3/31/23

Cảm Ơn Nghịch cảnh

Sáng thứ Ba tuần rồi (03-14-2023), khu nhà tôi ở không có điện vì giông tố bão bùng. Tình trạng này kéo dài hơn 30 tiếng đồng hồ. Tối hôm đó tôi trải qua một đêm dài hãi hùng giá buốt. Đêm ấy tôi phải mặc đến 3 áo lạnh, 1 áo khoác ngoài mà vẫn thấy lạnh vì khí hậu dị thường tại California. Đây là đêm mà tôi phải chống trả với cái lạnh, theo tôi, đó là đêm lạnh nhất từ khi tôi đặt chân đến đất Mỹ. Không đèn đóm, không có hơi sưởi ấm, tôi phải sống trong đêm tối dày dạn, vì trước đây chưa bao giờ xảy ra tình trạng này, nên tôi không có cù bị những thiết bị chiếu sáng như đèn dầu, đèn pin hoặc nến. Không ngủ được tôi mong cho trời mau sáng. Thời gian như dài ra, nằm co ro nghe tiếng tít tắc của đồng hồ trên tường, thỉnh thoảng trời chớp sáng lên kèm theo tiếng sấm của cơn thịnh nộ thiên nhiên.


Tôi chợt nghĩ tới những người vô gia cư đang co ro bên góc đường ngoài phố và run rẩy trong cơn mưa bão gió lạnh; đồng thời nghĩ đến các chuyên viên PG&E đang ngày đêm cố gắng hồi phục nguồn điện bằng mọi cách có thể trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt của cơn giông thế kỷ, hầu mang lại hơi ấm cho những gia đình đã và đang chống chọi với cái lạnh suốt đêm dài tối mù tối mịt...


Thương xót những người vô gia cư vì số mệnh lận đận, chịu thiếu thốn những vật dụng tối thiểu trong đời sống, đang sống cơ hàn bên lề rìa của xã hội. Cảm ơn đời cho chúng ta được ấm no.


Thực vậy, nếu để ý chúng ta sẽ thấy trong cuộc sống mỗi ngày có vô số ưu đãi để chúng ta phải cảm ơn cuộc đời, cảm ơn mọi người. Hàng ngày khi thức giấc mở mắt đón chào một ngày mới, hãy cám ơn cuộc đời đã cho ta được vui sống thêm một ngày. Khi đọc tin tức 39 người chết ngạt trong container trên đường đến Anh Quốc tìm sinh kế, hãy cám ơn đời ta may mắn không nằm trong số phận bi thảm như 39 người đó. Để rồi khi nghĩ đến bao nhiêu người khác đã thiệt mạng trên đường tìm tự do trước kia, tôi lại tạ ơn trời đất vì mình may mắn không phải dùng mạng sống để đánh đổi hạnh phúc, để còn được hít thở bầu không khí tự do.


Đêm không điện không gas mang lại nhiều sự bất tiện và khổ não cho cuộc sống, nhưng cũng vì khổ mà chúng ta biết trân quý sự khả quý của những giây phút an lạc hạnh phúc, biết cảm nhận sự bất hạnh không may của người khác.


Biết khổ là cội nguồn của tâm thức giác ngộ. Nhân sinh bất như ý thập thường bát cửu, ở đời chuyện nghịch ý mười điều chiếm hết tám chín. Tuy nhiên, khổ đau và hạnh phúc luôn đồng hành bên nhau, gặp nghịch cảnh cố gắng sống với nghịch cảnh và chuyển hóa nghịch cảnh, ví như hạt cát vô tình lọt vào vỏ trai, con trai nhẫn nại, chịu đựng rồi tiết ra hoạt chất bao bọc hạt cát lại, lâu ngày trở thành viên ngọc trai lóng lánh quý giá.


Cảm ơn nghịch cảnh khó khăn khiến ta suy ngẫm. Nếu cuộc đời không có khó khăn thì ai biết trầm tư, tìm lối thoát để vượt qua trở ngại, tiến đến thành công?

Cũng như anh hùng chỉ xuất hiện khi thời loạn lạc, không có loạn lạc thì không có anh hùng vì nếu có thì xã hội cũng không ai cần đến. Đó cũng là lý do tại sao Đức Phật giáng thế ở đất nước nghèo nàn như Ấn Độ mà không phải ở một nơi giàu có, sung sướng.


Sinh hoạt hiện nay tại nước ngoài nếu thiếu những tiện nghi mà chúng ta đã thụ hưởng bấy lâu nay như điện, nước, gas là một điều vô cùng khổ não. Đó còn chưa kể đến thiên tai nhân họa, ví dụ điển hình là cơn đại dịch Covid. Thiết nghĩ mọi người đều đã từng trải nghiệm ít nhiều khốn khổ này trong cuộc sống. Mọi người đương nhiên đều muốn có sinh hoạt hạnh phúc, nhưng hầu như không có ai được sống trọn vẹn với hạnh phúc vì bản chất vô thường của trần thế. Đó không phải là một sự đe dọa, mà là một sự thực để chúng ta cảnh tỉnh để biết sống thiện, yêu thương mọi người, luôn mang lòng tri ân và chuẩn bị sẵn sàng hầu đối diện với nhiều thử thách để giữ tâm được bình an trong mọi biến cố bất ngờ của cuộc sống. 


Vì một lần không điện kéo dài suốt trong đêm tối lạnh giá khiến tôi luôn luôn biết ơn cuộc sống, biết ơn khó khăn, biết ơn vô thường mà mỗi sớm mai thức giấc tôi có thêm một ngày nữa để yêu thương, để sống thật chậm, thật chậm, để nuốt trọn những cảm xúc thăng trầm, để nếm đủ vị đời chua ngọt đắng cay, để tận hưởng trọn vẹn những niềm vui, nỗi buồn và những hạnh phúc an lạc mà cuộc đời đã mang đến cho tôi. Cũng không quên cầu nguyện cho những ai vẫn đang hối hả, ngụp lặn, trôi nổi trên dòng đời hư ảo sẽ sớm quay đầu, chuyển hóa thân tâm, tìm lại cái thanh tịnh tinh khiết đã sẵn có trong ta, mà lâu nay bị bụi trần che lấp, để làm hành trang cho những bước đi ung dung vào con đường quang minh trong cõi Ta Bà.

Cảm ơn cuộc sống ấm no

Cho tôi đồng cảm âu lo cơ hàn 

Cảm ơn những lúc gian nan

Cho tôi sức mạnh hiên ngang hào hùng

Cảm ơn bệnh tật ốm đau

Cho tôi chia gánh khổ sầu người mang

Cảm ơn hoàn cảnh trái ngang

Cho tôi đứng dậy vững vàng đi qua

Cảm ơn mọi người gần xa

Cho tôi ấm áp, đậm đà vui tươi

Cảm ơn nước mắt – nụ cười

Cho tôi trọn vẹn phận người phù du.


