4/30/23

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI MANG TÊN NGUYỄN THỊ DI TẢN

 Chuyện đã cũ nhưng vẫn muốn đọc lại mỗi lần 30 tháng 4 đến.

MTam 


Đến nay 48 năm qua, tôi đã trưởng thành nơi miền đất tạm dung của một tỉnh lỵ miền Tây Canada. Thành phố Winnipeg, buồn hắt hiu như tâm sự “Người Di Tản Buồn” - bản nhạc của nhạc sĩ Nam Lộc mà mẹ rất yêu thích.

Ngày còn bé, bằng bài hát ấy mẹ đã ru tôi ngủ. Riết rồi tôi quen với từng lời ca tiếng nhạc. Mẹ nói đêm nào không nghe bài hát ấy thì tôi không ngủ. Đến lúc tôi bập bẹ biết nói, mẹ dạy tôi hát. Tôi vừa quấn quít bên mẹ vừa đỏ đẻ hát những câu cuối cùng:

“Cho tôi xin lại một lần, ở nơi tôi dừng quân cũ
Cho tôi xin lại bìa rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau
Cho tôi xin một lời chào, chào bao nhiêu người đã khuất
Cho tôi xin một mộ phần, bên ngàn chiến hữu của tôi!”.

Bạn bè đến chơi, mẹ đem “con sáo” của mẹ ra khoe, bảo tôi hát. Mỗi lần hát xong các bạn của mẹ đều rươm rướm nước mắt. Có lần tôi thỏ thẻ hỏi:
“Sao con hát hay mà mẹ với các bác lại khóc?”
Mẹ ôm tôi vào lòng và nói: “Bao giờ lớn lên, con sẽ hiểu”.
Trí óc non nớt của tôi mơ hồ cảm nhận có điều khác thường ở mẹ, một sự mất mát lớn lao trong đời mẹ. Những lúc rảnh, sau giờ cơm chiều mẹ dạy tôi nói:
- Con là người nước nào?
- Dạ thưa, con là người Việt Nam.
- Con tên gì?
- Con tên là Di Tản.
- Con có yêu nước Việt Nam không?
- Con yêu Việt Nam lắm, vì đó là quê hương của con.
Tôi đã thuộc nằm lòng những câu mẹ dạy. Tôi đã quen với cái tên Di Tản, thấy nó ngồ ngộ, dễ thương làm sao á.

Khi tôi 5 tuổi, mẹ dắt tôi đến trường gần nhà ghi tên đi học. Lần đầu tiên đến trường, một khung cảnh mới, người mới. Các học sinh cùng lớp với tôi hoàn toàn là những khuôn mặt xa lạ.
Cô giáo cũng thế. Lúc mẹ chào cô ra về, tôi ở lại trường với tâm trạng thật lạc lõng, bơ vơ. Tôi muốn khóc. Tôi ngồi cô đơn trong góc lớp. Cô giáo rất trẻ, đến bên tôi nhỏ nhẹ hỏi:
“What is your name?” (Tên con là gì?)
Tôi cúi mặt, bặm môi chừng như rướm máu, lí nhí đáp bằng cái giọng Việt Nam đặc sệt “Dạ .. Di Tản”.
Cô giáo chừng như không hiểu, xem lại quyển sổ và nói: “Your name is Đaithen”.
Tôi lắc đầu và lặp lại “Di Tản”. (DiTan). Cả lớp rộ lên cười. Và tôi bật khóc!

Sau buổi học, mẹ đón tôi về. Suốt quãng đường về nhà tôi lặng thinh, không nói điều gì. Mẹ âu yếm hỏi:
- Con đi học có vui không?
Chừng như chỉ chờ mẹ hỏi, tôi òa lên khóc và nói:
- Sao mẹ không đặt cho con cái tên nào dễ kêu như Helen, Cindy hay Linda như tụi nó mà lại đặt tên là Di Tản? Cô giáo đọc không được tên con, mấy đứa cùng lớp tụi nó chọc ghẹo con!
Mẹ tôi dịu dàng, từ tốn bảo:
- Con có biết cả nước Canada có biết bao nhiêu là Helen, là Cindy không? Còn tên Di Tản chỉ có mỗi mình con. Con không thấy con đặc biệt sao? Con phải hãnh diện vì cái tên rất là Việt Nam của con mới phải chứ!
Tôi nũng nịu pha chút hờn dỗi:
- Mà cô giáo đọc là Đaithen Mẹ thấy có kỳ không?
Mẹ trìu mến đưa tay vuốt tóc tôi, hiền hòa khẽ bảo:
- Tại cô không biết cách phát âm của người Việt mình thôi. Con phải đọc lại cho cô biết, rồi từ từ cô sẽ đọc đúng mà!
Giọng mẹ thiết tha hơn, chùng xuống, sũng đầy nước mắt:
- Mẹ đã mất tất cả rồi con ơi! Chỉ còn cái tên Việt Nam mà mẹ gởi cho con, con biết không?
Đầu óc của một đứa bé lên năm làm sao hiểu được hết những gì mẹ nói, song tôi biết mẹ buồn lắm. Có một cái gì làm mẹ khổ tâm lắm. Tôi cảm thấy ân hận. Tôi ôm mẹ hôn và nói:
- Con xin lỗi mẹ. Con làm mẹ buồn lắm phải không?
Tôi thấy mắt mẹ long lanh ngấn lệ:
- Không phải đâu, con của mẹ ngoan lắm!

