Showing posts with label Đỗ Chiêu Đức. Show all posts
Showing posts with label Đỗ Chiêu Đức. Show all posts

9/27/23

Tạp Ghi và Phiếm Luận : - TẾT TRUNG THU


TẾT TRUNG THU chữ Nho gọi là TRUNG THU TIẾT 中秋節. Một năm có 4 mùa, gọi là Tứ Qúy 四季, mỗi một qúy có 3 tháng, chia làm Mạnh, Trọng, Qúy 孟、仲、季 3 phần; nên theo Âm lịch, Tháng Bảy là Mạnh Thu 孟秋, tháng Tám là Trọng Thu 仲秋 và Tháng Chín là Qúy Thu 季秋. Tết Trung Thu nằm trong Tháng Tám nên còn gọi là Tiết Trọng Thu 仲秋節.

Tết Trung Thu năm nay nhằm ngày 29.09.2023.

TẾT TRUNG THU là ngày rằm (15) tháng Tám Âm lịch với tiết trời trong vắt, nên ta thấy trăng tròn, to và sáng hơn những tháng trước đó, vì thế nên dân gian còn gọi đêm rằm tháng Tám là NGUYỆT TịCH 月夕, có nghĩa là Đêm Trăng, vì mọi người cùng nhau ngắm trăng nên còn gọi là Tiết NGOẠN NGUYỆT 玩月, và vì dân gian có tục lệ cúng trăng nên lại có tên là Tiết BÁI NGUYỆT 拜月, nhất là các cô gái đương xuân mới lớn, lòng xuân phơi phới bái nguyệt để gởi gắm những ước nguyện trong lòng, nổi tiếng nhất trong lịch sử cổ xưa là Điêu Thuyền Bái Nguyệt 貂嬋拜月. Nên ngày rằm tháng Tám còn được gọi là ngày NỮ NHI TIẾT 女兒節, là ngày lễ hội của các cô gái mới lớn.

Môt trong những khúc hát nổi tiếng ở các giáo phường của đời Đường là Bái Tân Nguyệt 拜新月, có nghĩa là "Lạy mừng trăng mới", có nguồn gốc xa xưa từ đời Tần Hán, mãi cho đến đời Đường mới thịnh hành tục lệ cúng trăng nầy. Gọi là cúng vầng trăng mới, chứ thực ra chỉ có ngày Thất Tịch, mùng bảy tháng bảy âm lịch là trăng mới thôi, còn thì đa số các bà các cô cúng trăng vào ngày Trung Thu rằm tháng tám. Cúng để ước nguyện gặp được người chồng tốt, hay gia đạo bình an hạnh phúc, nhất là luôn luôn được đoàn viên sum họp một nhà, như khi nàng cung nữ của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều được tuyển vào cung đã mơ ước cùng nhà vua :

Mượn điều Thất Tịch mà thề bách niên !

Còn các cô gái đương xuân với lòng xuân phơi phới thì bái lạy vầng trăng bất cứ lúc nào để ước ao và để gởi trao tâm nguyện, như bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt rất nổi tiếng của Lý Đoan (李端) đời Đường sau đây :

開簾見新月, Khai liêm kiến tân nguyệt,
即便下階拜。 Tức tiện hạ giai bái.
細語人不聞, Tế ngữ nhân bất văn,
北風吹裙帶。 Bắc phong xuy quần đái.


Có nghĩa :
Vén rèm ra thấy vầng trăng mới, nàng bèn bước ngay xuống thềm mà vái lạy. Lầm rầm khấn khứa nhỏ to không ai nghe biết được gì, chỉ thấy dải lụa đào thắt lưng phất phơ trước làn gió bấc mà thôi !

Dịch thơ:
Cuốn rèm thấy ánh trăng trong,
Xuống thềm qùy lạy lầm rầm ước ao.
Khấn chi ai biết được nào...
Bắc phong phe phẩy lụa đào phất phơ !

Trăng rằm Trung Thu còn là một khối Đoàn Viên 團圓, ĐOÀN là Khối tròn, VIÊN là Tròn trịa không sứt mẻ. Nên ĐOÀN VIÊN là một khối tròn đầy đặn hoàn hảo. Gia Đình Đoàn Viên 家庭團圓 là tất cả những thành viên trong gia đình đều về hội tụ đầy đủ không thiếu ai cả. Nên TẾT TRUNG THU còn được gọi là ngày TẾT ĐOÀN VIÊN 團圓節. Người du tử ngày xưa lang bạt giang hồ, hay những thương nhân buôn bán phương xa... nhưng đến Tiết Trung Thu cũng phải rán cố gắng quay về để gia đình được đoàn viên mà cùng ngắm trăng tròn đón Tết. Những ai không về được nhà thì ngắm trăng Trung Thu cũng nhớ về quê nhà, như Thi Tiên Lý Bạch đã viết trong bài Tĩnh Dạ Tư 靜夜思 :

床前明月光, Sàng tiền minh nguyệt quang,
疑是地上霜。 Nghi thị địa thượng sương.
舉頭望明月, Cử đầu vọng minh nguyuệt,
低頭思故鄉。 Đê đầu tư cố hương !

Có nghĩa :
Trước đầu giường nhìn ánh trăng sáng bàng bạc khắp nơi, cứ ngỡ như là sương gieo đầy mặt đất. Ngẩn đầu lên nhìn vầng trăng sáng tròn trịa, nên cúi đầu xuống lại nhớ đến cố hương ! Nhớ đến gia đình không thể về được để đoàn viên như vầng trăng đầy đặn.

Dịch thơ:
Trước giường nhìn trăng sáng,
Ngỡ sương gieo khắp nơi,
Ngẩn trông trăng đầy đặn,
Nhớ quê dạ bời bời !

Còn Thi Thánh Đỗ Phủ trong bài Nguyệt Dạ Ức Xá Đệ 月夜憶舍弟 (Đêm trăng nhớ về em trai) nổi tiếng với 2 câu thơ bất hủ là :

露從今夜白, Lộ tòng kim dạ bạch,
月是故鄉明。 Nguyệt thị cố hương minh.