Trường

31-03-2023

Kỷ Niệm ngày tháng cũ - Tìm lại hình ảnh Trường Mẹ Thân Yêu

Ca Khúc Mùa Thu Thụ Nhân - Giọng hát: Ca Đòan Cadillac 
Thơ : Lê Đình Thông - Nhạc: Trần Thụy Minh K4

3/25/23

Tạp Ghi và Phiếm Luận : HƯ CẤU trong võ hiệp KIM DUNG (3) - Rượu và Ly Uống Rượu

Tiếu Ngạo Giang Hồ 

 
    Đọc truyện võ hiệp "Tiếu Ngạo Giang Hồ 笑傲江湖", không ai là không trầm trồ đoạn luận về uống rượu và các ly chén dùng để uống rượu rất điệu nghệ của Đại Hiệp KIM DUNG thông qua các nhân vật và văn thơ cổ được ông đưa vào để dẫn chứng một cách tài tình và lý thú. Nào ta hãy cùng đọc bài thơ sau đây :  
   
                  蘭陵美酒鬱金香,   Lan lăng mỹ tửu uất kim hương, 
                  玉碗盛來琥珀光。   Ngọc uyển thịnh lai hổ phách quang
                  但使主人能醉客,   Đản sử chủ nhân năng tuý khách,
                  不知何處是他鄉。   Bất tri hà xứ thị tha hương ! 
Có nghĩa :
                  Lan Lăng rượu ủ uất kim hương,  
                  Chén ngọc rót đầy lóng lánh gương.
                  Chủ nhân nếu biết say lòng khách, 
                  Non nước đâu mà chẳng cố hương ! 
  

    Đó là bài thơ Khách Trung Hành 客中行 (còn có tên là Khách Trung Tác 客中作) của Thi Tiên LÝ BẠCH  李白 mà một trong Hoàng Hà Lão Tổ là Tổ Thiên Thu 祖千秋 đã mượn hai câu đầu để nói về một loại rượu ngon (Phần Tửu 汾酒) của Trấn Lan Lăng được nấu bằng cây cao lương và ủ bằng hoa Uất Kim Hương (Hoa Tulipa) thì phải uống bằng chén ngọc, vì khi rượu được rót vào chén ngọc sẽ ửng lên màu vàng của hổ phách lóng lánh rất đẹp, uống sẽ tăng thêm phần cảm giác nên sẽ cảm thấy ngon hơn nhiều. Vì thế mà :

      - Lan Lăng Mỹ Tửu thì phải uống bằng Chén Ngọc. Còn...
     - Bồ Đào Mỹ Tửu thì phải uống bằng chén Dạ Quang, như trong bài thơ Lương Châu Từ 涼州詞 nổi tiếng của Vương Hàn 王翰 :

              葡萄美酒夜光杯,    Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, 
              欲飲琵琶馬上催。    Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
              醉臥沙場君莫笑,    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, 
              古來征戰幾人回。    Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ?
Có nghĩa :
                 Bồ đào rót chén dạ quang,
                 Tì bà giục giã sa tràng tiến ngay.
                 Chớ cười chiến địa ta say,
                 Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về ?!


    Tổ Thiên Thu đã lý luận rằng : Rượu Bồ Đào (BỒ ĐÀO 葡萄 là trái Nho, nên Rượu Bồ Đào là Rượu Nho, tiếng Pháp là "Le Vin", người miền Bắc của ta đọc trại thành "Vang", nên gọi là "Rượu Vang") vốn đã có màu đỏ sậm rồi, lại được rót vào chén Dạ Quang sẽ cho màu đỏ sậm như máu, người chiến sĩ trước khi ra trận uống vào như uống máu quân địch sẽ tăng thêm phần hào hùng quyết sống chết với quân thù, như hai câu thơ của Nhạc Bằng Cử (Nhạc Phi) đời Tống :

               壯志饑餐胡虜肉, Tráng chí cơ san Hồ Lỗ nhục,
               笑談渴飲匈奴血。 Tiếu đàm khát ẩm Hung Nô huyết.
Có nghĩa :
         - Cái hùng tâm tráng chí của người lính chiến khi đói sẽ ăn cả thịt của rợ Hồ, và trong lúc cười nói nơi sa trường lúc khát sẽ uống cả máu của giặc Hung Nô.    
              
       Tổ Thiên Thu lại chỉ một hũ rượu trắng thượng thặng của quan ngoại mà nói rằng :"Loại rượu nầy rất ngon nhưng lại cực nồng, nên phải uống bằng ly được làm bằng sừng tê giác (Tê Giác Bôi 犀角杯) sẽ tăng thêm phần thơm ngon của rượu. Có ly làm tăng màu sắc của rượu thì cũng có loại ly làm tăng hương vị của rượu chẳng phải sao?!

    Lệnh Hồ Sung 令狐冲 chỉ giỏi uống rượu, chớ hồi nào tới giờ chưa từng biết cân nhắc xem, rượu nào phải uống bằng loại ly nào thì mới thơm ngon hơn. Nghe Tổ Thiên Thu nói một thôi một hồi những đạo lý về phép uống rượu và ly chén dùng để uống rượu, nên cảm thấy rấy lý thú. 

    Tổ Thiên Thu lại chỉ vào hũ rượu kế bên và nói rằng :"Còn đây là rượu Cao Lương, loại rượu lâu đời nhất có từ thời bàng cổ, khi bà Nghi Địch 儀狄 dùng cao lương để ủ và nấu thành rượu, vua Đại Vũ lúc đó đang trị thủy, nếm thử và khen ngon, nên Rượu Cao Lương có từ thời đó và bà Nghi Địch được tôn là Tổ của loại rươu nầy. (Giới văn học của ta hiện nay vẫn còn gọi những tay bơm nhậu là "Con cháu của bà Nghi Địch"). Loại rưọu lâu đời nầy phải uống bằng ly làm bằng đồng xanh (Thanh Đồng Bôi 青銅杯) mới cảm thấy được hết cái cổ ý của rượu. 

      Tổ Thiên Thu lại xoay mình lại vỗ vào hũ rượu có dán hàng chữ : "Bách Thảo Mỹ Tửu 百草美酒" nói rằng : Đây là loại rượu được ngâm bằng hằng trăm loài thảo dược, nên mùi thơm nhe nhàng như hoa cỏ, ngửi mùi rượu bốc lên ta có cảm giác như đang đi trên một cánh đồng đầy hoa thơm cỏ lạ; nên uống rượu nầy phải dùng ly được làm bằng những gốc mây to ngàn năm (Cổ Đằng Bôi 古藤杯) thì mới khơi dậy được hết mùi thơm của các loại hoa cỏ ẩn chứa trong loại rượu nầy. Còn rượu "Nữ Nhi Hồng của Thiệu Hưng 紹興女兒紅 thì phải uống bằng ly gốm sứ xưa (Cổ Từ Bôi 古瓷杯) của đời Bắc Tống, nếu của đời Nam Tống thì sẽ kém thơm đi, còn nếu là ly gốm sứ  của đời Nguyên thì mùi vị sẽ rất tầm thường...