Đó là chuyện ngày tôi 5 tuổi. Mãi cho đến những năm sau này, tên tôi vẫn là một đề tài cho lũ bạn chọc ghẹo. Nhưng chọc ghẹo cho vui chớ không có ác ý nào cả.
Lúc vào Highschool (Trung học) tôi đã lớn rồi. Tôi hiểu những u uất của đời mẹ và thương mẹ hơn bao giờ hết.

Thấm thoát tôi đã là cô gái 18. Soi gương tôi cũng biết mình đẹp lắm. Mẹ không cho tôi cắt tóc ngắn. Cả trường con gái, mái tóc dài chấm lưng với khuôn mặt Á Đông của tôi vẫn là một đề tài nổi bật nhất.
Lại thêm cái tên Di Tản nữa. Lúc này tôi không còn buồn mỗi lần bị giáo sư đọc trật tên. Bạn bè tôi, những đứa quen nhau từ lớp mẫu giáo đến giờ đã biết cách phát âm tên tôi đúng lắm. Tụi nó bỏ dấu còn lơ lớ nhưng tạm được.

Nhưng mỗi lần bắt đầu một niên học mới, tên tôi lại là một tràng cười cho lũ bạn cùng lớp mỗi khi giáo sư mới gọi tên tôi. Giáo sư nào cũng thế, ngập ngừng hồi lâu mới đọc.
Tôi cũng không nín cười được cái giọng như ngọng nghịu của một giáo sư Canada, đọc cái tên lạ hoắc chưa bao giờ nghe thấy. Trên tay cầm bài test của tôi, ngập ngừng rồi thầy gọi “Đai then”. Cả lớp ồ lên: “Oh, my god”. Giáo sư lúng túng, đảo mắt nhìn quanh. Cả lớp nhao nhao như bầy ong vỡ tổ. Chừng như tụi nó thích những dịp như thế để câu giờ, “nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba học trò” mà. Con Linda ngồi cạnh hích cùi chỏ vào tôi khẽ bảo:
- Di Tản, ổng đọc sai tên mầy rồi kìa, sửa cho ổng đi.
Tôi đỏ mặt. Tôi chưa kịp nói gì cả thì tụi con trai ngồi sau lưng tôi ào ào lên như chợ nhóm:
- Di Tản, Di Tản not Đai then!Vị giáo sư lúc đó mới vỡ lẽ, biết là mình phát âm sai, ông gục gặc đầu nói xin lỗi và lập lại “Di Tản, Di Tản”…
Lúc nầy tôi không còn nhút nhát như ngày xưa nữa. Bạn bè tôi Tây, Tàu, Gia Nã Đại, đều “cứu bồ” mỗi lần có tình trạng như trên xảy ra. Dần dà mọi người gọi tên tôi rất ư là dễ thương.

Đến giờ nhớ lại những lời mẹ nói ngày nào, tôi hãnh diện vô cùng về cái tên mẹ đã cho tôi. Tôi thương mẹ vô cùng. Quê hương Việt Nam gắn với mẹ tôi như hình với bóng trong cuộc đời lưu lạc xứ người hơn một phần tư thế kỷ. Một điều mà tôi có thể khẳng định rằng, “dù hoàn cảnh có thể tách rời mẹ ra khỏi quê hương nhưng không thể nào tách rời quê hương ra khỏi tâm hồn mẹ được”.

Mẹ sống như chờ đợi, như mong mỏi một điều gì sẽ đến. Có lần tôi bắt gặp mẹ ngồi một mình trong đêm, tay mân mê, vuốt ve bức ảnh bán thân của cha tôi. Mẹ vẫn nuôi hy vọng cha còn sống và sẽ có ngày gia đình tôi đoàn tụ như xưa. Nhưng định mệnh đã an bài. Sau khi nhờ một người bạn làm ở Usaid đưa mẹ con tôi di tản, cha hứa sẽ gặp lại mẹ sau.
Vậy là, mẹ bụng mang dạ chửa lên phi cơ theo đoàn người di tản và mong có ngày gặp lại. Nhưng niềm hy vọng đó vơi dần theo năm tháng, cho đến ngày mẹ được tin cha đã nằm xuống nơi trại tập trung cải tạo. Cuộc sống của mẹ đã thầm lặng từ bấy lâu, nay càng thầm lặng hơn.

Ngoài giờ ở sở, về nhà cơm nước xong, trò chuyện với tôi đôi lát rồi mẹ vào phòng. Cái khoảng đời quá khứ ngày xưa. Những kỷ niệm ngọc ngà ngày nào của cha và mẹ như chút dấu yêu còn sót lại. Mỗi lần nhắc tới cha, mẹ như trẻ lại, mắt long lanh ngời sáng. Mẹ kể cho tôi chuyện tình của cô sinh viên Văn khoa với chàng sĩ quan hải quân.
Tôi thuộc nhiều bài hát Việt lắm nên ghẹo: “Mẹ và cha giống em hậu phương và anh nơi tiền tuyến quá!”.

