2/20/23

Phiếm luận về chữ LẠC - 落

Nhất Diệp Tri Thu 一葉知秋

LẠC 樂 là Vui, LẠC là Liên Lạc 聯絡, LẠC là con Lạc Đà 駱駝... Trong bài viết nầy ta chỉ đề cập đến LẠC 落 là Rơi, là Rụng, là Rớt... Theo "Chữ Nho... Dễ Học" thì chữ LẠC thuộc dạng Hài Thanh, có diễn tiến chữ viết như sau :
               

Ta thấy :
            Ta thấy qua Đại Triện Tiểu Triện đều có bộ dạng của chữ Thảo 艸 bên trên, đến chữ Lệ chữ Khải thì đã hình thành bộ Thảo 艹 như chữ viết hiện nay; Phần bên dưới là diễn tiến của chữ Lạc 洛 dùng để chỉ Âm Đọc, còn phần trên bộ Thảo là Hoa Cỏ dùng để chỉ Ý Nghĩa. Nên nghĩa gốc của  chữ LẠC 落 là chỉ "Sự Rơi, Rụng của Cây Cỏ Lá Hoa". Như 2 câu cổ thi sau đây :

                           梧桐一葉落,    Ngô đồng nhất diệp lạc,
                           天下共知秋。    Thiên hạ cộng tri thu.
Có nghĩa :
               - Một lá ngô đồng rơi rụng,
               - Thiên hạ đều biết thu sang !


   Từ đó hình thành thành ngữ NHẤT DIỆP TRI THU 一葉知秋 : Chỉ cần một chiếc lá thôi thì đã biết mùa thu đã đến rồi. Trong truyện Kiều để diễn tả mùa thu đã đến từ lâu, cụ Nguyễn Du đã cho đến vài chiếc lá ngô đồng rơi rụng, khi tả đoạn Thúc Sinh về nhà thăm Hoạn Thư :

                         Thú quê thuần hức vén mùi,
                    Giếng vàng đã rụng Một Vài Lá Ngô.

        LẠC DIỆP 落葉 là Lá rơi. LÁ RƠI lại làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ bất hủ của nhà thơ Giả Đảo trong bài Ức Giang Thượng Ngô Xử Sĩ 憶江上吳處士 :

                                    秋風吹渭水, Thu phong xuy Vị Thủy,
                                 落葉滿長安。  LẠC DIỆP mãn Trường An.
Có nghĩa :
                             Gió thu sông Vị sóng vây,
                                    Lá thu theo gió rụng đầy Trường An !

         "Lạc diệp mãn Trường An" gợi lên hình ảnh trời thu ngút ngàn với lá vàng rơi rụng phủ kín cả thành Trường An. Qủa là một cảnh thu gợi hình và nên thơ vô hạn ! Trong Đào Hoa Nguyên Ký của Đào Tiềm đời Tấn thì gọi hoa rụng đầy trời là LẠC ANH TÂN PHÂN 落英繽紛 khi ông lạc vào cảnh Đào Nguyên :

                             芳草鮮美,     Phương thảo tiên mỹ,
                             落英繽紛.     Lạc anh tân phân !
Có nghĩa :
                       Cỏ non thơm ngát đâu đây,
                 Hoa đào theo gió rụng đầy khắp nơi !

        Thành ngữ LẠC ANH TÂN PHÂN 繽紛 là "Hoa rụng tơi bời" lại làm cho ta nhớ đến LẠC ANH CHƯỞNG PHÁP 落英掌法 của Đào Hoa Đảo Chủ Hoàng Dược Sư trong truyện Anh Hùng Xạ  Điêu của Kim Dung, ông đã sáng tác chưởng pháp HOA RỤNG nầy dạy cho con gái Hoàng Dung để phòng thân, vì khi múa lên thì như có muôn ngàn đóa hoa rơi chung quanh để bảo vệ thân mình, nên mới đặt tên là LẠC ANH 落英 (Hoa Rụng) chưởng pháp.

        ANH 英 là tinh anh của cây cỏ, nên cũng có nghĩa là Hoa. LẠC ANH tức là LẠC HOA 落花. Trong văn học cổ ta hay gặp nhóm từ Lạc Hoa Lưu Thủy 落花流水 là Hoa rụng nước chảy, nhưng ta thường nói thành "Nước chảy hoa trôi" như trong câu nói : Lạc hoa hữu ý, Lưu thủy vô tình 落花有意,流水无情。Là Hoa rơi có ý mà nước chảy vô tình; thường dùng để chỉ "Muốn người ta người ta không muốn, Xách cây dù đi xuống đi lên" mà nào ai có thấu hiểu cho đâu !

        LẠC HOA là Hoa rụng, nên Mùa Hoa Rụng được gọi là LẠC HOA THỜI TIẾT 落花時節, thường dùng để chỉ khoảng thời gian cuối xuân đầu hạ, như 2 câu thơ trong bài "Giang Nam phùng Lý Quy Niên 江南逢李龜年" của Thi thánh Đỗ Phủ 杜甫 :

                     正是江南好風景,     Chính thị giang nam hảo phong cảnh,
                     落花時節又逢君。     LẠC HOA THỜI TIẾT hựu phùng quân. 
Có nghĩa :
                     Đúng lúc Giang nam phong cảnh đẹp,
                     Đang mùa hoa rụng lại tương phùng.