      Còn bình "Lê Hoa Tửu 梨花酒" nầy, thì phải uống bằng ly Phỉ Thúy có màu xanh biếc như trong bài thơ "Hàng Châu Xuân Vọng 杭州春望" của Bạch Lạc Thiên có câu :"Hồng tụ chức lăng khoa thị đế, Thanh kỳ cô tửu sấn lê hoa 紅袖織綾誇柿蒂,青旗沽酒趁梨花". Có nghĩa : "Thiếu nữ Hàng Châu khoe lụa tốt, Cờ xanh tranh được rượu lê hoa". Cho nên, uống Rượu Lê Hoa phải dùng ly Phỉ Thúy  (翡翠杯) màu xanh; và uống Ngọc Lộ Tửu 玉露酒 thì phải dùng chén Lưu Ly, vì trong rượu có những bọt rượu tròn như những hạt sương lóng lánh trong chén Lưu Ly, uống vào có cảm giác như uống những hạt sương ngọt ngào ban sáng...


     Bỗng nghe tiếng lêu lêu của Nhạc Linh San nói rằng :"Khéo khoác lác, uống có mấy chén rượu mà bày đặt bày điều đủ thứ ly chén, suốt ngày cứ như hũ chìm, thì còn nói gì là Anh Hùng Hảo Hán!". Tổ Thiên Thu đáp rằng :
     - Cô nương sai rồi, năm xưa Hán Cao Tổ Lưu Bang trong cơn say đã trảm bạch xà, khởi nghĩa lập nên nhà Hán, há chẳng phải là Anh Hùng sao ? Còn trong Hồng môn yến Phàn Khoái đã dùng thuẫn của quân sĩ để cắt thịt, uống rượu bằng đấu, há chẳng phải là Hảo Hán sao ?!

     Đào Cán Tiên trong Đào Cốc Lục Tiên nói rằng :

    - Nảy giờ người cứ ba hoa thiên địa, nào là chén Phỉ Thúy, chén Dạ Quang, chén Lưu Ly... Trên đời làm gì có nhiều chén thế, ngươi tưởng mình là người hào hoa phong nhã lắm hay sao ? Tổ Thiên Thu đáp rằng :

    - Hào hoa thì không dám, nhưng phong nhã chắc cũng được ba phần !
    
     Đào Diệp Tiên cười ha hả hỏi rằng :

    - Thế thì uống hết tám loại rượu ngon nầy, trên mình ngươi mang theo được mấy chiếc ly ? 

    Tổ Thiên Thu cũng cười mà đáp rằng :

    - Nói nhiều không nhiều, nói ít không ít, mỗi thứ một chiếc chắc là có được ! 

    Đào Cốc Lục Tiên đồng thanh la lên :

    - Đồ khoác lác, đồ nói dóc ! Đào Căn Tiên cười nói :

    - Ta thách ngươi, nếu như trong mình ngươi lấy ra đủ tám chiếc ly như ngươi nói, thì ta sẽ... ăn hết tám chiếc ly đó vào bụng. Còn ngược lại thì người tính sao đây ? Tổ Thiên Thu đáp :

    - Thì ta cũng sẽ ăn hết tất cả ly chén ở đây chứ sao !

      Đào Cốc Lục Tiên đồng thanh nói :

    - Hay lắm ! Hay lắm ! để chúng ta xem ngươi...

      Chưa dứt lời đã thấy Tổ Thiên Thu thò tay vào bọc móc ra một chiếc ly trắng nuột bóng láng, quả là một chiếc Bạch Ngọc Bôi 白玉杯, làm cho Đào Cốc Lục Tiên câm họng không dám nói tiếp. Sau đó Tổ Thiên Thu lại móc ra từng chiếc từng chiếc một bày trên bàn, quả là Dạ Quang Bôi 夜光杯, Phỉ Thúy Bôi 翡翠杯, Tê Giác Bôi 犀角杯, Thanh Đồng Bôi 青銅杯, Lưu Ly Bôi 琉璃杯, Cổ Đằng Bôi 古藤杯 (Ly bằng Gốc Mây), Cổ Từ Bôi 古瓷杯 (Ly gốm sứ cổ). Ngoài tám loại ly đó ra, Tổ Thiên Thu còn tiếp tục móc ra nào là Kim Bôi, Ngân Bôi, Thạch Bôi, Tượng Nha Bôi, Hổ Xỉ Bôi, Ngưu Bì Bôi, Trúc Đồng Bôi, Tử Đàn Bôi... Trên hai mươi loại ly khác nhau. 

     Mọi người đều ngẩn ngơ ngạc nhiên đến không nói nên lời. Đào Căn Tiên thò tay bốc lấy chiếc ly bằng Gốc Mây lên nói :
    - Ta thua rồi, ta ăn hết tám chiếc ly nầy ! Nói đoạn bèn cắn bể chiếc ly bằng mây một miếng nhai ngốn ngáo rồi nuốt luôn vào bụng. 

    Tổ Thiên Thu vội vàng thò tay giựt phần ly mây còn lại cười mà nói rằng :
    - Ta cũng thua ngươi rồi ! Ngươi dám ăn nhưng ta lại không nở để mất tám chiếc ly quý giá nầy được. Thôi đừng làm hỏng việc của ta !

      Thì ra, Tổ Thiên Thu vì muốn "lấy điểm" với Thánh Cô Nhậm Doanh Doanh, nên mới cố ý tới đây để gạt cho Lệnh Hồ Sung uống tám viên "Tục Mệnh Bát Hoàn 續命八丸" mà mình đã lấy trộm của Lão Đầu Tử.

     Trước khi xuất hiện, Kim Dung đã cho Tổ Thiên Thu đứng trên bờ ngửi được mùi rượu ngon ở dưới thuyền và cất tiếng khen là "Rượu ngon Phần Tửu đã được cất giấu 62 năm rồi, khiến cho Lệnh Hồ Sung phải ngạc nhiên và mời ông ta xuống thuyền. 

