush không mạnh. Năm 1997, Hoa Kỳ đã ký Nghị định thư Kyoto, một thỏa thuận quốc tế yêu cầu các quốc gia công nghiệp hóa trên thế giới giảm phát thải khí nhà kính (khí sinh ra từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ và than đá) gây ra sự nóng lên toàn cầu. Theo các điều khoản của nó, Hoa Kỳ phải cắt giảm 7% lượng khí thải dưới mức của năm 1990 vào năm 2012. Tổng thống Bush đã phản đối Nghị định thư Kyoto ngay sau khi nhậm chức. Ông lo ngại về tác động của nó đối với nền kinh tế Mỹ, e rằng các nước đang phát triển nhanh chóng như Trung Quốc và Ấn Độ không bắt buộc phải thực hiện bất kỳ hành động nào và ông cũng không hoàn toàn tin tưởng vào khoa học về hiện tượng nóng lên toàn cầu. Chính quyền dần dần thay đổi quan điểm và đưa ra chương trình riêng để đối phó với biến đổi khí hậu. Tổng thống cũng nhất quán ủng hộ việc mở Khu bảo tồn Động vật hoang dã Quốc gia Artic (ANWR) để thăm dò dầu mỏ như một biện pháp giảm sự phụ thuộc của Mỹ vào các nguồn nước ngoài; các nhà môi trường phản đối mạnh mẽ đề xuất này.
11/9 – Chính quyền của Tổng thống Bush, hay cuôc chiến chống khủng bố quốc tế của Hồi giáo vẫn được nhớ đến nhiều nhất với biến cố ngày 11-9-2001, khi tổ chức khủng bố Al Qaeda mà người cầm đầu là Osama Bin Laden tổ chức một vụ tấn công không tiền khoáng hậu, “bắt cóc” máy bay thương mãi và cho những máy bay này tấn công tự sát vào những tòa nhà cao tầng tại New York. Không tặc đã lao máy bay vào hai tòa tháp Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) và Lầu Năm Góc; một chiếc máy bay thứ tư hướng đến một mục tiêu khác là Washington, D.C., đã bị các hành khách trấn áp 2 kẻ khủng bố và máy bay bị rơi ở Pennsylvania. Những đám cháy dữ dội từ nhiên liệu máy bay đã khiến tòa tháp đôi sụp đổ không lâu sau khi va chạm. Gần 3.000 người thiệt mạng trong vụ tấn công tồi tệ nhất trên đất Mỹ kể từ trận Trân Châu Cảng 1940. Osama bin Laden và al Qaeda được xác định là nghi phạm chính. Trong vòng vài ngày, Quốc hội đã trao cho tổng thống quyền sử dụng lực lượng quân sự chống lại thủ phạm và những người ủng hộ chúng; điều khoản phòng thủ chung của hiệp ước NATO lần đầu tiên được thực hiện để hỗ trợ bất kỳ hành động nào của Mỹ. Chiến dịch Tự do bền vững chống lại chính quyền Taliban ở Afghanistan, chính phủ đã cung cấp trợ giúp vật chất cho al Qaeda và dung túng cho các trại huấn luyện của chúng, bắt đầu vào tháng 10. Các lực lượng của Mỹ và Anh cùng với những người Afghanistan chống Taliban trong Liên minh phương Bắc đã lật đổ chính phủ vào cuối năm; Hamid Karzai được chọn làm thủ tướng lâm thời. Tuy nhiên, Osama bin Laden và lãnh đạo al Qaeda đã trốn thoát.