       
        Giống như Lá rơi, hoa rơi, mưa rơi là LẠC VŨ 落雨, Tuyết rơi là LẠC TUYẾT 落雪, Lệ rơi là LẠC LỆ 落淚... Nhưng LẠC THỦY không phải là Nước rơi, mà là Rơi xuống nước. Ta có thành ngữ LẠC THỦY CẨU 落水狗 là Con chó té xuống nước, chỉ những kẻ xấu xa bị báo ứng trông nhếch nhác thảm hại như con chó bị té xuống nước vậy ! Nhưng THỦY LẠC 水落 lại có nghĩa là nước rút xuống, lấy ý một câu trong bài Tiền Xích Bích Phú của Tô Đông Pha là THUỶ LẠC THẠCH XUẤT 水落石出. Có nghĩa Khi nước rút xuống thì đá sẽ bày ra. Thành ngữ nầy dùng để chỉ việc gì đó đã  được rõ ràng minh bạch, không còn gì nghi ngờ hay khuất lấp nữa.

         Ta lại có từ LẠC NHẬT 落日 là Mặt trời lặn, là Nắng đã xế chiều, như trong 2 câu thơ của Thi tiên Lý Bạch trong bài Tống Hữu Nhân như sau :

                           浮雲遊子意,      Phù vân du tử ý,
                           落日故人情。    Lạc nhật cố nhân tình !
Có nghĩa :
                   Ý người du tử mây trôi nổi,
                   Tình cố nhân kia tựa nắng chiều !

        Người du tử ra đi như đám mây trôi nổi khắp bốn phương trời vô định, còn tình của kẻ cố nhân thì quyến luyến tựa ánh nắng chiều bám víu mãi không thôi. Quả là tình ý thiết tha sâu đậm biết bao nhiêu !  

        Còn trăng lặn thì đã có 2 câu thơ nổi tiếng trong bài Phong Kiều Dạ Bạc 楓橋夜泊 của Trương Kế 張繼 đời Đường là :

                       月落烏啼霜滿天,        NGUYỆT LẠC ô đề sương mãn thiên,
                       江楓漁火對愁眠.        Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Có nghĩa :
                       Trăng lặn quạ kêu sương đầy trời,
                       Hàng phong sầu đối lửa chài phơi .

        
        LẠC 落 là rơi là rớt cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, như "Đôi mắt em như 2 vì sao Lạc" là lời nói "xạo" để lấy lòng người đẹp. LẠC ĐỀ 落題 là "Rớt" khỏi đề tài của người ta đưa ra hay yêu cầu. Đi thi mà LẠC ĐỀ 落題 sẽ đưa đến LẠC ĐỆ 落第. Lạc Đệ là rớt khỏi các bậc thang mà người ta xếp hạng, nên LẠC ĐỆ 落第 là Thi rớt, như LẠC ĐỆ TRẠNG NGUYÊN 落第狀元, LẠC ĐỆ TÚ TÀI 落第秀才... Thi Rớt còn có một thành ngữ rất hay, rất lý thú là DANH LẠC TÔN SƠN 名落孫山, theo như tích sau đây :
        Vào đời nhà Tống có thư sinh tài tử, tên là Tôn Sơn 孫山 tính tình vui vẻ lại thích nói đùa, nên mọi người đều gọi anh ta là "Hoạt kê Tài tử 滑稽才子". Có một bận, anh ta cùng với con trai nhà hàng xóm ra tỉnh thành ứng thi Cử Nhân. Khi bảng vàng được trương ra, anh ta thấy tên mình đậu ở cuối bảng, nhưng lại không thấy tên của con người hàng xóm. Khi về đến thôn làng, người hàng xóm đón anh ta lại để hỏi thăm xem con của mình có đậu được Cử Nhân hay không. Với tính hài hước cố hữu, hơn nữa lại sợ làm đau lòng người hàng xóm, anh ta bèn đáp rằng : “Giải Nguyên tận xứ thị Tôn Sơn, Hiền lang cánh tại Tôn Sơn ngoại 解元盡處是孫山,賢郎更在孫山外!. Có nghĩa : Người đậu Giải Nguyên (cách gọi tôn xưng đối với người đậu Cử Nhân) cuối cùng là Tôn Sơn tôi đây, còn tên con của bà thì ở phía ngoài tên Tôn Sơn của tôi nữa ! Tôi là người đậu cuối bảng rồi, con của bà ở phía sau tên của tôi nữa là nó đã "rớt mất tiêu" rồi ! Câu nói vừa khôi hài vừa an ủi, tên con của bà đứng sát tên của tôi là khoa tới nó sẽ đậu đó.
       Từ đó về sau, người ta gọi người thi rớt là DANH LẠC TÔN SƠN, hay người thi rớt tự nói cho đỡ ngượng là :"Kỳ thi này, tôi đã DANH LẠC TÔN SƠN 名落孫山 rồi !
                           
        Đi theo không kịp người khác, bị rớt lại phía sau thì gọi là LẠC HẬU 落後, không cập nhật,  theo không kịp người khác về các mặt văn hóa, xã hội, tư tưởng... đều gọi là LẠC HẬU. Còn thất sở thân sơ lang thang đây đó thì gọi là LƯU LẠC 流落, nhất là sau 1975, người Việt Nam ta Lưu Lạc khắp nơi trên thế giới, gọi là LƯU LẠC THA PHƯƠNG 流落他方 lang thang nơi dị quốc. Còn LIÊU LẠC 寥落 là Cô Liêu Hoang Lạc 孤寥荒落, là thưa thớt, vắng vẻ, quạnh quẽ, như bài thơ Hành Cung 行宮 của Nguyên Chẩn 元稹 đời Đường :

                           寥落古行宮,    LIÊU LẠC cổ hành cung,
                           宮花寂寞紅。    Cung hoa tịch mịch hồng.
                           白頭宮女在,    Bạch đầu cung nữ tại,
                           閒坐說玄宗。    Nhàn tọa thuyết Huyền Tông.
Có nghĩa :
                         Vắng vẻ hành cung xưa,
                         Cung hoa đỏ lưa thưa.
                         Tóc trắng người cung nữ,
                         Kể chuyện Huyền Tông xưa !      