    
    Sau nầy, khi gặp Tứ trang chủ của Mai Trang trong Giang Nam Tứ Hữu là Đan Thanh Sinh 丹青生 thì Lệnh Hồ Sung sau khi được Lục Trúc Ông và Tổ Thiên Thu chỉ điểm nay đã là "cao thủ" về ngửi rượu để nhận dạng rồi, nên khi thấy Đan Thanh Sinh đến gặp mình mà trên tay còn cầm ly Phỉ Thúy thì đã đọc ngay 2 câu thơ của Bạch Lạc Thiên mà Tổ Thiên Thu đã đọc cho mình nghe là : "Hồng tụ chức lăng khoa thị đế, Thanh kỳ cô tửu sấn lê hoa 紅袖織綾誇柿蒂,青旗沽酒趁梨花" và hỏi Đan Thanh Sinh là : Có phải ngài đang uống rượu Lê Hoa phải không ? Làm cho Đan Thanh Sinh vô cùng kinh ngạc và ôm chầm lấy Lệnh Hồ Sung kêu lên :" Nào, ông bạn tốt, ta sẽ cùng nhau uống cạn ba trăm ly nhé !

      Khi vừa bước vào phòng của Đan Thanh Sinh, thì mùi thơm của rượu đã ập vào mũi. Lệnh Hồ Sung bất giác khen :" Chà thơm qúa, mùi Phần tửu được cất nấu 2 lần, cộng với mùi Bách Thảo Tửu đã 75 năm hoà với mùi thơm của Hầu Nhi Tửu thật là tuyệt diệu". 

    Đan Thanh Sinh vỗ tay cười lớn :" Đúng là tuyệt diệu, bạn vừa bước vào phòng của ta thì đã nói ra 3 loại rượu qúy mà ta để trong phòng nầy ". Lệnh Hồ Sung thấy trong phòng bày la liệt khắp nơi nào là tĩn lớn hũ nhỏ, bình rượu chai rượu, hồ lô và ly uống rượu vung vãi khắp nơi... Chàng ta bèn phình mũi ra hít hít rồi nói rằng :"Không chỉ có ba loại rượu qúy đâu, còn có mùi của rượu ngon cực phẩm Nữ Nhi Hồng của Thiệu Hưng và đặc biệt là mùi rượu Bồ Đào của xứ Thổ Phồn ở Tây Vực đã qua bốn lần chưng cất !". 

    Đan Thanh Sinh vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ hỏi :" Rượu Bồ Đào bốn lần chưng cất của Thổ Phồn ta đựng trong thùng gỗ và cất ở dưới hầm, sao lão đệ lại biết được ?" Lệnh Hồ Sung mỉm cười đáp :"Loại rượu ngon nầy, cho dù cất dấu mấy trượng sâu dưới đất cũng không ngăn nổi mùi thơm của nó lan tỏa ra ngoài !"

     Đan Thanh Sinh nói cho Lệnh Hồ Sung biết rằng để có được thùng rượu Bồ Đào nầy, ông đã phải dùng 3 tuyệt chiêu kiếm pháp gia truyền để đổi về đó. Nay có bạn biết thưởng thức nên ông cho xuống hầm lấy lên và rót 3 chén để mời Lệnh Hồ Sung bình phẩm kèm theo một lời thách đố là : "Rượu đã được bao nhiêu năm tuổi rồi ?".

     Lệnh Hồ Sung lần lượt uống cạn ba ly rượu, nhắm mắt lại gụt gặt đầu một lúc mới lên tiếng :"Rượu nầy lạ thiệt, hương vị thì tuyệt vời khỏi phải nói rồi, nhưng nồng độ thì dường như vừa cũ vừa mới; Vừa tựa như rượu đã được cất ủ trên một trăm hai mươi năm rồi, lại vừa như chỉ mới khoảng độ mười hai mười ba năm mà thôi !". Làm cho Hướng Vấn Thiên đứng bên cạnh giật mình lo lắng :"Chuyến nầy thì tiêu rồi, một trăm hai mươi năm với mười hai mười ba năm cách nhau cả trăm năm lận !". Nào ngờ, Đan Thanh Sinh vuốt râu cười ha hả mà rằng :"Hảo huynh đệ, quả nhiên lợi hại ! Cái bí quyết làm cho rượu ngon là ở nơi đó đó!

    Tên kiếm khách Tây Vực Mạc Hoa Nhĩ Triệt sau khi học 3 chiêu kiếm gia truyền của ta, đã tặng cho ta mười hũ rượu Bồ Đào đã một trăm hai mươi năm và đã qua ba lần chưng cất. Ta đã theo cách hướng dẫn của ông ta tiến hành thêm một lần chưng cất nữa, đem mười hũ rượu chưng cất lại thành một thùng, tính đến nay cũng đã mười hai năm có hơn rồi, nên mùi rượu rất thơm ngon, khử hết vị chua và nồng độ tuyệt vời ở chỗ vừa mới vừa cũ, vừa như mới mười mấy năm hơn lại vừa như cả trăm năm qua rồi !"


    Đó là những khoa trương về tài thử rượu của Đại Hiệp KIM DUNG, hư cấu để gán cho những nhân vật trong truyện võ hiệp của mình. Đọc truyện trên làm cho ta nhớ lại những truyện cười về "Sành Rượu" và "Thử Rượu" của thời đại hiện nay. Mời tất cả cùng đọc lại cho vui...

                    SÀNH RƯỢU

     Trong một hãng rượu tại Napa Valley, California, một chuyên viên thử rượu vừa qua đời. Chủ hãng lo lắng đăng báo, kiếm người thay thế. Một anh chàng say rượu bí tỉ, quần áo rách rưới tới xin việc. Chủ hãng muốn tống cổ anh say rượu đi chỗ khác chơi, nhưng vẫn muốn thử tài anh ta xem sao. 

     Chủ hãng bèn ngoắt tay, và cô hầu bàn mang ra một ly rượu. Anh chàng say rượu cầm ly uống cạn, và nói :“Rượu vang đỏ loại Muscat, 3 tuổi, trồng ở miền Bắc của Napa Valley, chứa trong thùng thép!” “Đúng thế !”, Chủ hãng tuyên bố.

     Chủ Hãng lại ra hiệu cho cô hầu bàn mang ra một ly rượu khác. Anh chàng say rượu nâng ly lên, uống cạn, lè nhè nói :“Rượu vang đỏ, Cabernet, 8 năm, trồng tại phía Tây Nam của Napa Valley, chứa trong thùng gỗ Oak!”. Chủ hãng phục lăn! 

     Ông ta nháy mắt cho cô thư ký, ngầm ra hiệu. Cô thư ký bưng ra một ly nước tiểu. Gã say rượu mắt nhắm mắt mở, nâng ly uống cạn. Uống xong, gã lè nhè nói :“Tóc vàng, 26 tuổi, mang thai 3 tháng... Và nếu không cho tôi việc làm, thì tôi sẽ nói tọac tên... "bố đứa bé" ra cho mà xem !”

     Chủ Hãng và cô hầu bàn đều tõn tè, ngẩn ngơ !

Ta thấy...
         "HƯ CẤU" về "Tài uống rượu và sành rượu của anh chàng bơm nhậu ngày nay", còn hơn hẵn tài Hư Cấu của Đại Hiệp KIM DUNG trong tiểu thuyết võ hiệp của ông ta rất nhiều !