Cuối năm 2002, Ủy ban Quốc gia về tấn công khủng bố vào Hoa Kỳ, hay còn gọi là Ủy ban 11/9, được thành lập. Ủy ban độc lập, lưỡng đảng chịu trách nhiệm điều tra các cuộc tấn công, phản ứng với chúng và đưa ra các khuyến nghị về việc ngăn chặn các cuộc tấn công trong tương lai. Báo cáo năm 2004 của Ủy ban, đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất toàn quốc, lưu ý rằng khủng bố không phải là ưu tiên hàng đầu của chính phủ so với một số chính quyền và chỉ ra những vấn đề cụ thể trong việc đối phó với mối đe dọa từ FBI, CIA và an ninh hàng không. Ủy ban cũng bày tỏ lo ngại về những khó khăn trong việc chia sẻ thông tin tình báo giữa các cơ quan khác nhau. Chính quyền Bush đã thực hiện một số khuyến nghị của Ủy ban - bổ nhiệm Giám đốc Tình báo Quốc gia và thành lập Trung tâm Chống Khủng bố Quốc gia trong số đó.
Các cuộc tấn công ngày 11-9 đã gây ra những hậu quả trong nước. Đạo luật Yêu nước (Patriots Act) của Hoa Kỳ (26-10-2001) giúp các cơ quan thực thi pháp luật và tình báo dễ dàng chia sẻ thông tin hơn, mở rộng thẩm quyền của chính phủ liên bang trong việc tiến hành tìm kiếm và giám sát, đồng thời qui định việc giam giữ/trục xuất người nước ngoài bị nghi là khủng bố. Đạo luật này thường bị chỉ trích vì làm suy yếu các quyền tự do dân sự; bảo vệ nhiều hơn cho các quyền cá nhân đã được đưa vào việc tái ủy quyền của pháp luật năm 2006. Mặc dù ban đầu bị tổng thống phản đối, Bộ An ninh Nội địa được thành lập vào năm 2003. Bộ phận điều hành mới đã củng cố công việc của 22 cơ quan liên bang chịu trách nhiệm ngăn chặn và ứng phó với một cuộc tấn công khủng bố hoặc mối đe dọa khác đối với Hoa Kỳ. Cơ quan Quản lý Khẩn cấp Liên bang (FEMA), Sở Di trú và Nhập tịch Hoa Kỳ, Cảnh sát biển Hoa Kỳ, Hải quan và Bảo vệ Biên giới Hoa Kỳ (trước đây là Sở Hải quân Hoa Kỳ và Lực lượng Tuần tra Biên giới Hoa Kỳ), và Cơ quan Mật vụ Hoa Kỳ Dịch vụ bây giờ đều thuộc An ninh Nội địa.
Chiến tranh Iraq
Trong phát biểu về Tình trạng Liên bang năm 2002, tổng thống đã vạch ra mối nguy hiểm từ các nước đang tìm kiếm vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) cho dù là sinh học, hóa học hay hạt nhân; ông đặt tên cho ba quốc gia là "trục ma quỷ" – axe of evils, gồm Bắc Triều Tiên, Iraq và Iran. Học thuyết Bush hình thành vài tháng sau đó, tuyên bố rằng Hoa Kỳ có quyền sử dụng lực lượng quân sự phủ đầu chống lại các quốc gia là mối đe dọa đối với chúng tôi và đang tìm kiếm WMD.
Ngày càng rõ là mục tiêu đánh phủ đầu đầu tiên là Iraq. Chính quyền lập luận rằng Iraq có vũ khí sinh học và hóa học và đang phát triển một chương trình hạt nhân; có thể có mối liên hệ giữa lãnh đạo Iraq Saddam Hussein, ngày 11 tháng 9, và al Qaeda; lật đổ chế độ của Hussein và thành lập một nước Iraq dân chủ có thể là hình mẫu cho toàn khu vực. Vào tháng 10/2002, Quốc hội trao cho tổng thống quyền hành động quân sự chống lại Iraq. Trong khi khăng khăng yêu cầu các thanh sát viên vũ khí trở lại và đe dọa "hành động nghiêm trọng" đối với việc không tuân thủ, Hội đồng Bảo an LHQ đã không ủng hộ giải pháp vũ lực. Hoa Kỳ, cùng với Vương quốc Anh và một đội quân nhỏ từ các quốc gia khác, đã xâm lược Iraq vào tháng 3/2003. Trong vòng vài tháng, Chiến dịch Iraq Tự do đã chiếm được Baghdad và các thành phố lớn khác, và chính phủ của Saddam Hussein bị lật đổ; Bush tuyên bố kết thúc các hoạt động chiến đấu qui mô vào ngày 1-5-2003. Hussein trốn thoát, nhưng cuối cùng bị bắt ngày 13-12-2003.Tuy nhiên, hòa bình khó có hơn chiến tranh.