         LƯU LẠC 流落 là cuộc sống nổi trôi, lang thang rày đây mai đó, nhưng LẠC PHÁCH 落魄 (còn được đọc là LẠC THÁC) lại là cuộc sống phóng túng điểm chút hào hùng của những người thích tự do tự tại với thói sống giang hồ, nên ta lại có thành ngữ LẠC PHÁCH GIANG HỒ 落魄江湖 để chỉ những kẻ ăn chơi bạt mạng bất cần đời, không hại ai nhưng cũng chẳng giúp ích gì cho xã hội, như bài thơ Khiển Hoài 遣懷 phóng túng của nhà thơ Đỗ Mục 杜牧 trong buổi Tàn Đường sau đây :

                落魄江湖載酒行,  Lạc phách giang hồ tải tửu hành,
                楚腰纖細掌中輕。  Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh. 
            十年一覺揚州夢,  Thập niên nhất giác Dương Châu mộng,
                贏得青樓薄幸名。  Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh !
Có nghĩa :
                Bầu rượu giang hồ khắp lữ trình,
                Eo thon mình nhẹ khéo là xinh.
                Mười năm tỉnh giấc Dương Châu ấy,
                Nổi tiếng lầu xanh kẻ bạc tình !

        Câu cuối của bài thơ đã được cụ Nguyễn Du mượn lời để nói về anh chàng Sở Khanh trong Truyện Kiều là ...
                       Bạc tình nổi tiếng lầu xanh,
                (Một tay chôn biết mấy cành phù dung!) 


        LẠC NHẠN TRẦM NGƯ 落雁沉魚 là Chim sa cá lặn, chỉ 2 người đẹp Vương Chiêu Quân và Tây Thi gái  đất Việt. Vương Chiêu Quân đẹp đến nổi khi đi ra cửa ải Nhạn Môn Quan chim nhạn trông thấy nàng đều sa cả xuống bãi cát không bay lên nổi; Từ tích nầy lại hình thành một thành ngữ khác là BÌNH SA LẠC NHẠN 平沙落雁 là tên một khúc cổ cầm có từ đời Đường do Trần Tử Ngang biên soạn, qua các đời Tống, Nguyên, mãi đến đời Minh(1634)mới  được  sưu tập lại trên 50 bài bản phổ biến đến hiện nay. Nhưng ...
            
                    Nghe hợp tấu cổ khúc: Lạc nhạn trầm ngư

       Thành ngữ mà Hoa Việt gì đều thông dụng cả, đó chính là LẠC DIỆP QUY CĂN 落葉歸根 mà ta thường nói thành "Lá rụng về cội".  Còn làm việc hay xử lý sự việc đâu ra đó hẵn hoi, đầy đủ tình lý đàng hoàng thì gọi là QUANG MINH LỖI LẠC 光明磊落.
 
       LẠC 落 còn là một đơn vị hành chánh, như THÔN LẠC 村落 là Xóm Làng. BỘ LẠC 部落 là một bộ tộc của đồng bào thiểu số. VIỆN LẠC 院落 hay ĐÌNH LẠC 庭落 là chỉ Một góc sân trong nhà.

         LẠC 落 còn là tên của một khúc hát dân gian, như LIÊN HOA LẠC 蓮花落 là tên của một khúc hát của Cái bang ở miền bắc Trung Hoa. Đọc truyện võ hiệp của Kim Dung sẽ thấy đám đệ tử của Bc Cái Hồng Thất Công khi lập Đả Cẩu Trận sẽ hát khúc Liên Hoa Lạc nầy để cùng tiến cùng lui cùng công cùng thủ. 

Hồng Thất Công và Kiều Phong : Bang chủ Cái Bang (Ảnh minh họa)

       Trong bài "Vọng Lư Sơn Bộc Bố" (Ngắm thác nước Lư Sơn) của Thi Tiên Lý Bạch có 2 câu cuối rất hay như sau :

                      飛流直下三千尺,   Phi lưu trực há tam thiên xích,
                      疑是銀河落九天     Nghi thị Ngân Hà LẠC cửu thiên.
Có nghĩa : 
                      Bay thẳng từ cao ba ngàn thước,
                      Cứ ngỡ Ngân Hà rớt khỏi mây!

      Với thủ pháp nghệ thuật điêu luyện, Thi Tiên Lý Bạch đã đã tả lại vẻ hùng vĩ tráng lệ của con thác Lư Sơn như từ trên chín từng mây đổ xuống qua sương khói của đỉnh Hương Lư sầm sập trút thẳng xuống như dãy Ngân Hà nghiêng đổ. Lời thơ mạnh mẽ với các từ như "Phi lưu trực há : Chảy như bay đổ thẳng xuống !", "Ngân Hà LẠC cửu thiên : là Ngân Hà RƠI từ trên chín từng trời rơi xuống !"