Có nghĩa :
Đêm nay sương trắng từ đây,
Quê nhà trăng mới sáng đầy khắp nơi !

Từ nay sương thu trắng sẽ phủ khắp nơi, nhưng chỉ có vầng trăng ở quê nhà là sáng nhất mà thôi ! Cũng cùng một ánh trăng, nhưng trong mắt kẻ tha hương vầng trăng của xứ người vẫn lạnh lẽo cô đơn và luôn gợi nhớ đến vầng trăng ấm áp vui tươi ở quê nhà. 

Nhất là những người yêu nhau càng nhớ nhau lắm trong những đêm trăng. Như trong bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn 望月懷, ngắm trăng mà nhớ về nơi xa của Trương Cửu Linh 張九齡 thi nhân đời Đường với 4 câu đầu như sau :

海上生明月, Hài thượng sanh minh nguyệt,
天涯共此時。 Thiên nhai cộng thử thời.
情人怨遥夜, Tình nhân oán diêu dạ,
竟夕起相思。 Cánh tịch khởi tương tư...

Có nghĩa :
Trăng lên trên biển khơi,
Cùng lúc khắp chân trời.
Người yêu xa vắng quá,
Đêm thương nhớ khôn nguôi !......

Từ xưa đến nay, vầng trăng Trung Thu cũng gợi nên biết bao ý thu cho thi nhân, hãy đọc bài thơ "Thập Ngũ Dạ Vọng Nguyệt Ký Đỗ Lang Trung 十五夜望月寄杜郎中 của Vương Kiến 王建 sau đây sẽ rõ :


中庭地白樹棲鴉, Trung đình địa bạch thụ thê nha,
冷露無聲濕桂花. Lãnh lộ vô thanh thấp quế hoa.
今夜月明人盡望, Kim dạ nguyệt minh nhân tẫn vọng,
不知秋思落誰家. Bất tri thu tứ lạc thuỳ gia ?!

Có nghĩa :
Trong sân sáng trắng qụa nương cây,
Lặng lẽ sương sa hoa quế lay.
Trăng sáng đêm nay ai chẳng ngắm,
"Ý thu" ai biết ... lạc nhà ai ?!

Càng thi vị hóa ánh trăng hơn với bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt "Ức Đông Sơn 憶東山" của Thi Tiên Lý Bạch :

不向東山久, Bất hướng Đông Sơn cửu,
薔薇幾度花。 Tường vi kỷ độ hoa.
白雲還自散, Bạch vân hoàn tự tán,
明月落誰家。 Minh nguyệt lạc thùy gia ?!

Có nghĩa :
Đông Sơn lâu qúa không qua,
Tường vi mấy độ hoa đà phôi phai.
Ngẩn ngơ mây trắng còn bay...
Trăng vàng rụng xuống nhà ai đêm này ?!


Vầng trăng, ánh trăng, bóng trăng... trong văn học và cả trong dân gian cũng có rất nhiều tên để gọi. TRĂNG chữ Nho là NGUYỆT 月, theo thần thoại Trung Hoa trong mặt trăng có cây quế, nên còn gọi trăng là Vầng NGUYỆT QUẾ 月桂, và vì trong trăng còn có những vùng tranh tối tranh sáng, nên lại gọi là QUẾ PHÁCH 桂魄, như 2 câu đầu trong bài thơ Thu Dạ Khúc 秋夜曲 của Vương Nhai 王涯 đời Đường là :

桂魄初生秋露微, QUẾ PHÁCH sơ sanh thu lộ vi,
輕羅已薄未更衣。 Khinh la dĩ bạc vị canh y.

Có nghĩa :
TRĂNG vừa mới mọc sương thu nhẹ,
Mỏng mảnh áo là chửa kịp thay.

Ngoài QUẾ PHÁCH, trăng còn được gọi là QUẾ CUNG 桂宫 mà thi sĩ Tản Đà nhà ta đã gọi là CUNG QUẾ trong bài thơ "Muốn Làm Thằng Cuội":

Đêm thu buồn lắm! CHỊ HẰNG ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
CUNG QUẾ đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều tả nàng cung nữ thất sủng trong cung với tâm trạng :

Trong CUNG QUẾ âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần...

CHỊ HẰNG tức Hằng Nga, người Hoa ít khi gọi bằng HẰNG NGA 姮娥, mà thường gọi Chị Hằng là THƯỜNG NGA 嫦娥. Như trong bài thơ "Thường Nga 嫦娥" của Lý Thương Ẩn trong buổi tàn Đường :

雲母屏風燭影深, Vân Mẫu bình phong chúc ảnh thâm,
長河漸落曉星沉. Trường hà tiệm lạc hiểu tinh trầm.
嫦娥應悔偷靈藥, THƯỜNG NGA ưng hối thâu linh dược,
碧海青天夜夜心. Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm !








Có nghĩa :
Bình phong Vân mẫu nến lay thềm,
Sao rụng Ngân hà trở sáng thêm.
Trộm thuốc HẰNG NGA chừng tiếc nuối,
Trời xanh biển biếc hận đêm đêm !

Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du gọi Trăng là GƯƠNG NGA, BÓNG NGA. Trong buổi đầu khi Kim Kiều gặp gỡ; lúc trở về nhà, đêm đó khi :

GƯƠNG NGA chênh chếch vòm sông,
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.
Hải đường lã ngọn đông lân,
Giọt sương trĩu nặng cành xuân la đà...
thì Thúy Kiều đã :
Một mình lặng ngắm BÓNG NGA,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời !...

Theo thần thoại Trung Hoa, Thường Nga hay Hằng Nga là vợ của anh hùng xạ nhựt Hậu Nghệ 后羿, người đã bắn rơi chín cái mặt trời là chín con qụa lửa thiêu đốt nhân gian, nên được bà Tây Vưong Mẫu tặng cho viên thuốc trường sinh bất tử. Hằng Nga đã lén trộm thuốc của chồng uống vào, nên thân hình nhẹ nhõm bay lên và bay tuốt... vào cung trăng lạnh lẽo, rồi trở thành chủ nhân của cung Quảng Hàn và con Thỏ Ngọc giả thuốc trường sinh. Vì tích nầy mà mặt trăng còn được gọi là QUẢNG HÀN CUNG 廣寒宫 hay CUNG QUẢNG, như khi Thúy Kiều nhớ Thúc Sinh lúc chàng về thăm Hoạn Thư :

Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như CUNG QUẢNG Ả HẰNG nghĩ nao !
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa Vành Trăng khuyết, ba sao giữa trời !