Trái ngược với mong đợi của người Mỹ, người Iraq nhanh chóng coi lực lượng liên quân Mỹ là những kẻ chiếm đóng hơn là giải phóng. Hồi giáo có hai phe, cho nên nước nào cũng thường có hai phe: Sunni và Shiite. Khi phe này nắm quyền, thường là nhờ thế đa số, thì phe đối lập đương nhiên bị trấn áp và trở thành “đối lập”. Khi phe đối lập Sunni lớn mạnh, các cuộc tấn công của quân nổi dậy trở nên nguy hiểm hơn; các vụ đánh bom xe hơi, bắt cóc và "thiết bị nổ tự chế" (IED) đã gây tử vong lớn về dân sự và quân sự. Tốc độ tái thiết chậm dưới Cơ quan lâm thời của Liên minh, do Hoa Kỳ chỉ định để quản lý đất nước và ngăn chặn sự ngược đãi những người bị giam giữ tại nhà tù Abu Ghraib, đã làm tăng thêm các vấn đề. Các quyết định của Chính quyền lâm thời về việc giải tán quân đội Iraq và bãi bỏ Đảng Baath có thể phản tác dụng.
Thực tế là không có WMD nào được tìm thấy sau cuộc xâm lược và sự công nhận của Ủy ban 11/9 rằng Saddam Hussein không có bất kỳ mối liên hệ nào với các cuộc tấn công đã làm suy yếu lý do chính quyền biện minh cho cuộc chiến. Tiến độ cũng chậm trên mặt trận chính trị, nhưng đã có những thành công đáng chú ý. Hội đồng quản trị Iraq được thành lập vào tháng 7 năm 2003, và chủ quyền được chuyển giao cho chính phủ lâm thời vào tháng 6 năm 2004. Cuộc bầu cử quốc hội dân chủ đầu tiên của đất nước được tổ chức vào ngày 30-1-2005; đa số ghế thuộc về người Shiite vì nhiều người Sunni tẩy chay cuộc bầu cử. Đến cuối năm, các cử tri đã thông qua hiến pháp với hệ thống liên bang và bầu các thành viên cho quốc hội. Bất chấp những phát triển tích cực này, cuộc nổi dậy vẫn gia tăng. Các chiến binh nước ngoài liên kết với al Qaeda ở Iraq và bạo lực giáo phái ngày càng gia tăng giữa người Shiite và người Sunni đã khiến quân Mỹ thương vong hơn 3.000 người, trong khi hàng chục nghìn người Iraq thiệt mạng. Nhiều người Mỹ nay tin rằng chính quyền đã quản lý sai cuộc xung đột. Họ đã đưa ra những lời kêu gọi trong và ngoài Quốc Hội yêu cầu rút quân.
Nhiệm kỳ thứ hai của Bush
Chiến tranh ở Iraq và nạn khủng bố là những vấn đề chính trong cuộc bầu cử năm 2004, cùng với thuế, kinh tế và y tế. Đảng Dân Chủ đã đề cử Thượng nghị sĩ John Kerry của Massachusetts, một cựu chiến binh Việt Nam có sự nghiệp chính trị dựa trên chủ trương phản chiến. Trong khi ủng hộ việc sử dụng vũ lực vào năm 2002, ông liên tục chỉ trích chính sách Iraq của Bush trong chiến dịch tranh cử, nhận ra rằng đa số người Mỹ hiện tin rằng cuộc chiến là một sai lầm. Nhưng tổng thống đã giành được chiến thắng sít sao về số phiếu phổ thông và đại cử tri, và đảng Cộng Hòa đã tăng cường kiểm soát của họ ở cả Thượng viện và Hạ viện. Bất chấp sự phản đối chiến tranh, các cử tri dường như tin tưởng đảng Cộng hòa hơn đảng Dân chủ trong việc xử lý mối đe dọa đang diễn ra từ chủ nghĩa khủng bố quốc tế.