Ngoài tình mẹ con, tôi như người bạn nhỏ để Mẹ tâm sự, để mẹ trang trải nỗi niềm. Nào là “con biết không, cha con hào hoa, đẹp trai lắm"… v.v… và v..v…
Tôi nịnh Mẹ: “Cha không đẹp trai làm sao cua được mẹ!”.
Mẹ cười thật dễ thương. Một điều mà tôi biết chắc chắn rằng không ai có thể thay thế hình bóng cha trong tim mẹ. Tôi muốn cùng mẹ nâng niu, gìn giữ những kỷ niệm dấu yêu, ngọc ngà của mẹ và cha đến suốt cuộc đời.

Hôm nay, nhân ngày giỗ lần thứ 44 của cha, con muốn thưa với cha một điều: Con cám ơn cha mẹ đã tạo cho con nên vóc nên hình. Dù chưa một lần gặp mặt, cha đã nằm xuống, đã đi thật xa, không trở lại với mẹ với con. Song với con, cha vẫn hiện hữu bên con từng giờ, từng phút. Con nghĩ cha đã che chở mẹ con và con gần nửa thế kỷ qua. Xin cha hãy giữ gìn, che chở mẹ trong suốt quãng đời còn lại. Con mong ngày nào đất nước thật sự thanh bình, mẹ sẽ đưa con về thăm lại quê hương. Con sông xưa sẽ trở về bờ bến cũ.
Ngày ấy ở một phía trời nào đó của quê hương, con sẽ thấy cha mỉm cười và nói với con: “Cha sung sướng lắm, con biết không? Con yêu dấu...!”

Hoàng Thị Tố Lang

Hoa nhị phu nhân - 花蕊夫人

 Cám ơn anh K. chia sẻ bài thơ về chuyện mất nước của Hoa Nhị Phu Nhân (花蕊夫人).

Quân vương thành thượng thụ hàng kỳ     君王城上豎降旗, 

Thiếp tại thâm cung na đắc tri                 妾在深宮那得知.

Thập tứ vạn nhân tề giải giáp                 十四萬人齊解甲,

Ninh vô nhất cá thị nam nhi                     寧無一個是男兒.


Dịch ý bài thơ

Vua chúa giơ cờ trắng trên nóc thành 

Thiếp ở chốn cung sâu đâu được hay.

Mười bốn vạn quân đều đầu hàng

Nào ai xứng đáng với đấng nam nhi。


Bài thơ nói lên tâm trạng đau xót khi đất nước lâm nạn và niềm nhớ nước thương nhà, ưu sầu khôn nguôi của Hoa nhị phu nhân, thương cho phận hồng nhan bạc nhược, đơn độc; thân gái yếu ớt dù yêu nước thiết tha cũng đành chịu cuốn trôi theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước.


Hoa nhị phu nhân cũng lấy làm kinh ngạc và hổ thẹn cho mười bốn vạn quân sĩ mang danh bảo vệ tổ quốc đã đồng loạt giải giáp, cởi chiến bào, hạ binh đao đầu hàng. Trong lúc đất nước lâm nạn, chẳng có ai xứng với bậc tu mi nam tử để ra tay buồm lái với cuồng phong.

Quốc thù gia hận nợ tang bồng, tránh sao được binh đao chiến loạn cõi trần thế? Những câu từ ai oán đoạn tràng của bài thơ "vong quốc" đã khiến người đọc cảm thán và khâm phục tài sắc vẹn toàn của Hoa nhị phu nhân.


Nhằm góp phần cho sự phong phú trong diễn đàn để cùng học hỏi, tôi xin chia sẻ một bậc văn học tài tử khác của thời Bắc Tống, Tô Đông Pha.


                                                           Tô Đông Pha

Tô Đông Pha, một bậc văn học kỳ tài, thiết nghĩ mọi người đều không xa lạ với ông, văn hào kiệt xuất đã góp phần làm rạng rỡ nền văn học lừng lẫy thời Bắc Tống.

Ở bất kỳ bộ môn nào, văn từ thi phú, sáng tác của ông đều tỏ ra vượt trội, phong phú cả về thể loại lẫn số lượng. Với hơn 1700 bài thơ, 300 bài từ, và rất nhiều bài tản văn nổi tiếng như Phóng Hạc đình ký, Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú, v.v...


Các bạn thích loạt bài nào của Tô Đông Pha? Trong số rất nhiều tác phẩm tâm đắc của ông, riêng ở đây tôi chỉ xin đề cập đến bài "Định Phong Ba" (定風波), Đó là cảnh giới hiểm có của thế hệ văn chương trong lịch sử văn hóa Trung Quốc.  Ngưỡng mộ thái độ nhân sinh khoát đạt, cởi mở tự nhiên khi đối diện với nghịch cảnh và trắc trở thể hiện trong từng câu chữ của bài thơ.


Trong cuộc sống đời thường, khi đối mặt với phong ba, vinh nhục, được mất của cuộc đời, tôi tự thấy hổ thẹn với lòng mình, cảm thấy mình không thể bình thản ứng xử với mọi hoàn cảnh giống như Tô Đông Pha. Đó cũng là nhân duyên khiến tôi tìm hiểu thêm cách đối nhân xử thế của bậc kỳ tài này, để những câu từ hàm chứa ý nghĩa thâm thúy luôn nhắn nhủ và soi sáng tôi mỗi khi sa vào nghịch cảnh trong cuộc đời.