Vì có con Thỏ Ngọc giã thuốc trong trăng, nên mặt trăng còn được gọi là NGỌC THỐ 玉兔. Khi Vương Quan kể lể về thân thế của ca nhi Đạm Tiên đã kết bằng 2 câu :

Trãi bao THỎ LẶN ÁC TÀ,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm !

THỎ LẶN là Trăng lặn, ÁC TÀ là Mặt Trời chiều; Trăng lặn là hết đêm, Mặt Trời về chiều là hết ngày. Nên THỎ LẶN ÁC TÀ chỉ ngày tháng qua đi. "Trãi bao THỎ LẶN ÁC TÀ," là biết bao là ngày tháng đã qua đi !

Cũng theo thần thoại Trung Hoa, trong cung trăng lại có con Thiềm Thừ 蟾蜍 (con cóc) ba chân; vì các hố thiên thạch trên bề mặt mặt trăng trông giống như các hoa văn trên lưng con Thiềm Thừ; Lại có tích cho rằng vì Hằng Nga trộm thuốc bay lên cung trăng nên mới bị trời phạt biến thành con Thiềm Thừ tinh. Vì thế người Hoa còn gọi Cung Trăng là THIỀM CUNG 蟾宫. Trong bài thơ Ức Giang Thượng Ngô Xử Sĩ 憶江上吳處士của Thi Nô Giả Đảo 賈島 có câu :

閩國揚帆去, Mân quốc dương phàm khứ,
蟾蜍虧復圓。 THIỀM THỪ khuy phục viên.

Có nghĩa :
Mân Nam giương buồm tách bến,
THIỀM THỪ đang khuyết đã tròn.

Còn trong truyện Nôm khuyết danh Trinh Thử của ta cũng có câu :

THIỀM CUNG bóng đã tà tà,
Khuyên rằng mau trở lại nhà với con.

Trong cung trăng còn có một nhân vật nam là Ngô Cương 吴剛, vốn là lính gác Nam Thiên môn, tình cờ gặp được Hằng Nga qúa đẹp, nên ở lại cung trăng chơi một ngày, bị Ngọc Đế phạt phải đốn cây Quế trong cung Quảng Hàn. Tương truyền hễ Ngô Cương ban cành quế cho ai thì người đó sẽ thi đỗ Trạng Nguyên, vì thế mà hình thành thành ngữ THIỀM CUNG CHIẾT QUẾ 蟾宫折桂. Có nghĩa là "Bẻ Quế Cung Thiềm" để chỉ những người thi đậu. Trong truyện Nôm khuyết danh Phạm Tải Ngọc Hoa của ta cũng có câu :

Những mong BẺ QUẾ nên danh,
Mà đền công dưỡng sinh thành hai thân.

Qua đến Việt Nam ta thì Ngô Cương thành Chú Cuội, và Cành Quế thành Cành Đa. Cũng trong bài thơ "Muốn Làm Thằng Cuội" của Tản Đà cũng có câu :

CUNG QUẾ đã ai ngồi đó chửa ?
CÀNH ĐA xin chị nhắt lên chơi !

Tục lệ cúng trăng đã có từ xa xưa, nhưng đến đời Tùy, Đường mới thật sự thịnh hành các lễ ngoạn nguyệt, thưởng nguyệt, bái nguyệt; và đến đời Nam Bắc Tống thì tất cả nam phụ lão ấu, giàu nghèo qúy tiện gì đều cúng trăng vào đêm rằm tháng tám, cầu cho gia đạo bình an, đoàn viên hạnh phúc. Vật cúng thường là các loại qua qủa 瓜果 là dưa trái có hình tròn, như bưởi bồng, thị (trái hồng), dưa hấu, khoai môn được xắt thành từng khoanh tròn, bánh in bánh đậu xanh, bánh được làm bằng các loại mứt, loại hạt... có hình tròn gọi là BÁNH TRUNG THU tượng trưng cho trăng tròn và cũng là niềm mơ ước cho gia đình cũng mãi mãi được đoàn viên hạnh phúc. Đến đời Minh, Thanh thì các tục lệ đón Tết Trung Thu càng đa dạng hơn với các hoa đăng đủ loại, múa lân múa rồng, thả đèn trời để cầu an...

TẾT TRUNG THU qua đến Việt Nam ta thì lại diễn tiến thành TẾT NHI ĐỒNG với các lồng đèn đủ loại... Người lớn thì cũng mừng trăng cúng trăng và thưởng thức Bánh Trung Thu, nhưng trẻ em thì lại vui mừng hơn vì được dịp rước đèn như lời hát...

TẾT TRUNG THU đốt đèn đi chơi,
Em đốt đèn đi khắp phố phường...


Trước mắt, người Châu Á chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở rải rác khắp các châu lục; nhất là sau 1975, người Việt Nam ta cũng hiện diện khắp nơi trên thế giới. Tuy định cư ở nước ngoài, nhưng cứ mỗi lần Trung Thu ngắm cảnh trăng tròn thì lại nhớ đến chốn cũ quê xưa, nhớ về làng xưa người cũ... rồi cũng phải đành âm thầm ngâm hai câu thơ của Tô Đông Pha trong Thủy Điệu Ca Đầu 水調歌頭 để cùng an ủi nhau :

但願人長久, Đản nguyện nhân trường cửu,
千里共嬋娟。 Thiên lý cộng THUYỀN QUYÊN.*

Có nghĩa :
Những mong người mãi trường tồn,
Cùng chung ngàn dặm trăng tròn một thôi !


Chỉ cần còn sống để ngắm trăng, thì tuy có cách trở xa xôi ngoài ngàn dặm, ta cũng nên cảm thấy yên ủy vì cũng cùng ngắm chung một vầng trăng nầy mà thôi !