Qua nhiệm kỳ thứ hai, tổng thống tập trung vào cải cách an sinh xã hội. Theo các dự đoán, hệ thống sẽ bắt đầu chi nhiều hơn thu vào năm 2018 khi thế hệ “baby boom” bắt đầu nghỉ hưu. Ông đề xuất cho phép những người lao động trẻ tuổi bỏ một phần tiền của họ để đóng thuế an sinh xã hội vào tài khoản hưu trí cá nhân. Các nhà phê bình cho rằng đề xuất này tương đương với "tư nhân hóa an sinh xã hội" và tìm cách chặn đứng các đề xuất của ông.
Một lĩnh vực chính sách khác nằm trong chương trình cải cách của chính quyền là vấn đề nhập cư. Những nỗ lực ban đầu để giải quyết vấn đề đã bị đình trệ vào ngày 11/9, nhưng một nỗ lực mới đã bắt đầu vào giữa nhiệm kỳ thứ hai. Không giống như an sinh xã hội, tổng thống đã nhận được sự ủng hộ của lưỡng đảng đối với cải cách nhập cư toàn diện. Đạo luật có bốn điều khoản chính—tăng cường quan tâm và tài trợ cho an ninh biên giới, trách nhiệm cao hơn đối với những người sử dụng lao động thuê những người nhập cư bất hợp pháp, một chương trình công nhân khách, và một quy trình mà những người nhập cư bất hợp pháp ở Hoa Kỳ có thể đủ điều kiện trở thành công dân. Mục cuối cùng bị những người bảo thủ xem là "ân xá", đủ để giết chết dự luật vào năm 2007.
Thẩm phán Sandra Day O'Connor nghỉ hưu, sau đó Chánh án William Rehnquist qua đời vào năm 2005, cho phép tổng thống thực hiện hai đề cử vào Tòa án Tối cao. Việc bổ nhiệm John Roberts, người đã trở thành chánh án mới, và Samuel Alito được nhiều người tin tưởng vào thời điểm đó nhằm củng cố khối bảo thủ trong Tòa án. Điều này rõ ràng đã được đưa ra trong một số quyết định 5-4 gần đây. Tòa án Roberts đã phán quyết rằng Đạo luật Cấm Phá thai Một phần (2003) là hợp hiến, cho rằng chủng tộc không thể được sử dụng trong các kế hoạch nhằm đạt được hoặc duy trì sự hội nhập trong các trường công lập, đồng thời bác bỏ các điều khoản chính của Đạo luật Cải cách Chiến dịch Lưỡng đảng (2002) .
Iraq và cuộc chiến chống khủng bố vẫn là ưu tiên chính sách đối ngoại hàng đầu. Với áp lực gia tăng về việc thay đổi hướng đi, tổng thống đã chấp thuận tăng cường lực lượng Mỹ ở Iraq để bình định Baghdad và các khu vực quan trọng khác. Đợt "tăng cường" 30.000 quân được thực hiện vào mùa hè năm 2007. Tại Afghanistan, liên quân phải đối mặt với cuộc nổi dậy của Taliban ngày càng gia tăng và quân đội NATO đã thay thế người Mỹ vào đầu năm 2006 ở miền nam đất nước. Hỗ trợ quốc tế cho cuộc chiến ở Afghanistan dựa trên cơ sở rộng rãi so với Iraq.