Bài thơ “Định Phong Ba” viết vào mùa xuân năm 1082. có một vài lời mở đầu như sau:

Tam nguyệt thất nhật, Sa Hồ đạo trung ngộ vũ. Vũ cụ tiên khứ, đồng hành giai lang bái, dư độc bất giác, dĩ nhi toại tình, cố tác thử (三月七日,沙湖道中遇雨.雨具先去,同行皆狼狽,餘獨不覺,已而遂晴,故作此.) Dịch nghĩa: Ngày mồng 7 tháng 3, trên đường đến Sa Hồ thì gặp trời mưa. Người có dụng cụ đi mưa đã rời khỏi. Những người cùng đi đều cảm thấy bối rối, chỉ có tôi không cảm thấy như thế. Qua một lúc thì mưa tạnh, nên làm bài từ này.


                        Định Phong Ba" (定風波)

Mạc thính xuyên lâm đả diệp thanh         (莫聽穿林打葉聲),

Hà phương ngâm khiếu thả từ hành         (何妨吟嘯且徐行).

Trúc trượng mang hài khinh thắng mã     (竹杖芒鞋輕勝馬), 

Thùy phạ         (誰怕)? 

Nhất thoa yên vũ nhậm bình sinh             (一蓑煙雨任平生).

Liệu tiễu xuân phong xuy tửu tỉnh            ( 料峭春風吹酒醒),

Vi lãnh         (微冷),

Sơn đầu tà chiếu khước tương nghinh     (山頭斜照卻相迎).

Hồi thủ hướng lai tiêu sắt xứ                 (回首向來蕭瑟處),

Quy khứ     (歸去),

Dã vô phong vũ dã vô tình                 也無風雨也無晴).


 Dịch ý bài thơ

Đừng nghe rừng đang lay động luân chuyển và những chiếc lá lìa cành rơi lả tả.

Cứ thong thả mà đi và vù hát ngâm nga.

Tay chống gậy trúc, đôi chân với thảo hài thoải mái hơn là đi ngựa,

Ai sợ?

Một áo tơi sờn cũ ôm ấp suốt đời.

Se lạnh gió xuân hiu hắt làm cho người tỉnh táo như chợt tỉnh sau cơn men rượu.

Hơi lạnh

Đầu non bóng xế tà đang đón chào niềm nở

Hồi đầu chợt thấy sự quạnh vắng của chặng đường đã qua

Trở về,

Đâu thấy gió mưa cảnh chiều tà.


Tôi có cảm giác khác nhau trong mỗi giai đoạn đọc “Định Phong Ba”. Khi trước tôi chỉ nghĩ rằng Tô Đông Pha khoáng đạt tự tại, bây giờ lại cảm thấy có nhiều ý nghĩa sâu xa hơn ẩn tàng trong những câu chữ của bài thơ.


Tô Đông Pha viết bài thơ này 2 năm sau khi bị lưu đày đến Hoàng Châu, một miền đất lúc ấy hãy còn sơ khai hoang dã. Sự giáng chức này mang ý nghĩa thế nào đối với Tô Đông Pha. Từ một tài tử bậc nhất trong lĩnh vực văn học đương thời, danh vọng lừng lẫy đến bị giam trong tù tra cứu cả trăm ngày, rồi bị bọn tiểu nhân gièm pha cho lưu đày đến chỗ tận cùng gốc khuất xa xôi hẻo lánh. Tô Đông Pha như người lạc vào một hành tinh khác, lạc lõng bơ vơ, không bổng lộc, không chức tước; mất cả ánh hào quang danh vọng, không bạn bè, mất cả lý tưởng phục vụ tổ quốc. Nhiều người cho rằng Tô Đông Pha cởi mở khoáng đạt, dù bị cách chức lưu đày vẫn an vui tự tại như thường. Bình tâm mà nói ai có thể thản nhiên trước một biến cố kinh động ngặt nghèo như vậy?


Nếu chúng ta đọc tiểu sử của Tô Đông Pha sẽ thấy, sau khi đến Hoàng Châu, ông bắt đầu cuộc sống mới, một cuộc sống cam go từ dưới đáy sâu cuộc đời. Tại chùa An Quốc ở Hoàng Châu, ông gác qua thế sự thị phi, tịnh tâm quán chiếu. Lúc ấy, chỉ có Phật và Đạo soi sáng và dẫn dắt Tô Đông Pha trở về con đường chánh đạo để khỏi đắm chìm trong cơn phong ba của bể khổ tuyệt vọng.


Rồi ông cũng trút bỏ xa hoa, khoác lên mình chiếc áo nhà nông, tự đào giếng tìm nguồn nước sinh hoạt, cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để có miếng ăn. Sau khi trải qua những ngày tháng thê lương, sống nhờ vào sức lao động của đôi bàn tay, dần dần đánh thức, khơi dậy cái cảm giác hạnh phúc và niềm vui đơn giản trong cuộc sống. Tô Đông Pha từ từ ý thức được việc quan trọng nhất trên đời chỉ gói trọn trong “ăn” và “ngủ.”