Đỗ Chiêu Đức - 杜紹德
                                                                                    

3/24/23

Trại tị nạn Pulau Bidong Terengganu, Malaysia



 Đảo Bidong Quần đảo Bidong bao gồm sáu hòn đảo. Là hòn đảo lớn nhất (rộng khoảng 260 ha), Bidong là một trong những hòn đảo đẹp và hoang sơ vào thời đó. Với số lượng thuyền nhân đổ bộ lên đảo rất đông, tháng 8 năm 1978, chính phủ liên bang đã “mượn” hòn đảo này từ chính quyền bang Terengganu và công bố Bidong là trại tị nạn. Bidong có diện tích 1 km vuông và nằm ngoài khơi biển của Terengganu, Malaysia ở Biển Đông. Đảo Bidong có thể đến được từ thị trấn ven biển Marang.









Vào tháng 5 năm 1975, chiếc thuyền đầu tiên với 47 người tị nạn đã đến Malaysia từ Việt Nam. Họ được gọi là “thuyền nhân.” Tuy nhiên, số lượng thuyền nhân chạy trốn khỏi Việt Nam tương đối ít cho đến năm 1978. Trại tị nạn chính thức được mở cửa vào ngày 8 tháng 8 năm 1978 với 121 người tị nạn Việt Nam. Sức chứa của trại được cho là 4.500. 

600 người tị nạn khác đã đến vào tháng 8 và sau đó việc tàu thuyền từ Việt Nam đến gần như là thường ngày. Đến tháng 1 năm 1979, có 18.000 người Việt Nam trên đảo và đến tháng 6 năm 1979, nó được cho là nơi đông dân cư nhất trên trái đất với khoảng 40.000 người tị nạn chen chúc trong một khu vực bằng phẳng chỉ rộng hơn một sân bóng đá.

Vào thời điểm Bidong bị đóng cửa như một trại tị nạn vào ngày 30 tháng 10 năm 1991, khoảng 250.000 người Việt Nam đã đi qua hoặc cư trú trong trại. Với việc đóng cửa trại, những người tị nạn còn lại được hồi hương trở lại Việt Nam. Những người tị nạn phản đối mạnh mẽ việc buộc phải hồi hương. Tổng cộng có 9.000 người Việt Nam đã được hồi hương từ năm 1991 đến ngày 28 tháng 8 năm 2005 khi những người tị nạn cuối cùng rời Malaysia đến Việt Nam. Năm 1999, hòn đảo được mở cửa cho du lịch. Nó đã lấy lại được vẻ đẹp nguyên sơ trước đây và nhiều người tị nạn trước đây đã thăm lại ngôi nhà cũ của họ.

Vào cuối những năm 70, Pulau Bidong cũng là nơi cư trú của người Campuchia, những người đã cố gắng trốn chạy chế độ Khmer Đỏ, những người Việt gốc Hoa, những người đã cố gắng trốn tránh Chính phủ Cộng sản Việt Nam.

Trại Bidong đã chính thức khép lại bằng một buổi lễ chia tay vào ngày 30 tháng 10 năm 1991. Đảo Bidong chính thức được trao trả lại cho chính quyền bang Terengganu, nhưng vẫn bị hạn chế cho công chúng tham quan cho đến năm 1999.

Source:
(CT Hùng chuyển)


3/23/23

OSINT là gì và tại sao nó lại quan trọng như vậy vào năm 2023?

Eric Mandel Sarit Zehavi Ngày 4 tháng Ba 2023 Biên dịch: GaD
Nguồn: Nghiên cứu lịch sử - Tháng Ba 20, 2023

Khi hầu hết mọi người nghe thấy từ tình báo trong bối cảnh chính trị, họ nghĩ ngay đến các nguồn bí mật, gián điệp và các cuộc họp bí mật. Các dịch vụ tình báo vẫn dựa vào tin tức nguồn con người (HUMINT) và thông tin bị chặn (SIGINT, signals intelligence)

Tuy nhiên, trong thế kỷ 21, tin tức nguồn mở (Open-Source INTelligence/OSINT) đã trở nên không thể thiếu để hiểu được kẻ thù của bạn và thường là nguồn thông tin tình báo có thể hành động chính và có giá trị nhất. Theo một bài viết chi tiết nêu bật sức mạnh của OSINT trên tờ Wall Street Journal, “80% những gì một tổng thống Mỹ hoặc chỉ huy quân sự cần biết đến từ OSINT.”

Vậy thì OSINT là gì và tại sao nó lại quan trọng như vậy vào năm 2023?

Tóm lại, OSINT là quá trình thu thập và phân tích thông tin cách tỉ mỉ từ nhiều nguồn mở cho quân đội, tình báo, cảnh sát và cộng đồng doanh nghiệp. Sự bùng nổ của phương tiện truyền thông xã hội – từ video thời gian thực đến blog, phòng trò chuyện đến Twitter và Facebook – đã tạo ra những cơ hội chưa từng có để hiểu sâu hơn về các lĩnh vực và con người nơi HUMINT và SIGINT không hiệu quả hoặc tốn quá nhiều chi phí trong khi giảm rủi ro cho tài sản trí tuệ con người. Ngoài ra, việc phân tích thông tin tình báo bí mật được thông báo và đôi khi thay đổi đáng kể bởi OSINT.

Như vậy, việc kết hợp OSINT, HUMINT, VISINT (trí thông minh trực quan) và SIGINT cho phép bộ máy an ninh quốc gia và ngoại giao của một quốc gia hành động phủ đầu để ngăn chặn các mối đe dọa, thông báo cho các đồng minh, đàm phán từ điểm mạnh và thách thức các tổ chức quốc tế và phi chính phủ. các tổ chức chính phủ với thông tin chính xác, đặc biệt là những người có mục đích thù địch.

Tầm quan trọng của OSINT ngày càng được công nhận, đặc biệt là trong giới tình báo Mỹ. Bài báo trên Wall Street Journal trích lời Robert Cardillo, một chuyên gia tình báo cấp cao, nhận xét rằng ông “không lo lắng về việc cộng đồng tình báo sẽ biến mất. Tôi lo lắng việc biến mất đó có vấn đề gì. Các nhà hoạch định chính sách của chính phủ có thể ít dựa vào các cuộc họp giao ban tình báo truyền thống và nhiều hơn nữa vào các sản phẩm nguồn mở, thường rẻ hơn và dễ truy cập hơn.” Hầu như để đối phó với thách thức này, các cựu chuyên gia tình báo cấp cao của Mỹ – bao gồm một giám đốc Cơ quan Tình báo Quốc phòng, một thiếu tướng quân đội đã nghỉ hưu, người chỉ huy Trung tâm Tình báo Quân đội, và cựu phó giám đốc tình báo sử dụng OSINT trong cộng đồng tình báo để trả lời các câu hỏi cho các nhà lãnh đạo quốc gia và các nhà hoạch định chính sách vì nhận thấy rằng tình báo Mỹ không mang lại cho nó sự nổi bật xứng đáng.”