Thất bại trong việc ổn định hóa tình hình Iraq, Cộng Hòa phải trả giá về chính trị. Đảng Dân Chủ giành lại quyền kiểm soát lưỡng viện trong bầu cử giữa mùa năm 2006, phần lớn là do người dân không hài lòng với chiến tranh. Chính quyền cũng phải đối mặt với những khó khăn ở Trung Đông rộng lớn hơn. Lộ trình hòa bình giữa Israel và Palestine, mà Hoa Kỳ, Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Âu và Nga (Bộ tứ) đã đưa ra vào năm 2003, kêu gọi thành lập một Palestine độc lập trong vòng hai năm. Tuy nhiên, có rất ít tiến bộ hướng tới mục tiêu đó. Hoa Kỳ ủng hộ mạnh mẽ Israel trong Chiến tranh Israel-Lebanon lần thứ hai năm 2006. Chương trình hạt nhân đang diễn ra của Iran, mà chính phủ nước này tuyên bố chỉ nhằm mục đích hòa bình, đã bị phản đối mạnh mẽ. Hội đồng Bảo an đã áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Iran vì không ngừng các hoạt động làm giàu uranium. Việc phát triển vũ khí hạt nhân của Triều Tiên là một nguyên nhân khác gây lo ngại. Hoa Kỳ, cùng với Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc, đã tham gia vào các cuộc đàm phán kéo dài với Triều Tiên và cuối cùng đã mang lại kết quả. Bất chấp vụ thử hạt nhân mùa thu năm 2006, Triều Tiên đã đồng ý đóng cửa lò phản ứng hạt nhân chính và cho phép các thanh sát viên quốc tế trở lại nước này vào giữa năm 2007.
Đại suy thoái
Vào tháng 9 năm 2008, Hoa Kỳ và phần lớn châu Âu tiến vào cuộc khủng hoảng suy thoái dài nhất kể từ Đệ nhị Thế chiến - được gọi là "Đại suy thoái". Nhiều khủng hoảng chồng chéo đã xảy ra, đặc biệt là khủng hoảng thị trường nhà đất, khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn, giá dầu tăng vọt, khủng hoảng công nghiệp xe hơi, thất nghiệp gia tăng và cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất. Đại suy thoái 2008-09 là biến cố suy trầm kinh tế tai hại nhất của nước Mỹ kể từ Đai Khủng hoảng (1931). Sàn xuất nội địa giảm 4.3%, tỷ lệ thất nghiệp tăng gấp đôi, lên đến hơn 10%, giá nhà sụt giảm khoảng 30%, và tỷ lệ chứng khoán S&P 500 xuống đến 57% từ mức cao nhất. Bắt đầu chỉ là một chuyện tham lam và không kiểm soát, nhưng kết thúc với một khủng hoảng toàn cầu làm cho 6 triệu gia đình mất nhà. Kết quả, chính quyền phải tiến hành những biện pháp cải cách và “cứu vớt” (bailout) cho một số đại doanh nghiệp (hãng xe hơi) và ngân hàng “too big to fail”.
Các ngân hàng và những doanh nghiệp chuyên cho vay có thế chấp ngày càng có động thái săn mồi với các hoạt động cho vay trong những năm dẫn đến Đại suy thoái. Các khoản thế chấp trở nên dễ dàng hơn, với ít tiêu chuẩn hơn để đảm bảo người vay có thể trả nợ. Bởi vậy người ta nhắm mắt đi mua nhà, không nhìn lại khả năng tài chánh của mình, dẫn đến sự bùng nổ xây dựng và giá cả tăng lên đáng kể. Loại thế chấp mới này, được gọi là thế chấp dưới chuẩn, được cấp cho những người vay có hồ sơ tín dụng xấu, thu nhập không đủ và điểm tín dụng dưới mức tối ưu. Các khoản thế chấp này thường có các khoản thanh toán thấp hoặc không trả trước và các khoản thanh toán hàng tháng ban đầu thấp để thu hút người vay. Những người đi vay này thường không hiểu các đặc điểm phức tạp của khoản vay và bản chất lãi suất của họ.