Vì vậy, mùa xuân năm 1082, hai năm sau khi bị cách chức lưu đày, Tô Đông pha lần nữa lấy lại niềm tin cuộc sống, thoát thai hoán cốt từ sự điêu đứng của hoạn đồ thăng trầm, và đã viết lên bài thơ “Định phong ba” này. Từ những lời thơ, chúng ta có thể thấy được cảnh giới của ông đã có một bước chuyển ngoặt, vượt qua gian nan, tiến về cảnh giới thênh thang và khoáng đạt hơn.


Đứng ở góc nhìn xa hơn, chúng ta hãy cùng khám phá một danh tác văn học bất hủ của đại văn hào Tô Đông Pha.

Các nhà văn thường dùng mưa gió để ẩn dụ gian nan trong cuộc sống. Tô Đông Pha cũng mượn câu chuyện gặp mưa tại Sa Hồ để ngầm chỉ cảnh ngộ bi đát trên hoạn đồ chìm nổi của mình. Nhưng Tô Đông Pha có thái độ gì khi đối mặt với biến cố cuộc đời?


Trong đoạn đầu của bài thơ,Tô Đông Pha dùng các từ: Đừng nghe, ai sợ, không có sao, mưa gió có gì đáng ngại. … nghe thoáng qua thì có vẻ khoáng đạt, nhưng thực ra là tự mình an ủi.


Bởi vì nếu thản nhiên trước mưa gió, thì tại sao lại đừng nghe đừng sợ. Như vậy, ngay lúc đầu Tô Đông Pha có thái độ kháng cự chứ không phải chấp nhận gian khổ. Đó là cảnh giới thứ nhất khi ông gặp nghịch cảnh. Người đời thường nói: "sau cơn mưa trời lại sáng, khó khăn nào rồi cũng qua, phải sống lạc quan và an nhiên trước mọi biến cố." Nhưng bao nhiêu người thực sự làm được như vậy. Chúng ta vẫn biết đau khổ và hạnh phúc, đều là tặng phẩm của đất trời. Tuy nhiên, gian nan làm mình khó chịu và đau khổ là sự thực. Tô Đông Pha không phải là siêu nhân, ông cũng có bản năng kháng cự với gian nan và những phản ứng lo sợ, quằn quại, đau khổ như mọi người khi gặp nghịch cảnh. Tuy nhiên ông không bị nhấn chìm bởi nghịch cảnh, nhờ sự quán chiếu và chuyển hóa, Tô Đông Pha mạnh dạn kinh qua mưa gió cuộc đời, đồng thời là ngọn đuốc soi sáng cho người đời sau.


Tiếp theo là đoạn giữa của bài thơ, "nhất thoa yên vũ nhậm bình sinh, liệu tiễu xuân phong xuy tửu tỉnh"(一蓑煙雨任平生, 料峭春風吹酒醒), áo tơi tuy đơn sơ, miễn sao che mưa che gió là được. Sau khi mưa thuận gió hòa, những tia nắng chiều vàng vọt dịu dàng trên đầu non mang đến cho Tô Đông Pha sự bình yên thanh tịnh, khiến ông cảm giác như chợt tỉnh sau cơn say. Áo tơi trong bài thơ cũng ẩn ý cuộc sống thanh đạm, ông cất nhà tranh bên vách núi phía đông (đông pha), từ đó lấy hiệu là Đông Pha cư sĩ, cày ruộng trồng trỉa, sống y như một lão nông, thanh bần nhưng an ổn. Đó là cảnh giới thứ hai khi Tô Đông Pha gặp nghịch cảnh. Tâm bình thường là đạo. Người sống với tâm bình thường là người biết đủ, tâm an trú trong sự bình an, trong sáng. 


Thưởng thức một danh tác là tìm hiểu giá trị chân thiện mỹ của bài viết đối với người đời. Nhà văn và nghệ thuật gia phú cho tác phẩm sinh mạng lần thứ nhất, đọc giả diễn giải phú cho tác phẩm sinh mạng lần thứ hai, vì vậy diễn giải cũng là một bộ phận của nghệ thuật. Tiếp theo đây, chúng ta thử phân giải đoạn cuối, cũng là giá trị cốt tủy của bài thơ. 


Ở đời chuyện nghịch ý mười điều chiếm hết tám chín. Thiết nghĩ mọi người đều đã từng trải nghiệm ít nhiều những khốn khổ, bất như ý trong cuộc sống. Nhưng chúng ta vẫn phải sống cho dù sinh hoạt có muôn vàn khó khăn, thực vậy, con người có bao giờ lép vế với nghịch cảnh đâu.


Nghịch cảnh nào rồi cũng sẽ tận, gian nan nào rồi cũng sẽ qua. “Hồi thủ hướng lai tiêu sắt xứ” (回首向來蕭瑟處), quay đầu nhìn lại đoạn đường quá khứ, Tô Đông Pha cảm khái mà nói: "Dã vô phong vũ dã vô tình" (也無風雨也無晴). Sau nhiều lần suy ngẫm, tôi diễn giải là: suốt hai năm dày công tu tập, gạn đục lóng trong, Tô Đông Pha ngộ ra chân lý, tìm lại sự thanh tịnh và ý thức được điều then chốt để vượt qua bất cứ nghịch cảnh nào chính là ở tâm thái. "Trần cư bất nhiễm bụi trần thế," ngoài trời mây hay nắng, tâm thức lúc nào cũng như như bất động trước những biến thái ngoài đời.