Tầm quan trọng của OSINT cũng không bị mất đối với các đối thủ của Mỹ. Hãy xem xét Trung Quốc: theo William Hannas của Đại học Georgetown, Bắc Kinh có “ước tính 100.000 nhà phân tích tìm kiếm sự phát triển khoa học và kỹ thuật trên toàn cầu” thông qua các nguồn mở. Ngay cả trong những xã hội khép kín, sự phát triển theo cấp số nhân của mạng xã hội đã mang lại cho lực lượng đối lập những công cụ để chia sẻ thông tin với thế giới bên ngoài. Rốt cuộc, chính phe đối lập Iran là người đầu tiên tiết lộ chương trình hạt nhân tiên tiến của Iran.

Nhưng có lẽ trong lĩnh vực tư nhân, tác động của OSINT được cảm nhận rõ nhất, các công ty tình báo tư nhân có thể vượt qua các cơ quan tình báo chính phủ trong việc thu thập thông tin tình báo có thể hành động. Một đơn vị tình báo của Dow Chemical, chỉ sử dụng thông tin tình báo nguồn mở, đã dự đoán cuộc xâm lược Ukraina của Nga vào ngày 23 tháng Hai 2022: “Được thúc đẩy bởi cuộc chiến Ukraina, sự trỗi dậy của thông tin tình báo nguồn mở, bao gồm mọi thứ từ hình ảnh vệ tinh thương mại đến mạng xã hội. các bài đăng trên phương tiện truyền thông và cơ sở dữ liệu có thể mua được, đặt ra những thách thức mang tính cách mạng đối với CIA và các cơ quan gián điệp chị em, theo các cựu quan chức cấp cao đã dành nhiều thập kỷ làm việc trong các không gian được phân loại của các cơ quan đó.

Hãy xem xét một ví dụ về xu hướng này là nhóm chuyên gia nghiên cứu và giáo dục của Israel, Alma – mà một trong những tác giả của bài viết này là Giám đốc điều hành của nó. Tổ chức này nghiên cứu về Syria, Iraq và Iran trong khi hầu như dựa hoàn toàn vào OSINT. Báo cáo và phân tích của nó được sử dụng bởi các tổ chức truyền thông lớn, chính trị gia và cơ quan an ninh để có thông tin đáng tin cậy về các mối đe dọa do Hezbollah ở Lebanon và các ủy ban khác của Iran ở Syria và Iraq. Các báo cáo và phân tích đặc biệt của Alma đã khai thác thông tin về một loạt vấn đề, bao gồm việc truyền bá máy bay không người lái (UAV) của Iran từ châu Âu đến nam Florida, Ngành công nghiệp ma túy của Hezbollah ở Syria, sự cố thủ của Iran ở nam Damascus, sự hiện diện ngày càng tăng của Hamas ở Lebanon, việc Iran buôn lậu vũ khí vào các sân bay Beirut và Damascus, việc triển khai quân sự của Nga ở Syria, hoạt động gián điệp và khủng bố của Iran và Hezbollah ở Scandinavia, chi tiết về Iran hành lang vũ khí trên bộ, phân tích hệ thống phòng không của Syria và tài liệu về việc triển khai các UAV tiên tiến của Iran trên khắp Trung Đông. Hezbollah lo lắng về tính chính xác trong báo cáo của Alma đến mức họ đã đe dọa tổ chức này bằng cách đăng tọa độ GPS của họ như một lời cảnh báo.

Tuy nhiên, OSINT không phải là không có một số nhược điểm, điều này cần được ghi nhớ.

Thứ nhất, với khối lượng khổng lồ thông tin tình báo mã nguồn mở, các nhà phân tích chuyên nghiệp bằng cách nào đó phải tách lúa mì ra khỏi vỏ trấu. Phân tích các cuộc họp báo, trang web, tạp chí do chính phủ hỗ trợ, hình ảnh thương mại tư nhân từ vệ tinh, báo cáo kỹ thuật, cơ sở dữ liệu của công ty và chính phủ, quan sát trực tiếp, v.v., danh sách các nguồn OSINT là vô tận. Quá tải thông tin là một vấn đề tiềm ẩn phải được giải quyết. Trong quá khứ, mọi người có xu hướng tin rằng các nguồn bí mật tạo ra thông tin tình báo có giá trị nhất. Ngày nay, ngày càng rõ ràng rằng các nhà phân tích OSINT chuyên nghiệp và sáng tạo có thể vẽ nên một bức tranh tuyệt vời về thực tế – nhưng chỉ khi nào các nhà phân tích có thể cô đọng một lượng thông tin khổng lồ thành một sản phẩm tình báo có thể trình bày và tiếp cận được.

Tiếp theo là vấn đề do thông tin sai lệch gây ra. Các cộng đồng tình báo dựa vào nhiều nguồn thông tin tình báo hoàn chỉnh từ lâu đã phải đề phòng những điều như vậy và người ta tin rằng OSINT có thể gây nhiều thách thức hơn cho các nhà phân tích tình báo vì có thể có rủi ro lớn hơn về điều đó. Tuy nhiên, đồng thời, ngày nay cũng rõ ràng rằng mọi dạng thông tin tình báo, dù là nguồn mở hay bí mật, đều có thể bị “lây nhiễm” bởi thông tin sai lệch. Phán đoán phù hợp và đánh giá cẩn thận giờ đây quan trọng hơn trước.

Cuối cùng, thông tin mật bị rò rỉ lọt vào các nguồn mở là con dao hai lưỡi: trong khi thông tin đó có thể hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, những người đã bị cơ quan an ninh của họ cắt ra khỏi vòng mật, thì vấn đề là bây giờ kẻ thù của họ cũng biết.

Không ai biết tương lai của trí thông minh, nhưng đánh giá tầm quan trọng của OSINT, kết hợp với HUMINT và SIGINT, sẽ cho chúng ta cơ hội chiến đấu để thông báo cho các nhà lãnh đạo của chúng ta những thông tin tốt nhất để bảo vệ lợi ích và xã hội của chúng ta khỏi những kẻ muốn làm hại chúng ta.  

Tiến sĩ Eric Mandel là Giám đốc của MEPIN, Mạng Thông tin Chính trị Trung Đông, và tóm tắt các thành viên của Quốc hội và các chuyên gia chính sách đối ngoại của họ. Ông là Biên tập viên An ninh Cấp cao của Báo cáo Jerusalem và là người đóng góp thường xuyên cho Hill

Sarit Zehavi là Giám đốc điều hành của Trung tâm Nghiên cứu và Giáo dục Alma. Bà là trung tá (res.) trong Lực lượng Phòng vệ Israel và đã phục vụ 15 năm với tư cách là sĩ quan tình báo quân đội.