Cầu mong cho tất cả mọi người đều có được một cái TẾT TRUNG THU sum vầy vui vẻ, ĐOÀN VIÊN như ánh trăng rằm tháng Tám vằng vặc mãi trên không.

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức




* THUYỀN QUYÊN 嬋娟 : là từ chỉ các cô gái có thân hình yểu điệu đẹp đẽ; ở đây Tô Đông Pha mượn để chỉ vầng trăng tròn, sáng và đẹp của đêm Trung Thu. Bài từ "Thủy Điệu Ca Đầu 水調歌頭" của Tô Đông Pha 蘇東坡 đã được nhạc sĩ Lương Hoằng Chí 梁弘志 phổ nhạc và danh ca Đài Loan Đặng Lệ Quân 鄧麗君 hát. Mời tất cả cùng thưởng thức ... 鄧麗君 《但願人長久》 ~ 千里共嬋娟 ♥ Teresa Teng

4/23/23

Tạp ghi và Phiếm luận : HỎA là LỬA

        
Theo Phật giáo, cơ thể con người là do Tứ Đại : Phong Thủy Hỏa Thổ, tức là Đất Nước Gió Lửa kết hợp lại mà thành, nên bản thân con người đã có một phần tư là lửa ở trong đó rồi, ngọn lửa đó cứ âm ỉ mãi trong ngũ tạng lục phủ tạo nên sự ham muốn mãnh liệt mà ta gọi là Lửa Dục Vọng. Trong văn chương Phật giáo thì gọi nhẹ nhàng hơn : Lửa Lòng. Như cụ Nguyễn Du đã diễn tả tâm trạng của Thúy Kiều khi tu ở Quan Âm Các :

Cho hay giọt nước cành dương
LỬA LÒNG tưới tắt mọi đường trần duyên …

và như lời của Thúy Kiều đã phân bua với Vương Viên Ngoại khi ông muốn nàng từ giả sư Giác Duyên để theo mọi người về nhà đoàn tụ :

Sự đời đã tắt LỬA LÒNG,
Còn chen vào chốn bụi hồng mà chi ?!

" Tắt Lửa Lòng " còn là một tiểu thuyết tình cảm lãng mạn nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Công Hoan, được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1933. Tác phẩm này nhanh chóng trở nên phổ biến, và được rất nhiều người chuyển thể thành các vở kịch nói, phổ nhạc... trong số đó phải kể đến Soạn giả Trần Hữu Trang đã biên kịch lại và chuyển thể thành vở cải lương năm 1936 với tên của 2 nhân vật đi vào huyền thoại kịch nghệ Việt Nam là "Lan và Điệp". Chuyện tình "Lan và Điệp" của Việt Nam ta có thể sánh ngang với chuyện tình " Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài " của Trung Hoa xưa, và còn có phần vượt trội hơn về mặt bình dân, được phổ biến rộng rãi trong mọi tầng lớp quần chúng nhân dân. Nhớ khi xưa, yêu một cô bạn cùng trường, tôi cũng lấy chuyện tình Lan và Điệp để làm ví dụ :

Anh với em như Điệp với Lan,
Thanh mai trúc mã đẹp muôn vàn.
Vỏ vẻ thơ Đường anh đọc thấy,
Chuyện mình sao giống khúc Trường Can...

Chả trách mối tình đầu học sinh tan vỡ theo khói mây như bao mối tình đầu khác


Trong Cung Oán Ngâm Khúc Nguyễn Gia Thiều cũng đã gọi ngọn lửa âm ỉ đốt trong lòng người cung nữ là Tâm Hỏa với các câu :

Ngọn TÂM HỎA đốt dàu nét liễu,
Giọt hồng băng thấm ráo làn son.
Lại buồn đến cảnh con con,
Trà chuyên nước nhất, hương đùn khói đôi !

Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du cũng mượn chữ Tâm Hỏa nói thành "Lửa Tâm" để tả ngọn lửa ghen tuông trong lòng của Hoạn Thư là:

LỬA TÂM càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa.
Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên !

Hỏa là Lửa,  là chữ Tượng Hình của một trong 214 bộ của "Chữ Nho... Dễ Học", theo diễn tiến của chữ viết như sau :
 
               

                  
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn là hình tượng của một ngọn lửa được vẽ cách điệu để tượng trưng cho lửa, qua Đại Triện, Tiểu Triện dần dần diễn tiến thành chữ viết, cho đến Chữ Lệ thì đã định hình giống như chữ viết hiện nay HỎA 火 là LỬA. Có tất cả 407 chữ được ghép bởi bộ Hỏa nầy để chỉ những gì có liên quan tới Lửa như đèn đóm đuốc nến, nóng nực sáng sủa, nấu nướng chiên xào ... đều thuộc bộ Hỏa cả, Cho thấy là Lửa quan trọng biết bao trong đời sống của chúng ta.

Lửa cháy đỏ rực, hừng hực với ngọn lửa đỏ bốc cao là Dương Hỏa, còn lửa cháy âm ỉ với ngọn lửa xanh dịu dàng chập choạng là Âm Hỏa. Nhưng dù âm dù dương thì lửa vẫn cho ánh sáng và sức nóng có thể thiêu đốt hoặc làm thay đổi hình dạng của những vật chất khác, kể cả Vàng cũng bị chảy thành chất lỏng, mặc dù ông bà ta nói "Vàng thật không sợ lửa", cũng là để chỉ màu sắc của vàng không hề bị suy suyển mà thôi.

Theo Tử Vi đẩu số thì có 6 hình thức lửa, đó là : Thiên Thượng Hỏa 天上火 là Lửa trên trời là Lửa của Mặt Trời, Tích Lịch Hỏa 霹靂火 là Lửa Sấm sét là Lửa của điện chớp, Sơn Đầu Hỏa 山頭火 là Lửa đầu núi là Núi lửa, Sơn Hạ Hỏa 山下火 là Lửa dưới núi là Lửa cháy rừng, Lô Trung Hỏa 爐中火 là Lửa trong lò là Lửa nấu ăn và Phúc Đăng Hỏa 覆燈火 là Lửa của cây đèn dầu là Lửa dùng để thắp sáng. Nên được chia làm hai nhóm :
* Thiên Thượng Hỏa 天上火, Tích Lịch Hỏa 霹靂火, Sơn Đầu Hỏa 山頭火 thì không kỵ thủy, không sợ nước, có nước lại càng nổ lớn cháy lớn hơn.
* Sơn Hạ Hỏa 山下火, Lô Trung Hỏa 爐中火, Phúc Đăng Hỏa 覆燈火 thì gặp nước, gặp mưa đổ xuống là tắt queo ngay !