Chúng ta có thể hiểu "VÔ" ở đây là không hề gì, không sao cả ,cũng có thể hiểu theo ý nghĩa của nhà Phật, "VÔ" không phải là không có, mà là hư vọng.

"Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng (凡所有相,皆是虚妄).” Bất cứ vật gì hễ có hình tướng đều là không thật. Đó là cảnh giới thứ ba khi Tô Đông Pha gặp nghịch cảnh. Mưa gió hay trời trong, đau khổ hay hạnh phúc, vinh hay nhục, được hay mất ... Mọi sự chung quy đều tan biến như khi tỉnh giấc sau cơn mê mộng. Nếu biết tất cả chỉ là mộng ảo, thì chúng ta còn chấp hay không? chắc chắn là không.


Tô Đông Pha dùng bài thơ để diễn đạt quá trình vượt qua gian nan của mình. Từ thái độ chống cự tiêu cực "đừng nghe đừng sợ" đến chấp nhận nghịch cảnh, sau cùng đạt đến cảnh giới thông suốt, khoáng đạt và siêu thoát. Tại sao bài thơ "Định Phong Ba" là danh tác bất hủ, ngàn năm không ai sánh kịp, là vì sự khoáng đạt của Tô Đông pha là sự kết tinh của tận cùng đau khổ, nảy mầm từ tận đáy sình lầy, như hoa sen vươn lên từ chốn bùn, rồi lan tỏa mùi hương thanh khiết.


Quá trình phần đấu với gian nan của Tô Đông Pha tựa như cuộc thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng trong Tây Du Ký. Đó cũng là con đường bắt buộc phải qua của bất cứ người nào muốn vượt qua mọi thử thách trong cuộc sống đầy phong ba bão tố. Từ xưa đến nay, chúng ta đều đã và đang trên đường gập ghềnh, chịu đựng những khổ đau như Tô Đông Pha trên hành trình truy tầm chân lý. Mỗi thời đại của quá khứ, hiện tại và tương lai đều có Tô Đông Pha. Bởi thế,Tô Đông Pha là bạn đồng hành, cũng là người giơ cao ngọn đuốc soi sáng hành trình của chúng ta.


Trường

04-30-2023


4/28/23

30 tháng 4 NỖI NIỀM OAN KHUẤT


Hình ảnh cũ lại về trong trí nhớ,
Tháng năm dài trăn trở vẫn chưa nguôi.
Nhìn vết thương thành sẹo…thấy ngậm ngùi
Cho những ngày bị dập vùi, bội phản !

Trước ngày ấy nếu mất trong lửa đạn,
Để khỏi thấy “Đồng minh : Bạn”…quay lưng!
Thì niềm đau đâu đến nỗi tận cùng,
Trong uất nghẹn phải buông gươm khuất phục.

Sau cuộc chiến ngậm hờn trong tủi cực,
Hứng đòn thù bên thắng cuộc ra tay.
Nhiều chiến hữu không kham nổi đọa đày,
Phải vùi xác, bỏ thây nơi hoang lạnh !

Mẹ chờ con…héo gầy trong cô quạnh,
Vợ mong chồng vai nặng gánh ưu sầu.
Tổ Quốc ơi ! Người một Nước xử nhau,
Cũng ác độc…khác gì đâu Ngoại địch !

Bọn chúng chung lò :“bất nhân, qủy quyệt”
Cùng tôn thờ một chủ thuyết vô thần.
Tuy có đầu…nhưng vắng hẳn lương tâm,
Luôn nhất quán: “giết lầm hơn bỏ sót”.

Ba mươi tháng tư…Gợi niềm đau xót,
Vết thương khó lành, gía buốt con tim.
Tình xưa nghĩa cũ : “Huynh-Đệ chi binh”
Đốt nén nhang, Kính Vong Linh Đồng Đội.

Gần nửa thế kỷ…còn gì để nói ?
Chút lòng thành theo hương khói tỏa lan,
Cầu Chiến Hữu yên nghỉ cõi bình an,
Niềm u -uẩn trả thế gian tục lụy !!!

HÀN SĨ PHAN Florida, Tháng 4-2023

Kính chuyển
( Để thay lời cảm ơn và cũng để góp chung niềm nhớ với đại sư huynh Hàn Sĩ Phan )
HUỲNH VĂN CỦA

MÙA KIẾP NẠN
Có ngày nào không là ngày Quốc Hận?!
Có đêm nào không nhớ lúc tan đàn!
43 năm! Cảnh Nước mất, Nhà tan
luôn ray rứt trong lòng người xa xứ! ..

Vai quang gánh, chân mỏi mòn lữ thứ
Bến lưu vong, khách mãi đợi con thuyền
Đất, Trời còn rấm rứt cuộc truân chuyên
Thương quê Mẹ điêu linh trong cuộc sống.