L'Oiseau Ne Reviendra Pas - Chim Ấy Không Trở Về

Sắp tới Tháng Tư, kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần.

 

Dạo:

      Mai này lấy lại quê hương,

Cánh chim tỵ nạn tha phương có còn?

 

I. Cóc cuối tuần Phú Lang Sa:

 

 L'Oiseau Ne Reviendra Pas

 

Sous le soleil d'été qui grille,

Le pêcher exalte ses fleurs.

Sur ses branches, l'oiseau sautille,

Souffrant ni peine ni douleur.

 

Vient l'automne avec son ciel sombre,

Dépouillant l'arbre de ses fleurs.

L'oiseau, contemplant sa fade ombre,

Prévoit l'arrivée du malheur.

 

Déployant son linceul de glace, 
L'hiver ira tout engouffrer. 

L'oiseau, ressentant la menace,

S'échappe vite à l'étranger.

 

Menant la vie d'un réfugié,

Il pleure sa patrie sans cesse.

Dès que tout espoir est dénié,

Il périt, crevé de tristesse.

 

L'arbre, quand revient le printemps,

Commence donc sa longue attente.

Hélas, comme s'enfuit le temps,

Aucun bon bruit ne se présente.  

 

L'arbre, noyé dans le délire,

Bafouille à l'oiseau, criant tout bas.  

Mais nul n'a le cœur de lui dire

Que l'oiseau ne reviendra pas.

            Trần Văn Lương

               Cali, 3/2023


 

 

II. Phỏng dịch thơ Việt:

 

  Chim Kia Không Trở Lại


Hạ đốt trời cao rực lửa hồng,

Cội đào khoe sắc trổ đầy bông.

Trên cành, cánh nhạn thong dong nhảy,

Chẳng mảy may lo lắng bận lòng.

 

Mùa thu đến nhuộm xám khung trời,

Ngàn cánh hoa tàn lả tả rơi,

Cánh nhạn rối bời nhìn bóng ngã,

Thầm hay kiếp nạn đã gần nơi.

 

Băng giá mùa đông chóng ập sang,

Mảnh vườn bị phá nát tan hoang.

Bàng hoàng thấy trước trò oan nghiệt,

Liều chết chim di tản vội vàng.

 

Mang thân tỵ nạn ở quê người,

Nhớ đến làng xưa, lệ thảm rơi.

Hy vọng một thời nay đã mất,

Xót xa chim nhắm mắt lìa đời.

 

May mắn mùa Xuân trở lại nhà,

Cây già đứng ngóng bạn trời xa.

Ngày qua vùn vụt như tên bắn,

Bóng nhạn năm nao vẫn nhạt nhòa.

 

Cây đà sớm lú lẫn u mê,

Lảm nhảm cùng chim, khóc tỉ tê.

Chẳng có ai từ bi nhắn hộ,

Cánh chim xưa đó sẽ không về.

            Trần Văn Lương

               Cali, 3/2023

 

 

III. Phỏng dịch thơ Anh văn: (iambic pentameter)

 

  The Bird Will Not Return

The summer sun is shining cheerfully,
The peach tree proudly shows his flowering.
From branch to branch the bird is scampering,
Ignoring pain and sorrow heartily.
 
Comes autumn with its somber firmament,
Removing all the flowers from the tree. 
The bird, whose shadow is too fade to see,
Knows that the tragedy is imminent.
 
The icy winter curtain slowly falls,
Creating misery, distress and fear.
The bird, perceiving that the threat is near,
Decides to scale the prison iron walls.
 
Subsisting as a lowly refugee,
He mourns his motherland incessantly.
As soon as all hope crumbles painfully,
He sadly dies to finally be free.
 
When luckily returns the ancient spring,

The old tree starts his long and gloomy wait.

Alas, as time is speeding up its gait, 
Expected news is never happening. 
 
The tree, as his dementia takes its turn,
Talks madly to the bird with tears in tow.
But no one has the heart to let him know
That his old friend, the bird, will not return.

               Trần Văn Lương

                  Cali, 3/2023

 

 

IV. Phỏng dịch thơ Tây Ban Nha: (endecasílabos)

 

      El pájaro no volverá

 

Calienta el sol alegre de verano,

Exhibe el árbol sus hermosas flores.

Salta en las ramas el pájaro sano,

Sin conocer desdicha ni dolores.

 

Viene el otoño sombrío y molesto,

Al árbol de sus flores despojando.

Comprende el pájaro que algo es funesto

Cuando contempla su sombra, llorando.

 

Su manto atroz de hielo desplegando,

Este prado, el invierno va a arrasar.

El pájaro, el desastre adivinando,

Al extranjero decide a fugar.

 

Subsiste como un triste refugiado,

Llorando sin cesar su patria muerta.

Y cuando toda esperanza ha acabado,

La fin del pájaro ya ha sido cierta.

 

La primavera previa al fin regresa,

El árbol luego commenza a esperar.

Pero a medida que el tiempo progresa,

La nueva buena se niega a llegar.

 

El árbol, ahogado en su demencia,

Piensa que con el ave está charlando.

Nadie intenta decirle, por clemencia,

Que el ave nunca estará retornando.

                   Trần Văn Lương

                      Cali, 3/2023

 

 

V.  Phỏng dịch thơ Latin: (dactylic hexameter) (*)

 

     Avis Non Revertetur

 

Clarissimo lucet æstatis calidus sol, 
Persicus elate flores pulchros gloriatur.
In ejus ramis volucris cum gaudio saltat,
Cognoscens neque miserias neque aegrimonias.
 
Autumnus secum cœla atra tristiaque fert, 
Pulchris floribus ejus arborem acerbe denudans.
Volucris mæstam suam umbram in humo spectans,  
Praevidet adventum calamitæ prope esse.
 
Paulatim frigidum hiemis stragulum teget hortum,
Creans damnum, difficultatem et miseriam.
Cuando volucris periculum accedere credit,
Celeriter fugit in aliam regionem.
 

Confugæ tristem vitam portat patienter,

Incessanter perditam patriam delamentans.
Cum omnes spes certo et denique finiuntur, 
Perit, corde repleto lucto et aegrimonia.
 
In fine a Deo ver redigitur ad regionem,
Persici exspectatio longa hinc initiatur.
Autem cum dies inlætabiles cito evolant,
Auditur fragmentum nuntii boni nullum.
 
Cum omnino descendat in dementiam arbor, 
Ad volucrem loquitur, lacrimas supprimare conans.
Sed nemo habet audentiam dicere ei
Quod nunquam revertetur avis illa emigrans.