        LẠC BÚT 落筆 là đặt ngòi bút chạm vào giấy để viết hay vẽ; còn LẠC KHOẢN 落款 là đặt ngòi bút xuống chỗ nào đó trên giấy hoặc trên tranh để ghi chú, đề từ hay ký tên vào đó. Còn LẠC THÀNH 落成 là Khánh thành nên LẠC THÀNH ĐIỂN LỄ 落成典禮 là Lễ Khánh Thành  (công trình nào đó). Còn...
            LẠC TỈNH 落井 là Té giếng, ta lại có thành ngữ LẠC TỈNH HÁ THẠCH 落井下石 để chỉ lòng dạ của những kẻ ác gian; Thấy người ta đã té xuống giếng rồi còn ném theo một tảng đá nữa "cho mầy chết luôn !".


*********

Cuối cùng ta có thành ngữ :        
     - Nhân Đầu Lạc Địa 人頭落地 là Đầu người rơi xuống đất, ý chỉ bị chết chém.
   ... và một thành ngữ nữa trái ngược với thành chữ trên là :
     - Oa Oa Lạc Địa 呱呱落地 là em bé mới được sanh ra đầu rớt trước xuống đất nên cất tiếng khóc oa oa...

       Còn rất nhiều rất nhiều những từ ngữ thành ngữ có chữ LẠC trong ngôn ngữ cuộc sống, như LẠC ĐỊA KHAI HOA 落地開花 là Rớt xuống đất bèn nở hoa, là lời nói khéo khi ta làm rớt bể cái ly cái chén gì đó, nói cho vui cho đỡ ngượng... Từ chữ NHO (Hán Việt) chữ LẠC đã bị NÔM HÓA đi vào cuộc sống thường ngày của dân ta với rất nhiều từ ngữ, như...

       Người Hoa gọi là LẠC HOA SANH 落花生, người miền Bắc của ta gọi tắt thành một chữ LẠC, trong khi người miền Nam gọi là ĐẬU PHỌNG; nên LẠC RANG là ĐẬU PHỌNG RANG.
       Cái gì đó RƠI, RỚT ra ngoài cái lẽ thường tình thì đều được gọi là LẠC. Như ca rớt nhịp, thì gọi là LẠC NHỊP; Ca sai giọng thì là LẠC GIỌNG; Đàn không ăn dây thì gọi là LẠC PHÍM, như lời của bài hát Đường Lên Sơn Cước của nhạc sĩ Lê Bình :

              ... Dây tơ LẠC PHÍM, chim ngưng cánh bay
                  Quê hương khuất bóng sông dài
                  Xanh xanh mặt nước còn in bóng dừa ?
                  Tìm đâu thấy con đò xưa...

       Làm thơ không theo đúng đề thì là LẠC ĐỀ, không đúng vần thì gọi là LẠC VẬN; Con chim tìm không được bầy để về thì gọi là LẠC BẦY; lìa khỏi đàn thì gọi là LẠC ĐÀN. Như Thúy Kiều bán mình chuộc cha, một thân một mình rời khỏi gia đình để đi theo Mã Giám Sinh, thì gọi là LẠC LOÀI, cô đã tiếc rẻ khi phải thất thân với Mã Giám Sinh :                       

                    Biết thân đến bước LẠC LOÀI,
               Nhụy đào thà bẻ cho người tình chung.
              
       Không biết đường về nhà, hay không biết đường nào để về nhà, thì gọi là LẠC ĐƯỜNG; nhưng đi sai đường lối của tổ chức, hội đoàn hay con đường đúng đắn phải đi cũng gọi là LẠC ĐƯỜNG, như khi Thúy Kiều kể lể với cái anh chàng Sở Khanh để nhờ cứu giúp : 
                 
                      Rằng: “Tôi bèo bọt chút thân,
                 LẠC ĐƯỜNG mang lấy nợ nần yến anh. 
                       Dám nhờ cốt nhục tử sinh,
                 Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau !

        TRỤY LẠC 墜落 hay ĐỌA LẠC 墮落 gì Đều chỉ cuộc sống bị Rơi khỏi cái tiêu chuẩn, cái chuẩn mực bình thường, là đời sống sa đọa thấp hèn của những con người Lầm Đường LẠC lối. Trong  đời sống của cái xã hội đầy xa hoa đầy cám dỗ trước mắt, con người rất dễ bị LẠC. Mong rằng tất cả chúng ta đều phải nên cẩn trọng, để được LẠC bước đến Thiên đàng, đừng để phải LẠC đường vào  Địa ngục sẽ muôn kiếp chẳng được siêu sinh !

Đỗ Chiêu Đức  杜紹德

                                                                                          

2/18/23

Ngổn ngang trăm thứ

BS Hồ Ngọc Minh

Con gái tôi, từ thuở nằm nôi, lúc nào cũng có một con gấu nhồi bông bên cạnh. Lớn lên, đi đâu, cháu cũng đem theo con gấu nay đã “già” ấy. Vợ chồng tôi thường đùa, mai mốt lấy chồng, đem theo con gấu làm của hồi môn.

Con người ta, tự bản năng, sanh ra đời đã có tư tưởng sở hữu. Tiếp theo, qua quá trình sống còn của loài người, những vật dụng thu thập được đã góp phần vào sự tồn vong của cá thể, của gia đình, và của nhân loại.