Theo thần thọai xưa thì Lửa có 2 nguồn gốc như sau :

* Toại Nhân 燧人, hay Toại Nhân thị 燧人氏, là người sáng tạo ra lửa trong Thần thoại Trung Hoa cổ đại, có thuyết xưng ông là một trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Theo Cao Đài từ điển, Toại là khoan gỗ lấy lửa, còn Nhân là người.
Theo Sách Hàn Phi tử - Ngũ Đố chép rằng: " Thời thượng cổ, dân ăn quả, củ, thịt sống nên bị đau bụng, bệnh tật rất nhiều. Có thánh nhân bổ củi để lấy lửa nấu chín thức ăn, dân ca ngợi tôn làm vua trong thiên hạ, hiệu là Toại Nhân Thị ". Nhờ có Toại Nhân, loài người có lửa, không còn đứng ngang hàng với cầm thú như trước nữa.

* Chúc Dung 祝融, vốn tên là Trọng Lê 重黎, sáng tạo ra cách nấu qua vật cách nhiệt như : nồi đất, ấm đất, niêu đất; khiến món ăn có mùi vị và thơm ngon hơn, ông lại nghiên cứu ra các chất để khi cần là có lửa ngay mà khỏi phải dùi cây hay mài đá nữa. Ví dụ như ông ép dầu lạc (dầu phọng) tích trữ làm chất cháy, hoặc chế ra ngọn đuốc để có thể giữ lửa và di chuyển được trong bóng tối. Ông giữ chức Hỏa Chính cai quản về việc chế tạo và sản xuất lửa trong thiên hạ với danh hiệu là Chúc Dung 祝融, được dân gian truyền tụng như là một ông Thần Lửa sau Toại Nhân.

Từ sau khi La Quán Trung viết quyển Tam Quốc Chí có nhân vật Chúc Dung Phu Nhân là vợ của Man Vương Mạnh Hoạch, thì lại có thuyết cho thần lửa Chúc Dung là phái nữ, và có lẽ vì thế mà ta có từ "Bà Hỏa" để chỉ người chuyên chăm lo về lửa củi hỏa hoạn chăng ?! Sau PHONG DI là "Dì Gió", ta còn có CHÚC DUNG là "Bà Hỏa" nữa, cho thấy từ ngàn xưa Phái Nữ đã không phải là phái yếu đuối tầm thường !

Theo Dịch Lý Bát Quái về âm dương ngũ hành thì NAM PHƯƠNG BÍNH ĐINH HỎA. Bính là Dương hỏa, Đinh là Âm hỏa và đều thuộc Phương Nam, ăn với mùa hè là mùa nóng nực nhất trong năm, mùa của "Lựu phun lửa hạ..." thích hợp với các loài hoa màu đỏ rực như Hoa Phượng, Hoa Đỗ quyên, hoa Thạch lựu... và như cụ Nguyễn Du đã chuyển mùa trong Truyện Kiều khi ông cho cô Kiều đi tắm :

Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường LỬA LỰU LẶP LÒE đâm bông.
Buồng the phải buổi thong dong,
Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa.

Hỏa là lửa, lửa chẳng những mang lại sự ấm áp, mang lại ánh sáng cho con người, mà còn đưa con người ra khỏi cảnh sống hoang sơ ăn lông ở lổ lúc ban đầu nữa. Lửa còn mang lại những niềm vui, hạnh phúc cho con người khi trời đông gía rét mà được quây quần bên bếp lửa hồng ấm cúng của gia đình như lời ca trong bài "Về Dưới Mái Nhà" của Y Vân và Xuân Tiên :

“...Người ơi, mau về đây,
về bên bếp hồng tay cầm tay...
Cười lên chan chứa tươi làn môi ...
nhớ phút vui đêm nay !
và...
...Nhà ai trong chiều nay
Lửa đêm đốt hồng vai kề vai
Và nghe câu hát yêu đời ai
Hát mãi sao không nguôi...”

... và cái " bếp hồng " ấm áp hạnh phúc kia theo mãi trong tâm thức của những con người tha phương cầu thực như chúng ta mãi mãi cho đến trọn đời :

Ơi,... nỗi lòng chan chứa,
Hỡi người ơi ... biết sao cho vừa... tình thương... của bếp hồng soi !
và bâng khuâng ray rức thiết tha hơn với ...

...Chiều nay mưa còn rơi
Chiều nay bếp hồng đang còn say
Chiều nay vui sống trong tình yêu.
Nhớ phút vui không nguôi.

Nào ai xa ngàn nơi.
Kìa bao mái nhà đang chờ ai
Kìa bao bếp hồng đang còn tươi
Thương nhớ lên đầy vơi...”

Ôi, qủa là những lời ca ray rức, não nuột làm xúc động lòng người xa xứ !... Bài hát " Về Dưới Mái Nhà " đã ăn sâu vào tâm thức của tôi khi tôi vừa mới lớn, khoảng cuối thập niên năm mươi của Thế Kỷ trước, lúc Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới về nước chấp chánh, nên... đến bây giờ định cư trên đất Mỹ nầy, lời của bài hát càng âm ỉ râm rang hơn làm ray rức mãi lòng người viễn xứ như tôi, nhất là vào những ngày cận Tết với trời đông giá lạnh.....