Bao dâu bể vẫn chưa nguôi hy vọng
Một ngày vui trong mắt lệ đoàn viên
Bến bờ xa nối sông núi ba miền
Thành một dãi non sông mùa thạnh trị.

Dẫu sông núi lạc vào tay ngạ quỷ
Vẫn còn đây hồn thiêng của Cha, Ông
Những người con của nòi giống Lạc Hồng
đem xương máu làm đê ngăn hiểm họa.

Xưa cung kiếm dấn thân vì chí cả
Bóng chinh y trải một gánh tang bồng
Nay nhật nguyệt từ trời xa, đất lạ
trỗi điệu Hời khóc Tử Sĩ trận vong.

Nén hương thắp muộn mùa kiếp nạn
Thay tiếng lòng tưởng niệm thuở chi binh
Chung thiên cổ xin mời nhau cùng cạn
Nghĩa đệ huynh ngàn năm mãi thắm tình.

HUY VĂN

Lại một lần về quê

Thạch Lai Kim

Chuyến đi mất khá nhiều thì giờ, trên 23 tiếng đồng hồ mới tới đích. Khởi hành từ phi trường Frankfort Đức vào buổi chiều ngày hôm trước đến giữa đêm ngày hôm sau mới đến Saigon. Dự định bận về sẽ ghé Seoul vài hôm nên đã chọn Asiana Airlines của Nam Hàn.

Theo hành trình sẽ chuyển máy bay tại Incheon International Airport. Phải chờ 7 tiếng đồng hồ mới tiếp tục chặng Incheon-Saigon.

Khi check-in nhân viên hãng hàng không đã lễ phép cho mỗi hành khách phiếu bonus để sử dụng tại Incheon có thể tùy chọn “free” một city tour, hoặc một fitness court tại phi trường. Tôi và bà xã đã chọn ‚fitness court‘ (spa & sauna) cho tiện vì đã ngồi hơn 10 tiếng trên máy bay không muốn phải ngồi xe buýt thêm mấy tiếng đồng hồ nữa. Spa ở đây sạch sẽ, tổ chức chu đáo, tiện nghi so ra còn hơn nhiều nơi trên nước Đức. Điều khác biệt là đàn ông, đàn bà có khu riêng cho steam spa hay sauna. Sau đó mới vào phòng nghỉ ngơi chung. 

Những ngày đầu ở Saigon cũng không có gì đặc biệt. Cũng nóng bức, mặc dù trời đã lập đông (theo âm lịch). Cũng ồn ào tiếng xe cộ, mặc dù nhà của đứa em gái ở cách xa đường xe. Điều may mắn là nơi đây hãy còn trống trải chưa có nhà cao tầng, nên thỉnh thoảng thoáng qua luồng gió mát, nhất là vào buổi sáng và ban đêm.

Vì mục đích chính là về thăm thân nhân nên không định trước sẽ đi đâu chơi và sẽ làm gì trong 5 tuần ở lại đây, mọi việc “tùy duyên & tùy tiện“.

Vài hôm hơi tỉnh táo sau chuyến đi nhọc nhằn và thích nghi với giờ giấc mới là tới màn điện thoại, viết email liên lạc với bạn bè.

Email của Vũ Văn Thượng trả lời “Trời ơi! Uổng quá! Tôi đã trở về Paris đầu tháng 11/09 cuối tháng 1/2010 mới trở lại Saigon”. Uổng thật! Nhưng không tiếc vì muốn tùy duyên thì tiếc cũng vô ích. Có duyên sẽ gặp lại!

Điện thoại Lương Quan Thạch trả lời: Vương Hon K5 (Mỹ) cùng bà xã Lệ Quyên K6 cũng về chơi. Tụi này sẽ ra rước. Hai vợ chồng sẽ ở tạm nhà mình trước khi về quê. Nhưng họ có nhiều chương trình đi tour. Sẽ sắp xếp họp mặt. 

Gọi điện thoại cho Hồ Phước Hải vì chuyến về trước chưa gặp anh. Anh cho biết đang trên đường đi Đồng Tháp. Nếu điện thoại cho anh sớm thì anh đã ghé ngang vớt đi tỉnh Đồng Tháp chơi vài hôm. (Anh đang làm cố vấn cho đứa con hiện quản lý cơ sở giáo dục tại đây). Lại một lần không có Duyên.

Nhưng chung cuộc cũng có những cái “duyên” đáng ghi nhớ:

1)- Không hẹn mà gặp lại anh Phạm Thanh Thiên sau hơn 40 năm. Anh và bà xã là chị Ngọc sắp kết thúc chuyến thăm quê. Chỉ cần liên lạc trễ hơn một chút là anh đã bay về Úc. Nhờ liên lạc kịp thời nên anh dời chuyến bay lại 3 ngày để „họp bạn“. Thiên và tôi có một kỷ niệm rất sâu sắc khi tìm giáo sư đỡ đầu cho bài luận văn ra trường. Kỷ niệm này đã chôn chặt đáy lòng từ nhiều năm. Khi nhắc lại hai đứa chỉ nhìn nhau cười trừ. Chắc hẳn các bạn khác của Nhóm Chetch: Trịnh Văn Tủy, Dương Tấn Hải (Pháp), Nguyễn Ngọc Châu (Mỹ) và Lưu Phong Lợi (VN)) chưa ai biết chuyện gì đã xảy ra!?