Vì thế xưa nay sự sở hữu vật chất gần như đồng nghĩa với sự an toàn, với niềm hạnh phúc, và là những cột mốc định vị cho sự hiện hữu của mỗi cá nhân trong cuộc đời.
Nghiên cứu cho thấy, khi bị lấy đi một món đồ nào đó, não bộ của khổ chủ sẽ chịu những tín hiệu đau đớn như khi bị kim châm, điện giựt. Đồng thời nhiều nghiên cứu khác còn cho thấy đi mua sắm, một khi đã được sờ nắm vào một mặt hàng nào, 60% người tiêu thụ sẽ bỏ tiền ra để mua cho được món hàng ấy.

Mua xong, cảm giác kích hoạt trong hệ thần kinh rất phê như phê thuốc phiện, và khi hết phê thì… đi mua tiếp. Đó là một trong các lý do tại sao công ty Apple làm ăn khấm khá vì một khi đã rờ, đã cọ quẹt, đã “touch” vào các thiết bị như iPhone, iPad thì mọi người sẽ sẵn sàng “iPay.” Thêm vào đó, chủ thuyết kinh tế thị trường, nhất là ở Mỹ, cổ võ cho việc mua sắm để làm cho kinh tế thêm giàu mạnh. Các thông điệp khuyến mãi gieo vào đầu người tiêu thụ niềm tin là, mua sắm đồ sẽ đem lại niềm vui và phúc lợi.

Sự thật có phải như thế hay không?

Có một mệnh đề cần biết, mỗi một món đồ mà bạn làm chủ, chính nó sẽ làm chủ bạn từ tinh thần đến thể xác. Thí dụ bạn có một cái đồng hồ đeo tay để xem giờ. Khi sắm cái đồng hồ thứ hai, trong tâm thức của bạn có thể là “để kiểm soát được thời gian”, hay bất cứ lý do nào khác được dùng để biện minh, có khi nào bạn chạnh lòng nghĩ là mình sẽ tốn thì giờ thêm để “lo” cho cái đồng hồ thứ hai này hay không?

Nhìn quanh nhà bạn sẽ thấy trăm thứ ngổn ngang khác từ nhỏ đến lớn, từ cái đinh cho đến cái ti vi, từ trong tủ áo, từ phòng ngủ, từ nhà bếp ra đến nhà xe. Những thứ ấy sẽ tạo ra trăm mối tơ vò trong đầu của bạn, vì ngày đêm lo nghĩ đến chúng, để giữ của, và có khi, để lấy thân ra mà che của. Một nghiên cứu y khoa khác cho thấy, lo nghĩ nhiều thứ linh tinh sẽ gây ra phiền muộn kinh niên và làm cho lớp chất xám của não bộ mỏng đi.

Một nhận xét khác được thống kê xác nhận, ai cũng biết mà cứ làm lơ, đó là, không cần phải giàu, có nhiều đồ “xịn”, đồ “khủng” trong nhà mới có hạnh phúc.
Ngày xưa người ta mua sắm vì nhu cầu thiết yếu. Cái xe đi làm, cái ghế để ngồi. Ngày nay mua sắm đồ là cách để biểu hiệu cá tính, sắc thái, tư duy, địa vị xã hội của một cá nhân.

Tại sao phải là Coke mà không là Pepsi? Điệu ,“xì tin”, và “bản sắc” là ở điểm khác nhau giữa Samsung Galaxy và iPhone, vân vân và vân vân.

Trong phim khoa học viễn tưởng “In Time” do tài tử Timberlake thủ vai chính, miêu tả một xã hội mà tuổi thọ con người là đơn vị tiền tệ để đổi chác. Lương bổng được trả bằng tuổi thọ. Mua ly cà phê thì tuổi thọ bị trừ đi vài giờ.

Hết “tiền” thì lăn ra mà chết. Nhìn lại, chúng ta hiện đang sống trong cái xã hội “tưởng chừng như viễn tưởng xa xăm” ấy. Chúng ta dùng thời gian quý báu của cuộc đời để đi làm ra tiền, để tậu đồ junk, đồ linh tinh, đồ rác rưởi, rồi tốn thêm thời gian để lo lắng, để “take care” cho những món đồ ấy. Có iPhone thì phải text, phải lướt mạng, phải đọc tin trên mạng xã hội 24/7. Tệ, có người còn bán cả trái thận để đổi lấy cái iPhone!

Nói đúng ra không phải ai cũng thích lòe hàng “khủng”. Phần lớn chúng ta mua sắm và để dành đồ để lỡ khi cần, thí dụ, 12 cục xà bông tắm ở Costco vì “không thể thiếu được”, nguyên thủy vì chúng ta…nghèo. Có cả tôi trong đó. Khoảng năm 1970, ngoài làng Non Nước, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng có một hầm rác của quân đội Mỹ, gọi là “Hầm Bứa Mỹ Thị”.

Từ cái hầm bứa này, tôi tha về nhà không biết bao là “của quý”. Thói quen ấy tồn tại đến bây giờ, tiếp tục tha đồ ở Costco, ở Amazon về hằng tuần, để lỡ khi cần. Mà khi cần lại không biết đồ ấy nhét vào góc nào, nên thôi, chạy ra mua cái khác, và mua dư thêm một tí… để lỡ lại khi cần!