Hầu hết các khoản thế chấp dưới chuẩn, ngoài việc có các tính năng thanh toán cho có và các tiêu chuẩn bảo lãnh phát hành dưới chuẩn, còn là các khoản thế chấp có lãi suất có thể điều chỉnh (Adjustable-Rate Mortgage - ARM).Từ năm 2004 đến năm 2006, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã tăng tỷ lệ quỹ liên bang từ 1% lên 5,25% và tỷ lệ đối với ARM dưới chuẩn tăng cùng lúc với các khoản thanh toán ban đầu thấp đó đang tăng lên. Khoản thanh toán hàng tháng tăng đột ngột vượt quá khả năng thanh toán của nhiều người vay và một làn sóng tịch thu nhà bắt đầu.
Cuộc khủng hoảng tài chính đe dọa sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế vào tháng 9 năm 2008 khi Lehman Brothers thất bại và các ngân hàng khổng lồ khác đang gặp nguy hiểm nghiêm trọng. Bắt đầu từ tháng 10, chính phủ liên bang đã cho các tổ chức tài chính vay 245 tỷ đô la thông qua Chương trình cứu trợ tài sản gặp khó khăn đã được thông qua bởi các đảng phái đa đảng và được Bush ký.
Trong tình hình này, ông Barack Obama của đảng Dân Chủ tìm đường vào Tòa Bạch Ốc không khó!
Chủ nghĩa bảo thủ mới
Như đã nói trước đây, tám năm dưới thời Tổng thống Bush (con) đánh dấu sự nổi lên của chủ nghĩa tân bảo thủ (Neoconservatism), một phong trào đối nghịch mạnh mẽ với “bảo thủ truyền thống”. Những người truyền thống chủ trương hạn chế di dân, phi tập trung hóa, áp đặt thuế quan và bảo hộ mậu dịch, kinh tế dân tộc, biệt lập, và sự trở lại những lý tưởng bảo thủ truyền thống liên quan đến giới tính, văn hóa và xã hội. Bảo thủ truyền thống chống đối mậu dịch tự do và xúc tiến chủ nghĩa cộng hòa. Bảo thủ truyền thống xem tân bảo thủ như những người đế quốc, trong khi mình là người bảo vệ nền cộng hòa. Người bảo thủ truyền thống có khuynh hướng chống phá thai, hôn nhân đồng tính, và quyền của giới LGBTQ (đồng tính nam, nữ, lưỡng tính, chuyển tính...). Bảo thủ truyền thống là đường lối của những chính quyền bảo thủ trước đó. Những người “tân bảo thủ”, như Phó Tổng thống Dick Cheney, Bộ trưởng Donald Rumsfeld, Cố vấn Paul Wolfowitz, quảng bá tư tưởng mở rộng dân chủ khắp thế giới và đặt quyền lợi của doanh nghiệp Mỹ lên hàng đầu qua việc sử dụng sức mạnh quân sự ở nước ngoài. Mậu dịch toàn cầu và cởi mở di trú là một ưu điểm tích cực cho nước Mỹ trong suy nghĩ của người tân bảo thủ trong thời đại toàn cầu hóa hậu Chiến tranh Lạnh.
Một số người Dân Chủ trước đây cũng đi theo hướng tân bảo thủ, nhưng người “tự do” (liberals) cho rằng những chinh sách của ông Bush là lạm dụng quyền lực doanh nghiệp quá mức, mở rộng chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Người bảo thủ truyền thống như Patrick j. Buchanan than phiền về phí tổn của phiêu lưu quân sự ở nước ngoài, mất công ăn việc làm trong nước do những thỏa thuận mậu dịch tự do toàn cầu, và những chuyện rối rắm vì nạn di dân không kiểm soát được. Xem chừng người Mỹ ở cả hai phía đã mất niềm tin vào năng lực của chính quyền liên bang giải quyết những vấn đề xã hội và kinh tế.