Anh Trịnh Văn Tủy ít nói, tính tình hào phóng, thích giao du bạn bè, biệt danh công tử Châu Đốc. Trong một lần về thăm nhà, gặp lại người bạn kỹ sư cùng khóa SQTB Thủ Đức gốc Châu Đốc có hỏi thăm tin tức của anh vì anh này sắp sửa đi Mỹ nghe tin Tủy ở Mỹ nhưng không biết địa chỉ. Tôi cũng không biết gì hơn.

Nhưng lần nầy Thiên và tôi có cái may gặp lại người bạn cùng nhóm đã lặn nhiều năm. Sống ẩn dật không tiếp xúc bạn bè: Lưu Phong Lợi. Anh Sơn Râu có số điện thoại nhưng thường thì gọi không thông hoặc bị từ chối không tiếp. Qua điện thoại Thiên và tôi cố gắng thuyết phục anh đến họp bạn ngày 2.12. Gặp bạn bè cho vui. Nhưng anh không hứa chắc viện cớ bệnh hoạn, yếu đuối khó khăn trong việc di chuyển. Thôi thì tùy nhiên vậy! Nhưng trong lúc điện thoại, tôi không nhớ bạn nào (cùng đang ngồi trong một quán cà phê cạnh nhà anh Phạm Hữu Tài) nhắc khéo “địa chỉ! địa chỉ!“. Thế là giấy bút được đưa ra. Tôi cố tình đọc lớn để anh NT Long ngồi kế cận cùng ghi.

Thiên và tôi rất mong nhưng tin chắc là Lợi sẽ không đến dự. Hai đứa hẹn ngầm sẽ đến thăm Lợi sau ngày họp bạn tức 3.12.

Thiên về Úc trên chuyến bay 22 giờ ngày 5.12. Tôi tiếp tục đi chơi Seoul sau đó 2 tiếng đồng hồ cùng ngày. Hẹn gặp nhau trong DHTN 2010 tại Sydney (không biết có còn sức hay không, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, vì sau mỗi chuyến đi là nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe và cái hồ bao)

2)- Cũng không hẹn mà gặp các anh-chị từ Mỹ về: Nguyễn Xuân Lý, Nguyễn Thanh Phàn và bà xã, Phạm Hữu Tài. Phạm Thanh Thiên và bà xã Ngọc (như đã kể trên), kể cả tôi vị chi không hẹn mà tụ họp 5 Việt kiều. 

Lúc mới đầu tôi chưa dám gọi anh Long, anh Hà Minh Quang cũng như anh Phạm Chí Thành trong Ban Điều Hành vì e ngại chỉ có mình mà làm kinh động nhiều người không nên. Nhưng nay thì không e ngại gì. Họp mặt càng đông càng vui.

Từ bên trái: NV Sơn (râu), PT Thiên, TL Kim, NT Phàn, NV Vĩnh,  và HM Quang (đứng phía sau)


3)- Có duyên gặp lại các chị Thủy, chị Việt Anh, chị Ánh và phu quân, chị Cẩm, a/c NT Long, a/c NV Minh, HM Quang, VT Thức, PV Ngọc, HP Hải, anh NV Vĩnh, ĐT Nhung, a/c NV Sơn, anh NM Tuấn, NQ Khánh, a/c PC Thành, chị Trịnh Thị Huyền… Nhiều anh chị ở xa nhưng cũng cố gắng đến họp mặt như anh Thâu K2 (Biên Hòa) phải tạm trú tại nhà anh Quang, hai chị Thủy ở tận Thủ Đức. Chắc chắn hãy còn sót tên vài anh chị mong quý anh chị tha lỗi.

Thay mặt các anh chị về thăm quê, hôm ấy chưa có dịp cám ơn quý anh chị và ban tổ chức buổi họp, vì nhà hàng mở nhạc quá to, sau đôi lần yêu cầu vặn nhỏ lại không được (có lẽ vì họ sợ ảnh hưởng đến những người khách khác chăng!), xin cám ơn tất cả quý anh chị đã hiện diện trong buổi họp bạn hôm ấy.

(trích bài đăng trong : Bản tin Thụ nhân ÂC Số 2 trang 3 )

4/26/23

Có những ngày vui - TH ÂC ăn Tết Đinh Hợi 2007

Tin ghi nhanh

Theo truyền thống, một buổi tiệc mừng Xuân Đinh Hợi của Hội Ái Hữu Viện Đại Học Đà Lạt Âu châu đã được tổ chức tại Nhà Hàng LE PALANQUIN, 12 rue Princesse Quận 6 Paris. Hiện diện gồm các Thầy Cô Vương Văn Bắc, Trần Văn Ngô, Nguyễn Phú Đức và Vũ Quốc Thúc cùng các cựu SV Viện Đại Học Đà Lạt chừng khoảng 40 người.

Trong bầu không khí ấm cúng của Restaurant mà Thầy Cô Trần Văn Ngô đã ưu ái dành cho Hội mượn cả một buổi chiều. Buổi tiệc đã diễn ra rất vui vẻ trong thân tình Thầy - Trò và kết thúc thật viên mãn.