Một lý do khác người ta giữ đồ cũ vì nó chứa những kỷ niệm đẹp nào đó. Thú thật, một mớ sách vở Y Khoa tôi học khi còn trong trường Y hơn 30 năm về trước vẫn còn trong tủ, cho dù có khi nào tôi đọc lại một chữ nào trong những cuốn sách ấy đâu! Mà có đọc thì chả ích lợi gì vì kiến thức khoa học ngày càng thay đổi. Bỏ sách vở ra thùng rác thì thương, mà vương vấn thì tội.

Đọc tới đây bạn đã hiểu tôi không nói chuyện phiếm mà nói về một chứng bệnh mà nhiều người bị mắc phải. “Chứng bệnh thời đại” thường xảy ra ở các nước gọi là “văn minh tiên tiến”. Chứng bệnh nầy làm hại đến sức khỏe, đến tuổi thọ của chúng ta, không thua gì ung thư, cao máu, tiểu đường. Nếu hiểu căn nguyên của tội tình, của hồ sơ bệnh lý, thì chúng ta nên bắt đầu tự chữa cái bệnh gọi là “sưu tập đồ lộn xộn”. Để tự giải thoát khỏi những gông cùm trói buộc mình vào “giai cấp của người tiêu thụ”, xin đem đồ không cần dùng cho người khác, đem cho chùa, cho nhà thờ, cho hội từ thiện, v.v…

Không muốn cho thì bán eBay làm lợi cho mình, cho nền kinh tế, đem tiền gửi về cho bà con bên nhà chẳng hạn. Món đồ nào có nhiều kỷ niệm thì chụp hình lưu niệm, rồi cũng đem cho, đem bán, đem recycle để chúng được “siêu thoát” và mình cũng được “tịnh độ” theo. Đồng thời, mỗi khi mua đồ mới thì nên nghĩ “rằng, thì, là” món hàng ấy mình sẽ trả không phải bằng tiền, kể cả tiền không có, mà sẽ trả với chính sức khỏe và tuổi thọ của mình về sau.

Nhạc sĩ Anh Bằng có một bài nhạc “không Anh Bằng” tí nào, đó là bài “Khúc Thụy Du” phổ thơ của Du Tử Lê: “…nói về cuộc đời, khi tôi không còn nữa. Sẽ lấy được những gì về bên kia thế giới ngoài trống vắng mà thôi?”

Chúng ta đã nhiều lần “bỏ của chạy lấy người”.

Chúng ta đến trong đời tay trắng và sẽ ra đi trắng tay.

Xin hãy để thời gian quý báu để mà sống và sống thật nhẹ nhàng.

BS Hồ Ngọc Minh

2/17/23

Em Đừng Đợi Nữa

Dạo:

        Anh như cánh nhạn trúng tên,

Làm sao dám ước sánh duyên cùng người.

 

Cóc cuối tuần:

 

            Em Đừng Đợi Nữa

 

                   (Lại thêm một cảnh đời,

                    Bên góc trời dâu bể.

                    Nắng tà nuôi bóng xế,

                   Người kể lể thay người)

 

Em yêu dấu, anh biết em vẫn đợi

Anh ngỏ lời tiến tới chuyện chung thân,

Để chúng mình không uổng phí ngày xuân,

Nhưng anh phải đành giậm chân tại chỗ.

 

Em đừng trách anh cố tình giả bộ

Đóng vai trò kẻ đau khổ ngày đêm,

Nên không thèm chịu ghé mắt nhìn xem

Để thấy được tấm lòng em rộng mở.

 

Em biết đó, qua hai lần đổ vỡ,

Anh bây giờ rất sợ chuyện hôn nhân.

Lửa tình yêu dù mãnh liệt vô ngần,

Khi chung sống sẽ dần dần tắt ngấm.

 

Hạnh phúc cũ đã mịt mù xa thẳm,

Anh một mình ngồi gặm nhấm cơn đau,

Thầm biết dù đi hết nửa đời sau,

Cũng sẽ chẳng tìm đâu ra lối thoát.

 

Cánh nhạn suýt vì cung tên bỏ xác,

Nên bây giờ vừa nhác thấy cây cong,

Đã khiếp hãi trong lòng,

Thân tê cóng như dầm trong giá lạnh.

 

Trong hai cuộc ly hôn đầy bất hạnh,

Trách nhiệm anh phải gánh cũng hơi nhiều,

Bởi thay vì lo vun xới tình yêu,

Lại theo đuổi rặt những điều phù phiếm.

 

Anh vốn biết thân anh đầy khuyết điểm,

Sống chung rồi, khó giấu giếm được lâu,

Mũi kim dù có gói kín đến đâu,

Sớm muộn cũng ló đầu ra khỏi bọc.

 

Thực tế đã dạy cho anh bài học

Rằng dẫu anh có khổ nhọc tìm cầu,

Kiếm được người cùng "sớm tối có nhau",

Tổ ấm cũng trước sau thành địa ngục.

 

Sông có khúc, và con người có lúc,

Nhưng đời anh lại vô phúc triền miên,

Nên dù cho gặp được kẻ ngoan hiền,

E cũng chỉ có duyên mà không nợ.

 

Anh chỉ sợ thêm một lần dang dở,

Cuộc đời mình sẽ day trở về đâu,

Hay đôi vai luôn trĩu nặng gánh sầu,

Lê lết giữa đáy vực sâu phiền lụy.

                       x

                   x      x

Em cho biết, em có người ngỏ ý,

Nhưng em bèn bí xị, quyết làm thinh.

Em bảo anh, em chỉ muốn chúng mình

Kiếp này phải tròn ba sinh duyên nợ.