Trong thi ca cổ cũng vẽ nên một bức tranh ấm áp của những người bạn xa quê tìm đến với nhau trong những đêm xuân cận Tết với các nét chấm phá thật nên thơ như trong bài Hàn Dạ 寒夜 (đêm lạnh) của Đỗ Tiểu Sơn 杜小山 đời Tống :

寒夜客來茶當酒, Hàn dạ khách lai trà đương tửu,
竹爐湯沸火初紅。 Trúc lô thang phất hỏa sơ hồng.
尋常一樣窗前月, Tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt,
才有梅花便不同。 Tài hữu mai hoa tiện bất đồng.
Có nghĩa :
Đêm đông bạn đến rượu thay trà,
Quanh bếp than hồng nước mới pha.
Bên cửa thường ngày trăng vẫn chiếu,
Thêm cành mai nữa, nhớ quê xa !...


Hỏa là Lửa, ngoài nghĩa Bếp Lửa ra, Hoả còn có nghĩa là Đèn Đóm, đèn đuốc thắp lên ban đêm để vui chơi trong cung như nàng cung nữ thất sủng nhìn về nơi có ánh đèn lửa tiệc tùng mà tủi thân tủi phận :

火照西宮知夜飲, Hỏa chiếu Tây cung tri dạ ẩm
分明復道奉恩時。 Phân minh phúc đạo phụng ân thì.
( Tây Cung Thu Oán )
Có nghĩa :
Lửa chiếu Tây cung đang dạ tiệc,
Rõ ràng nơi đó hưởng ơn vua !

...và buồn như nàng cung nữ trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu :

Hóa công sao khéo trêu ngươi,
Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh.

... cũng là đèn lửa nhưng buồn vui có khác, và không chỉ có buồn vui, có những ánh đèn còn rất nên thơ, như đèn của lửa chài trong Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế :


江楓漁火對愁眠 Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

mà cụ Tản Đà đã diễn Nôm rất nên thơ là :

Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ...

... hay như hai ba đóm lửa lặp lòe của một bến đò xa xa trong đêm tối trong bài Đề Kim Lăng Độ của Trương Hỗ 張祜 đời Đường :

金陵津渡小山樓, Kim Lăng tân độ tiểu sơn lâu,
一宿行人自可愁。 Nhất túc hành nhân tự khả sầu.
潮落夜江斜月裡, Triều lạc dạ giang tà nguyệt lý
兩三星火是瓜州。 Lưỡng tam tinh hỏa thị Qua Châu
Có nghĩa :
Kim Lăng bến nước cạnh đồi cao,
Lữ khách qua đêm tự cảm sầu.
Triều xuống trăng mờ chênh chếch chiếu,
Lặp lòe đóm lửa ấy Qua Châu !

Trong cảnh đêm khi nước thủy triều đang xuống dưới ánh trăng nghiêng nghiêng mờ chiếu, thấp thoáng hai ba đóm lửa đèn nhà ai như những vì sao lạc kia, chính là bến đò Qua Châu đối diện đó vậy ! Qủa là một bức tranh chấm phá với cảnh đèn đóm trong đêm vô cùng nên thơ và thi vị !


     Lửa dịu dàng là thế, ấm áp là thế, nên thơ là thế... nhưng khi nổi "tam bành" thì "Bà Hỏa" hoạn đến không buông tha cho ai cả, không buông tha cho vật chất nào cả, mà thiêu rụi sạch sành sanh. Bão tố giật xập nhà cửa, nước lụt cuốn trôi nhà cửa, nhấn chìm ghe xuồng... nhưng cũng còn vớt vát lại được chút đồ đạc còn trôi nổi trên sông, chớ sau một cơn hỏa hoạn thì tất cả còn lại chỉ là đống tro tàn của dĩ vãng mà thôi !

           Lửa còn đi liền với chiến tranh với các từ Binh Lửa, Khói Lửa, Tên lửa, Đạn lửa hay Lửa Đạn là vùng lửa cháy đạn bay, là nơi tuyến đầu, nơi mà người ta bắn giết lẫn nhau, là các vùng Hỏa Tuyến 火線, nơi mà ban đêm luôn có " Những đóm mắt Hỏa Châu 火珠 " soi sáng chiến trường .  Tội nghiệp cho tuổi trẻ Miền Nam, tội nghiệp cho các anh lính trẻ Việt Nam Cộng Hòa như tôi  "xếp bút nghiên theo việc binh đao" để đêm đêm phải tâm sự cùng "Những ánh mắt Hỏa Châu" như trong bài hát của Nhạc sĩ Hàn Châu :
                     Có những đêm dài ... anh ngồi ....nhìn hỏa châu rơi ...
                     Nghe vùng tâm tư ... cháy đỏ ...xoay ngang lưng trời ...
                     Những đóm mắt hỏa châu, bừng lên trong màn tối ,
                     Như mắt em sáng ngời, theo anh đi ngàn lối ...
                     Những đêm không ngủ... anh ngồi tâm sự ...cùng hỏa ...châu rơi.....

                

         Qủa là tội nghiệp cho tuổi trẻ của Miền Nam khoảng thập niên 60-70 thế kỷ trước , tuổi trẻ của Việt Nam nói chung đã bị cuốn vào vòng chiến tranh ý thức hệ một cách oan uổng...

         Ngày xưa, gọi chiến tranh là Phong Hỏa 烽火, là những lửa khói bốc lên do chiến loạn, mà cũng là những lửa khói được đốt lên để báo hiệu chiến tranh đang diễn tiến đến nơi nào, là những Phong Hỏa Đài 烽火台 dùng để cảnh báo cho dân chúng hậu phương biết trước mà tránh xa và nhất là để cho quan binh hu phương biết đường mà ứng phó. Nên Phong Hỏa là chiến tranh như Đỗ Phủ đã viết về chiến loạn do An Lộc Sơn gây ra :

                  Phong Hỏa liên tam nguyệt    烽火連三月

là Chiến tranh kéo dài suốt ba tháng liền... đã gây ra rt nhiều chết chóc khổ đau tang thương khắp chốn, huống chi cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam kéo dài những ba mươi năm, nhân dân cả nước phải hứng chịu biết bao nhiêu là đau thương đồ thán do bom đạn gây ra !  