                        Trần Văn Lương

                          Cali, 3/2023

 

(*) Ghi chú:

    Phân nhịp (scan) ra các pieds (dactyl: D, spondee: S)

như sau:

 

Clārīs|sīmō| lūcēt| ǣstā|tīs călĭ|dūs sol,        SSSSDS

Pērsĭcŭs| ēlā|tē flō|rēs pūl|chrōs glŏrĭ|ātur.     DSSSDS

Īn ē|jūs rā|mīs vŏlŭ|crīs cūm| gāudĭŏ| sāltat,     SSDSDS

Cōgnōs|cēns nĕquĕ| mīsĕrĭ|ās nĕquĕ|⁔ǣgrĭmŏ|nīs.   SDDDDS

 

Āutūm|nūs sē|cūm cœ̄|la‿ātrā| trīstĭă|quē fert,      SSSSDS

Pūlchrīs| flōrĭbŭs| ējūs| ārbŏrem‿ă|cērbĕ dĕ|nūdans.     SDSDDS

Vōlū|crīs mǣs|tām sŭăm|⁔ūmbrām|⁔īn hŭmŏ| spēctans,     SSDSDS

Prǣvĭdĕt| ādvēn|tūm cālā|mītǣ prŏ|pĕ⁔ēsse.     DSSSDS

 

Pāulā|tīm frī|gīdum‿hĭĕ|mīs străgŭ|lūm tĕgĕt| hōrtum,      SSDDDS

Crēāns| dāmnūm|, dīffī|cūltā|tem‿ēt mĭsĕ|rīam.      SSSSDS

Cūān|dō  vŏlŭ|crīs pĕrĭ|cūlum‿āc|cēdĕrĕ| crēdit,     SDDSDS

Cēlē|rītēr| fūgīt| īn  ălĭ|ām rĕgĭ|ōnem.      SSSDDS

 

Cōnfū|gǣ  trīs|tēm vī|tām pōr|tāt pătĭ|ēnter,      SSSSDS

Īncēs|sāntēr| pērdī|tām  pătrĭ|ām dĕlă|mēntans.      SSSDDS

Cūm⁔ōm|nēs spēs| cērto‿ēt| dēnī|quē fĭnĭ|ūntur,      SSSSDS

Pērīt|, cōrdĕ rĕ|plētō| lūctŏ⁔ĕt| ǣgrĭmŏ|nīa.       SDSDDS

 

Īn fīne|‿ā Dĕŏ| vēr rē|dīgĭtŭr| ād rĕgĭ|ōnem,       SDSDDS

Pērsī|ci‿ēxspēc|tātĭŏ| lōnga‿hīnc| īnĭtĭ|ātur.     SSDSDS

Āutēm| cūm dĭĕs| īnlǣ|tābī|lēs cĭto‿ĕ|vōlant,       SDSSDS

Āudī|tūr frāg|mēntūm| nūntī|ī bŏnĭ| nūllum.       SSSSDS

 

Cum‿ōmnī|nō dēs|cēndāt| īn dē|mēntĭăm|⁔ārbor,      SSSSDS

Ād vŏlŭ|crēm lŏquĭ|tūr, lăcrĭ|mās sūp|prīmărĕ| cōnans.      DDDSDS

Sēd nē|mō⁔hăbĕt| āudēn|tīām| dīcĕrĕ|⁔ēi          SDSSDS

Quōd nūn|quam rē|vērtē|tūr ăvĭs| īllă⁔ĕ|mīgrans.        SSSDDS

 

 

VI.  Phỏng dịch thơ Hán:

 
     

 

      ,
      .

      ,

      . 
 
      ,
      .
      影,
      .
 
      園,
      .
      .
      .
 
      生,
      .
      散,
      .
 
      歸,
      .
      過,
      .
 
      ,
      .
      ,
      .

              

 

 

Âm Hán Việt:

 

       Giá Điểu Bất Hồi

 


Thái dương thịnh hạ khảo cao không,

Thụ triển kỳ hoa, bạch dữ hồng.

Chi thượng tiểu quyên chung nhật vũ,

Bất kinh gian khổ, bất tri đông.

 

Thu đáo, đái lai ảm đạm thiên,

Bách hoa tận lạc, thị thùy khiên.

Điểu quan tha đích mô hồ ảnh,

Khoái thức bi thương tại diện tiền.

 

Đông lãnh mạc già cái quả viên,

Cấu thành vạn thống khổ truân chiên.

Nhãn tiền điểu kiến nguy cơ bức,

Nhất tức cập thời quốc ngoại thiên.

 

Nhẫn thụ nạn dân đích khổ sinh,

Khấp liên tổ quốc bất năng đình.

Như anh, hy vọng chung cùng tán,

Nhất đán, thê nhiên điểu nhập minh.

 

Hạnh hảo xuân quang cựu xứ quy,

Cô thân đẳng hữu, thụ kiên trì.

Hàm bi ai khán thời gian quá,

Tiêu tức tha phương, dã bất tri.

 

Thụ bản vi si chứng cửu tồi,

Chiêm đàm dữ điểu, giảo tàn hôi.

Một nhân hữu đảm bồi tha hiểu

Thiên điểu na niên vĩnh bất hồi.

           Trần Văn Lương

              Cali, 3/2023

 

Nghĩa:

 


         Chim Ấy Không Trở Về

Giữa hạ, vầng thái dương nướng nóng trời cao, 

Cây trưng bày hoa, trắng với đỏ.

Trên cành, con chim quyên nhỏ cả ngày nhảy múa,

Không trải qua gian khổ, không biết đến đau đớn.

 

(Nhưng) mùa thu đến mang theo bầu trời ảm đạm,

Trăm hoa rụng hết, lỗi tại ai.

(Chim) chợt nhìn thấy cái bóng mờ của mình,

(Bèn) chóng nhận biết nỗi buồn đau trước mặt.

 

Bức màn lạnh lẽo của mùa đông phủ kín vườn cây,

Gây nên vạn khốn khổ gian nan.

Con chim thấy nguy cơ ập đến trước mắt,

Tức khắc kịp thời di tản ra nước ngoài.

 

Kiên nhẫn chịu đựng gian khổ của đời tỵ nạn,

Khóc thương tổ quốc không thể ngừng.

Như bông tuyết, hy vọng cuối cùng tan biến,

Một ngày, con chim buồn bã đi vào cõi u minh.

 

May mắn ánh sáng mùa xuân lại về trên chốn cũ,

Cây kiên trì một mình (đứng) chờ bạn.

Ngậm buồn thương nhìn thời gian đi qua,

Tin tức từ phương xa, chẳng (nghe) biết gì cả.

 

Cây vốn bị bệnh mất trí tàn phá từ lâu,

Mê sảng nói chuyện với chim, (cùng) khuấy tro tàn.  

Không ai có can đản giúp nó biết được (rằng)

Con chim di cư năm ấy (sẽ) vĩnh viễn không trở về.