 

Anh tần ngần lo sợ,

Nếu chẳng may mình nên vợ, thành chồng,

Cuối cùng chỉ luống công,

Lại sẽ phải chất chồng thêm oan trái.

 

Em yêu dấu, đừng đợi chờ anh mãi,

May mắn này không trở lại hoài đâu,

Em hãy lo đến hạnh phúc ngày sau,

Đừng xua đuổi những con tàu muốn cặp.

 

Anh tin chắc rồi đây em sẽ gặp

Người hơn anh, hơn gấp cả trăm lần,

Để cùng nhau bền chặt mối hôn nhân,

Và chung hưởng một mùa xuân bất diệt.

 

Riêng anh vẫn là con thuyền đơn chiếc,

Không bến về nên mải miết ngược xuôi,

Chuyện thề nguyền cùng hạnh phúc lứa đôi,

Từ lâu đã vuột trôi xa tầm với.

                    x

                x      x

Trăng mỏi mòn giăng lưới,

Lối chân khuya, vời vợi bóng mây sầu.

                  Trần Văn Lương

                     Cali, 2/2023


 Xin “Ai” Nghĩ Lại

 

                        (Trót đa mang chuyện đời

                        Tận chân trời góc bể!

                        Càng tuổi già bóng xế,

                        Càng dễ cảm thương vay!)

 

Đã có được Nàng bền lòng chờ đợi

Sao “Ai” kia còn bối rối, than thân

Đường chung đôi xanh ngát giấc mơ xuân

“Ai” dại thế, sao rụt chân, nhường chỗ?

 

Bao lần đã cùng thong dong tản bộ?

Bao uẩn tình từng thổ lộ trong đêm?

Bao áng văn thơ tâm đắc cùng xem?

Bao thiện chí khơi thêm đường lối mở?

 

Hiểu tâm hồn “Ai” mong manh rạn vỡ

Nàng kiên trì hỗ trợ ý trung nhân

Tình thiết tha đong đáy mắt trong ngần

Men mật ngọt ân cần, dần sẽ ngấm...

 

Đâu cần lánh lên núi cao rừng thẳm

Để nguôi quên quá khứ lắm thương đau?

Hạnh phúc trong tay, hưởng đến mai sau...

Sao chọn nẻo cơ cầu không lối thoát?

 

“Ai” chủ bại sẽ héo mòn thân xác

Quan điểm, tinh thần: lệch lạc, vênh cong

Diện mạo cũng như lòng

Đều ảm đạm: một trời đông buốt lạnh!

 

Còn sinh mạng là còn đầy phước hạnh

Sau hai phen gãy gánh khổ đau nhiều

Khiến con tim khô nhịp đập thương yêu

Và thần trí thành phiêu linh phù phiếm.

 

Đã nhận biết mình có nhiều khuyết điểm

Đáng lẽ chuyên tâm cải thiện từ lâu

Chứ giấu quanh nghĩ quẩn tận đâu đâu

Mầm bất hạnh vẫn lớn mau trong bọc.

 

Một kinh nghiệm đời: tặng bao bài học

Nào sự quan tâm, chăm sóc, tương cầu...

Nào tấm thủy chung dành trọn cho nhau...

Nào tránh chuyển địa cầu thành địa ngục...

 

Một chiếc lá giữa dòng đời lắm lúc

Bị nguồn cuồng lưu thôi thúc liên miên

Nhưng nay đã theo làn nước nhu hiền

Sao chối bỏ cả thiên duyên lẫn nợ?

 

Không thử thách, sao biết mình hay dở?

Không khởi đầu, cuối ngõ biết tìm đâu?

Thời gian qua: uổng phí giữa u sầu!

Thời gian tới: đầy lo âu khổ lụy?

                       x                                  

                   x      x                                          

Nàng, trái lại, đầy thành tâm thiện ý

Không thể cam lòng xuôi xị làm thinh

Để mặc “Ai” tự đầy đọa riêng mình

Tự chuốc lấy khổ hình quằn trĩu nợ.

 

Gạt phăng hết vẩn vơ lo sợ

Xua tan bao trăn trở chất chồng

Hạnh duyên này vun xới dày công

Cây hồng phúc sẽ đơm bông kết trái.

 

Lời nghịch lý xin “Ai” đừng nhắc mãi

Rõ là lời xúi dại, chẳng nghe đâu!

Nàng quyết vững lòng từ trước đến sau

Dửng dưng trước mấy “con tàu muốn cặp”.

 

Và ngay cả những “con tàu” sẽ gặp

Vỏ hào quang dù bắt mắt muôn lần

Nàng chỉ chọn “Ai” là ý trung nhân,

Là lẽ sống, là “mùa xuân bất diệt”.

 

Đời bất khả với đũa, giày một chiếc

“Thuyền” rẽ dòng oan nghiệt, hướng về xuôi,

Như đũa, giày muôn thuở bước song đôi

Mộng sum họp một đời: trong tầm với.

                    x                                                             

                x      x                                                         

Nắng nghiêng mình đan lưới

Vốn đa đoan chưa vợi ngấn thương vay.

            Ai-Cơ Hoàng-Thịnh

            Melbourne, 2/2023

2/14/23

Người Chăm tại Việt Nam

Nguyễn Văn Huy


Tìm hiểu lịch sử những cộng đồng dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam là một bổ túc cần thiết cho mọi dự án xây dựng Việt Nam tương lai.
Qua tám bài viết, Nguyễn Văn Huy đã tóm lược lịch sử hình thành và tan rã của cựu vương quốc Chiêm Thành. Dân cư của cựu vương quốc này, cộng đồng người Chăm ngày nay là một trong 54 sắc dân cấu thành dân tộc Việt Nam.