           Hỏa là Lửa, là Đèn đuốc là Đăng Hỏa 燈火. Hỏa là Tinh Hỏa 星火 là những vì sao lắp lánh trên trời, là Hỏa Tinh 火星 một trong 4 hành tinh của Thái Dương Hệ, có tên la-tinh là Mars. Theo khoa học giả tưởng trên Hỏa tinh có Người Hỏa Tinh và có sự sống như trên Trái đất. Hoả Tiển 火箭 là Tên Lửa, vừa là vũ khí sát thương, vừa là phương tiện chuyên chở trong và ngoài không gian.. Hỏa Thạch 火石 là Đá lửa, đá dùng để đánh lửa. Hỏa Sơn 火山 là núi lửa, là Hỏa Diệm Sơn 火焰山. Hỏa Khanh 火坑 là Cái Hầm Lửa, từ dùng để chỉ các cô gái điếm sống cuộc sống đày đọa đồi trụy ngột ngạt như bị nhốt trong hầm lửa vậy, nên cụ Nguyễn Du đã gọi là "Lửa Nồng" khi cho cô Kiều phân tách để Thúc Sinh hiểu được là sống cảnh lẻ mọn bị vợ lớn ghen tuông hành hạ (giấm chua) còn tội nghiệp hơn là sống đời kỹ nữ nữa :

                          Cúi đầu luồn xuống mái nhà
                     Giấm Chua lại tội bằng ba LỬA NỒNG !
 
          Hỏa còn dùng để chỉ vũ khí của quân đội như từ Hỏa Thương 火槍 là Súng Ống, Hỏa Dược 火藥 là Thuốc súng, Hỏa Lực 火力 là sức mạnh của vũ khí quân đội, Hỏa Tốc 火速 là Nhanh Chóng, Hỏa Công 火攻 là Tấn công bằng lửa, dùng lửa để Hỏa Thiêu 火燒 đốt cháy quân địch, như trận Hỏa Thiêu Xích Bích 火燒赤壁 của Khổng Minh Gia Cát Lượng đã đốt tiêu 81 vạn quân của Tào Tháo trên dòng sông Xích Bích vậy. Cuối cùng để nuôi sống quân đội hàng ngày còn có anh Hỏa Đầu Quân 火頭軍 mà sau nầy trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa gọi là Lính Nhà Bàn, còn Bộ đội Bắc Việt thì gọi là Anh Nuôi. 
           Ngoài trận hỏa công để đời nổi tiếng trong lịch sử thời Tam Quốc ra , còn một trận hỏa công rất đặc sắc nữa ở thời Xuân Thu Chiến Quốc, đó chính là Hỏa Ngưu Trận 火牛陣. Theo Sử Ký Điền Đan Liệt Truyện...

          Đời Yên Chiêu Vương, tướng Yên là Nhạc Nghị đem binh đánh Tề. Tướng Tề là Điền Đan cố giữ thành Tức Mặc. Năm 279 trước Công Nguyên, Yên Huệ Vương nối ngôi, Điền Đan dung kế ly gián để Yên vương dùng tướng Kỵ Kiếp thay cho Nhạc Nghị, đoạn lại dùng kế trá hàng để Kỵ Kiếp không phòng bị, rồi đang đêm gom hết cả ngàn trâu bò trong thành, buộc gươm đao nhọn vào sừng trâu, đuôi trâu buộc cỏ rơm có tẩm dầu, rồi đốt lửa lên, trâu bị nóng cắm đầu cắm cổ phóng về phiá quân Yên, lại cho 5000 lính cảm tử xung phong giết tới. Quân Yên đại bại, Kỵ Kiếp chết trận, Điền Đan thừa thế xua quân đánh chiếm lại hơn 70 thành đã bị mất.

         Vì tích Hỏa Ngưu Trận ở trên mà trong văn học Việt Nam có một bài thơ vịnh Con Trâu Già rất hay như sau :

                         Một nắm xương khô, một nắm da
                         Bao nhiêu cái ách đã từng qua
                         Đuôi cùn biếng vẫy Điền Đan hỏa
                         Tai nặng buồn nghe Nịnh Thích ca
                         Sớm thả đồng đào ăn đủng đỉnh
                         Tối về chuồng quế thở nghi nga
                         Có người toan giết tô chuông mới
                         Ơn đức vua Tề, lại được tha.

        Bài thơ trên có người cho là của cụ Huỳnh Mẫn Đạt, có người cho là của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Nhưng dù của ai thì đây vẫn là một bài thơ hay.

Hỏa là Lửa, nhưng Hỏa Kê 火雞 không phải là Con Gà Lửa mà là con Gà Tây, bình dân gọi là con Gà Lôi, ở Mỹ gọi là Turkey. Lễ Gà Lôi là Lễ Tạ Ơn của Mỹ (ngày Thứ Năm của tuần thứ 3 trong tháng 11), hằng năm dân Mỹ phải "hỏa thiêu" đến mấy triệu con Hỏa Kê nầy để ăn mừng. Hỏa Trùng còn gọi là Huỳnh Hỏa Trùng 螢火蟲, không phải là con sâu lửa mà là con Đom Đóm với ánh đèn lân tinh chớp sáng phía sau đuôi trên các ngọn cây bần ở quê tôi. Cũng như Hỏa Hầu 火候 không phải là con Khỉ Lửa, mà là chỉ cái tiêu chuẩn mức độ đạt đến cở nào. Như hấp bánh còn thiếu hỏa hầu nên bánh chưa thật chín thật ngon, Công phu luyện chưa tới hỏa hầu nên chặt cục gạch còn chưa bể hai... Hỏa Hầu cũng không phải là Tề Thiên Đại Thánh 齊天大聖, vì Tôn Ngộ Không 孫悟空 là con Thạch Hầu 石猴, con khỉ từ trong đá nứt ra, chứ không phải là con khỉ lửa; chỉ sau khi bị Thái Thượng Lão Quân đốt trong lò Bát quái bảy bảy bốn mươi chín ngày ra, thì Tôn Ngộ Không mới có được Hỏa nhãn Kim tinh 火眼金睛, có nghĩa : Con mắt rực như lửa và tròng mắt sáng như vàng có thể nhìn thấu mọi sự vật do yêu quái biến hình. Nhưng Hỏa Xa là Xe Lửa, Hỏa Long 火龍 thì lại là con rồng lửa chính hiệu có màu đỏ rực như lửa. Gần đây, người Hoa lại dùng từ Hỏa Oa 火鍋 là Cái Nồi Lửa để chỉ Cái Lẩu (cái Cù Lao) mà ta thường ăn khi có tiệc. 
   