Những vấn đề thành thị
Như trong quá khứ, người dân trong những năm 50 và 60 đổ xô về các thành phố vừa để kiếm việc vừa kiếm nhà. Người da đen tiếp tục đi về các thành phố phía bắc và phía tây như trong thời Đệ nhất và Đệ nhị Thế chiến, trong khi các nhóm thiểu số khác, bao gồm di dân đến từ châu Mỹ La-tinh, chen chúc vào các thành phố vì những lý do tương tự. Tuy nhiên, đến những năm 70 và 80, những vấn đề của các đô thị chồng chất – chen chúc, thất nghiệp gia tăng, tội ác khắp nơi, nhà cửa thiếu thốn và tệ hại và các khu vực thương mại xuống cấp – tạo một khuynh hướng phần lớn người Mỹ da trắng, trung lưu rời thành phố và đi ra vùng ngoại ô để sống (một hiện tượng được gọi là “white flight”); chỗ ở thoáng mát, các khu mua sắm, và các trường học rộng rãi, đủ tiện nghi, có tiền tài trợ nhiều hơn cũng lôi cuốn người ta bỏ nội thành ra ngoại ô.
Khi những gia đình trung lưu di cư ra vùng ngoại ô, các kinh doanh và kỹ nghệ từng cung cấp công việc sống còn và nguồn thuế cho các thành phố cũng đi theo. Kết quả là người nghèo và các dân tộc thiểu số còn lai trong các thành phố là nơi không có đủ ngân sách cho gia cư, vệ sinh, cơ sở hạ tầng và nhà trường. Trong khi đó, sự hỗn loạn ở đô thị được phát hình trong những năm 60, chẳng hạn như những chuyện xảy ra ở Los Angeles, Chicago, New York sau vụ ám sát Martin Luther King Jr., chỉ làm cho rộng hơn khoảng cách giữa thành phố và ngoại ô và làm tăng căng thẳng chủng tộc. Một trong những vụ hỗn loạn đô thị tệ hại nhất xảy ra về sau này năm 1992 tại South Central Los Angeles, nơi nhiều người da đen phẫn nộ trước sư tha bổng bốn người cảnh sát da trắng bị thu hình đánh đập một người da đen, Rodney King.
Căng thẳng giữa những khu vực thành thị và ngoại ô nổi lên và làm nổi bật sự thù nghịch về chủng tộc và giai cấp trong xã hội Mỹ. Trong hai năm 1974-1975, việc bắt buộc học sinh đi xe buýt dẫn đến hậu quả bạo lực ở South Boston khi học sinh da đen từ một khu người nghèo được bỏ trên xe buýt đi đền một trường trong khu vực dân lao động chủ yếu là da trắng theo lệnh của tòa án. Các xe buýt bị phá hoại và tấn công trong khi cảnh sát dẹp loạn tìm cách trấn áp đám người phá phách. Những gia đình da trắng bỏ South Boston hay họ gửi con đến trường tư, trong khi ngay cả một số người da đen chống lại chuyện cưỡng bách đi xe buýt, lý luận rằng những trường trong khu da đen của họ phải được nhiều ngân quỹ hơn. Chuyện đưa trẻ đi xe buýt đến trường tiếp tục ở nhiều thành phố lớn cho đến cuối những năm 90, và dù cho nhiều trường thực hiện được sự hòa hợp chủng tộc tốt hơn, chiến lược này không phải không bị phê phán.
Nhưng trong khi người ta vẫn tưởng tượng hình ảnh kinh khiếp của cuộc sống thành phố, thống kê đã chứng thực một thực tế khác. Cả tội ác bạo lực và tội ác cướp đoạt đã giảm kể từ đầu những năm 90, và tội ác trong năm 2010 đã xuống mức thấp nhất trong vòng 40 năm. Trong những khu vực thành thị lớn, sự sụt giảm tội ác còn nổi bật nhiều hơn. Những người chuyên nghiệp trẻ khá giả đã đua nhau trở lại các trung tâm thành thị. Có một cuộc tranh luận sôi nổi về xu hướng khích lệ này. Lý do thế nào đi nữa, sự suy giảm tội ác đã dẫn đến sự hồi sinh của các thành phố Hoa Kỳ trong thời gian 20-30 năm qua.