Mục đích đầu tiên của những bài viết là để nhắc nhở công lao xây dựng và đóng góp của những người đã được sinh ra lớn lên trên lãnh thổ Việt Nam.
Việt Nam tuy có một lịch sử dài nhưng lại là một đất nước mới. Miền Trung mới hội nhập xong từ thế kỷ 17, miền Nam từ thế kỷ 18. Chúng ta đã tiếp nhận rất nhiều đóng góp mới về đất đai và chủng tộc. Tuy vậy tổ chức xã hội của Việt Nam lại không thích nghi với những thay đổi đó và vẫn được quan niệm một cách sai lầm như là đất nước của một cộng đồng duy nhất : cộng đồng người Kinh. Lịch sử của Việt Nam là lịch sử của người Kinh. Văn hóa của Việt Nam là văn hóa của người Kinh. Các quan niệm về đạo lý, xã hội, luật pháp đều dựa trên người Kinh và nhắm phục vụ cho người Kinh…

Có lẽ là quá trình mở nước và giữ nước khó khăn của cha ông đã không cho chúng ta có thời giờ và phương tiện để suy nghĩ một cách nghiêm túc về một chính sách cộng đồng, đây là một thiếu sót lớn cần phải khắc phục. Trong suốt dòng lịch sử, trừ một vài ngoại lệ ít ỏi, người Kinh hầu như chưa hề nhìn nhận một trách nhiệm nào đối với các sắc tộc ít người mà chỉ áp đặt khuôn mẫu của mình, nếu cần bằng bạo lực. Tình trạng này nếu không được nhận định rõ rệt để kịp thời có chính sách thỏa đáng có thể dẫn tới những hậu quả rất tai hại, nhất là trong bối cảnh thế giới hiện nay và sắp tới. Nếu chúng ta không cảnh giác để cho tình trạng này xảy ra thì hai vùng rộng lớn của đất nước là miền Thượng Du phía Bắc và miền Cao Nguyên Trung Phần có thể trở thành bất ổn và không phát triển được.

Các cộng đồng đều phải được tôn trọng như nhau trong một đất nước Việt Nam được định nghĩa như là đất nước của các cộng đồng. Cộng đồng người Việt gốc Chăm đã sống từ ngàn xưa dọc vùng duyên hải miền Trung, cộng đồng người Việt gốc Khmer đã sống từ ngàn xưa tại miền Nam, cộng đồng người Việt gốc Hoa đã góp công lớn khai mở ra miền Nam phải được coi là những người Việt Nam trọn vẹn trước luật pháp cũng như trong tình cảm dân tộc.

Quốc gia Việt Nam phải gạt bỏ hẳn mọi ý đồ đồng nhất hóa để mưu tìm đồng tiến trong dị biệt. Chúng ta phải khẳng định rằng đất nước Việt Nam không được định nghĩa bằng một chủng tộc mà bằng sự chấp nhận chia sẻ một tương lai chung. Định nghĩa này cũng là giấc mơ của mọi người Việt Nam.

Về nội dung các bài viết, đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc. Hơn 300 tài liệu (sử, sách, đặc san, biên khảo, biểu đồ, nghiên cứu cá nhân, biên bản hành trình… trong thư khố của các thư viện tại Pháp - Paris và Aix en Provence) đã được tham khảo. Vào cuối phần trình bày, một thư mục chi tiết sẽ được công bố để quí đọc giả có thể tìm đọc và truy cứu thêm.

Vì đây không phải là một luận án nên người viết cố tình không nêu dẫn chứng, vì sẽ quá dài và người đọc sẽ bị chi phối vào những chi tiết. Tuy nhiên, người viết lãnh nhận trách nhiệm về sự trung thực của bài viết cũng như những dẫn chứng lịch sử.

Chúc quí đọc giả những giờ tham khảo vui thú.

Nguyễn Văn Huy


Thuyền Thúng Vu Qui

Trần Quốc Bảo

Trời mưa bong bóng phập phồng,
Em đi lấy chồng, gặp tháng dầm mưa,
Mênh mông con nước… khổ chưa!
Ngày lành tháng tốt, vẫn đưa Dâu về…

Yêu nhau, lụt lội xá gì!
Em ngồi thuyền thúng, vu qui theo chồng.
Con đường ngập nước như sông,
Anh đi sau đẩy, bập bồng đu đưa.

Ơn Trời trút xuống như mưa,
Mênh mông con nước cũng thua Ái Tình!
Cần chi Hôn Lễ linh đình,
Chỉ cần Đám Cưới chúng mình hanh thông!


Cần chi pháo đỏ, rượu hồng,
Chỉ cần Hạnh phúc vợ chồng bền lâu!
Cần chi: rượu bánh cau trầu,
Một con thuyền thúng, rước Dâu trọn tình!

Chú Rể, đẹp trai thông minh,
Cô dâu, xinh thật là xinh, ai bì!
Yêu nhau, lụt lội xá gì!
Em ngồi thuyền thúng, vu qui theo chồng.

Trời mưa bong bóng phập phồng,
Em đi lấy chồng, gặp tháng dầm mưa,
Trời mưa… thì mặc Trời mưa!
Mênh mông con nước, vẫn thua Ái Tình!