      Theo phép tạo chữ Nho ngày xưa, một chữ Hỏa 火 là Lửa; 2 chữ Hỏa chồng lên nhau là Viêm 炎 là Nóng, ta có từ kép Viêm Nhiệt 炎熱 là Nóng nực; 3 chữ Hỏa ghép lại thành chữ Diễm 焱 là Lửa cháy rực rỡ, đọc là Diệm thì đồng âm với từ Hỏa Diệm Sơn 火焰山 là Núi Lửa, HỎA DIỆM SƠN còn là từ dùng để chỉ các bà các cô có thân hình với 3 vòng th"nóng", thật gợi cảm, thật bốc lửa ! 


           Những thành ngữ có chữ Hỏa 火 mà Hoa Việt đều thông dụng là :

 * Hỏa thượng gia dầu 火上加油 : Ta nói là "Lửa cháy thêm dầu" hay là "Đổ thêm dầu vào lửa", ý nói đã không chửa cháy mà còn làm cho nó cháy lớn thêm hơn ! 

 * Hỏa hải đao sơn 火海刀山 : Ta nói là "Núi đao biển lửa" để chỉ những nơi vô cùng nguy hiểm, những chỗ mất mạng như chơi !

 * Can sài liệt hỏa 乾柴烈火 : là Củi khô lửa mạnh, ta nói là "Lửa gần rơm" lâu ngày cũng bén.

 * Sấn hỏa đả kiếp 趁火打劫 : Thừa lúc lửa cháy để cướp đồ của người khác, ta nói là " Thừa nước đục thả câu".

 * Phong hỏa liên niên 烽火連年 : Chiến tranh năm nầy liền năm khác, ta nói là " Chiến tranh dai dẳng" như cuộc nội chiến của Việt Nam ta ngày xưa làm cho quân dân đều chán ngán.

         Trong Tăng Quảng Hiền Văn cũng có những câu ngạn ngữ rất thực tế như :

                   Viễn thủy nan cứu cận hỏa,     遠水難救近火,
                   Viễn thân bất như cận lân.      遠親不如近鄰。
Có nghĩa :
                 Nước xa không thể cứu được lửa gần ,
                 Bà con xa không bằng láng giềng gần.


 
Hay như câu :
                    Thành môn thất hỏa,      城門失火,
                    Ương cập trì ngư.           殃及池魚。
Có nghĩa :
               Cửa thành bị lửa cháy, bị hỏa hoạn, thì làm cho lũ cá ở trong ao cũng bị tai ương, bị vạ lây, vì... người ta sẽ vét hết nước ở trong ao để chửa lửa, nên cá sẽ không còn nước để sống nữa ! Giới bình dân gọi là : "bị văng miểng", bị họa lan can !

         Hỏa là Lửa cũng như Mộc là Cây là 2 nhân tố không thể thiếu trong đời sống con người. Hỏa là Đăng Hỏa 燈火 là Đèn đóm để thắp sáng; là Hỏa Lô 火爐 là cái Lò lửa để nấu ăn. Trong thời đại văn minh hiện nay ta còn có Điện Lô 電爐 là Lò điện, Mai Lô 煤爐 là Lò Gas... Lửa còn dùng để sưởi ấm, nấu nướng chiên xào, chế biến thức ăn, xúc tác phản ứng hóa học trong phòng thí nghiệm, để luyện kim... kể cả những hoạt động vui chơi như Bắn pháo bông, Đốt lửa trại.... đều không thể xa rời được lửa. Thử nghĩ nếu một ngày không có lửa thì cuộc sống sẽ ra sao và thế giới nầy sẽ ra sao ?!

        Những đêm nguyện cầu, những đêm thắp nến, đều nhờ vào ngọn lửa của ánh nến để thắt chặt thêm tình đoàn kết, để ung đúc thêm ý chí đấu tranh, để càng hạ quyết tâm phấn đấu hơn để đạt mục đích cuối cùng. Ta hãy nghe lại lời của bài hát Nhạc Rừng Khuya mà nhạc sĩ Lam Phương đã sáng tác khi ông còn chưa đầy 20 tuổi :

             ... Bập bùng bấp bung ....đêm khuya thêm não nùng...
                 Lửa càng bừng cháy, siết tay nhau... chúng ta cùng múa 
                 quanh lửa hồng... cháy trong rừng khuya
và...
             ... Lửa cháy, hăng lửa giục lòng dân ...đoàn kết
                 Lửa reo, vang lửa gào lòng ta ...nguồn sống
                 Lửa Tự Do ...muôn năm vẫn reo ...rừng ơi !

Nhạc sĩ Lam Phương khi sáng tác bản Nhạc Rừng Khuya

         Trở lại với đề tài lúc ban đầu, theo quan niệm của Phật Giáo, cơ thể con người là do TỨ ĐẠI : Đất Nước Gió Lửa khi đã đủ cơ duyên thì kết hợp lại mà thành, nên khi chết đi thì thân Tứ Đại sẽ trả về cho Tứ Đại. Nhớ năm 1963 khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu xong thì còn lại ... trái tim vẫn không chịu cháy trong  lò thiêu lên đến 4000 độ C tại Đài hỏa táng An dưỡng địa ở Phú Lâm (Sài Gòn). Thì ra, vẫn có những cái mà lửa không thể thiêu rụi được, đó là Trái Tim của đấu tranh, tức là Ý Chí Đấu Tranh thì không có ngọn lửa nào thiêu rụi được cả ! Xin được mượn 2 câu thơ sau đây trong bài thơ ca ngợi Hòa thượng Thích Quảng Đức để kết thúc cho bài phiếm luận nầy :

                          Thân Tứ Đại trả về Tứ Đại,
                          Tim của ngài tồn tại thế gian !

       Lửa là Hỏa và Hỏa là Lửa. Lửa thiêu rụi tất cả, nhưng không thể thiêu rụi được Tinh thần đoàn kết và ý chí đấu tranh !

 Đỗ Chiêu Đức - 杜紹德