Showing posts with label Chính Trị. Show all posts
Showing posts with label Chính Trị. Show all posts

9/11/23

Biden cùng đối tác G20 lập tuyến vận chuyển thuỷ bộ nối trục Ấn-Âu

New Delhi, Ấn Độ (NV) – Tổng Thống Joe Biden và các đồng minh hôm Thứ Bảy, 9 Tháng Chín, công bố một kế hoạch đầy tham vọng nhằm xây dựng tuyến đường vận chuyển hoả xa và đường biển kết nối Ấn Độ với Trung Đông và Châu Âu. 

Nỗ lực to lớn này, được công bố trong Hội Nghị Thượng Đỉnh G20 năm 2023, nhằm mục đích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng cường hợp tác chính trị trên quy mô toàn cầu.



Tổng Thống Joe Biden (giữa) được ông Narendra Modi (bìa phải), thủ tướng Ấn Độ, mời vào chỗ ngồi tại hội nghị G20. (Hình: EVAN VUCCI/POOL/AFP via Getty Images)


Tổng Thống Biden bày tỏ tầm quan trọng của dự án này, nói rằng: “Đây là một kế hoạch lớn. Đây thực sự là một sự kiện lớn,” theo AP.

Hành lang vận chuyển được đề xuất này, trải rộng trên nhiều quốc gia, bao gồm Ấn Độ, Saudi Arabia, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Jordan, Israel và Liên Âu, sẵn sàng tăng cường thương mại, tạo thuận lợi cho việc vận chuyển các nguồn năng lượng và cải thiện kết nối kỹ thuật số.

Ông Jake Sullivan, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ, nhấn mạnh dự án này là sự thể hiện “hiệu quả” của sức mạnh Mỹ, qua tầm nhìn của Tổng Thống Biden về “các khoản đầu tư sâu rộng” và hợp tác quốc tế hiệu quả.

Cố Vấn Sullivan nhấn mạnh tác động tích cực của cơ sở hạ tầng được cải thiện đối với tăng trưởng kinh tế, sự gắn kết khu vực và biến Trung Đông thành trung tâm hoạt động kinh tế, chống lại mối liên hệ lịch sử của khu vực này với những thách thức, xung đột và khủng hoảng.

Ông Narendra Modi, thủ tướng Ấn Độ, nhấn mạnh tăng cường kết nối là ưu tiên hàng đầu của Ấn Độ, không chỉ nhằm thúc đẩy thương mại lẫn nhau mà còn xây dựng niềm tin lẫn nhau giữa các quốc gia. 

Tổng Thống Joe Biden (hàng đầu, trái) cùng ông Narendra Modi, thủ tướng Ấn Độ, dẫn đầu đoàn lãnh đạo G20 đến đài tưởng niệm cố Thủ Tướng Mahatma Gandhi ở Raj Ghat, New Dehli. (Hình: -/PIB/AFP via Getty Images)

Tuyến hành lang hoả xa và vận tải đường biển, cùng sự cung cấp kết nối kỹ thuật số được dàn trải trên khắp các khu vực địa lý rộng lớn, thúc đẩy thương mại. Dự án này cũng sẽ là giải pháp thay thế cho các sáng kiến cơ sở hạ tầng rộng lớn được Trung Quốc đưa ra trước đây trong kế hoạch “Một vành đai, một con đường.”

Trong khi chi tiết chi phí và tài chính của dự án vẫn chưa được tiết lộ, Thái Tử Mohammed bin Salman của Saudi Arabia đã đề cập đến con số $20 tỷ trong một thông báo, tuy nhiên hiện không rõ liệu khoản ngân quỹ này có áp dụng riêng cho cam kết của Ả Rập Saudi hay không.

Bà Ursula von der Leyen, chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, mô tả dự án hoả xa và vận tải biển là “cây cầu xanh và kỹ thuật số xuyên lục địa và các nền văn minh”, bao gồm các dây cáp để truyền cả điện và dữ liệu. Bà cũng tiết lộ “Hành lang xuyên châu Phi” kết nối cảng Lobito của Angola với các khu vực không giáp biển của Cộng Hòa Congo và Zambia.

Ông Amos Hochstein, điều phối viên về cơ sở hạ tầng toàn cầu và an ninh năng lượng của Tổng Thống  Biden, đã vạch ra một mốc thời gian dự kiến cho dự án. Trong 60 ngày tới, các nhóm làm việc sẽ xây dựng một kế hoạch toàn diện và đặt ra các mốc thời gian.

Giai đoạn đầu tiên sẽ liên quan đến việc xác định các khu vực cần đầu tư và kết nối cơ sở hạ tầng vật chất giữa các quốc gia. Ông Hochstein hy vọng rằng những kế hoạch này có thể được thực hiện trong năm tới, tiến tới tài trợ và xây dựng.

Cố Vấn Sullivan giải thích rằng nguồn gốc của dự án bắt đầu từ chuyến thăm của ông Biden tới Saudi Arabia vào Tháng Bảy, 2022, tại đó tổng thống nhấn mạnh tầm quan trọng của hội nhập kinh tế khu vực.

Các cuộc trò chuyện với các đối tác trong khu vực đã bắt đầu vào Tháng Giêng và các đánh giá chi tiết về cơ sở hạ tầng hoả xa hiện có đã được tiến hành vào mùa Xuân. Sau đó, các cuộc đàm phán và hợp tác giữa các quốc gia đã lên đến đỉnh điểm khi công bố dự án.

Lãnh đạo khối G20 trong giây phút tưởng niệm cố Thủ Tướng Mahatma Gandhi. (Hình: -/PIB/AFP via Getty Images)

Mặc dù dự án hoả xa và vận tải biển không phải là tiền đề cho việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Israel và Ả Rập Saudi, nhưng có sức nặng địa chính trị đáng kể. 

Tất cả các quốc gia tham gia đều nhấn mạnh sự tập trung vào kết quả thiết thực, phát triển kinh tế và cải thiện khả năng kết nối để mang lại lợi ích cho người dân của họ. Sự tham gia của Israel và Jordan đã được đặc biệt chú ý như một khía cạnh quan trọng của sáng kiến.

Tổng Thống Biden tận dụng hội nghị thượng đỉnh G20 như một cơ hội để vận động tăng cường đầu tư vào giảm thiểu biến đổi khí hậu và nhấn mạnh những tác động bất lợi toàn cầu của cuộc chiến của Nga ở Ukraine, dẫn đến giá lương thực và năng lượng tăng cao, cũng như lãi suất nợ cao hơn đối với nhiều quốc gia. (MPL) [kn]

 

9/5/23

BRICS mở rộng : Một liên minh thống lĩnh thị trường nguyên nhiên liệu ?

Minh Anh - RFI

Ngày 24/08/2023, kết thúc thượng đỉnh lần thứ 15 tại Johannesburg, Nam Phi, nhóm BRICS – gồm năm nước Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi – thông báo đón thêm sáu thành viên mới. Một số nhà quan sát cho rằng BRICS mở rộng còn đồng nghĩa với việc thúc đẩy tiến trình phi đô la hóa và hình thành một liên minh thống trị thị trường dầu khí, nguyên nhiên liệu.


Nghe phần âm thanh:




Kể từ ngày 01/01/2024, BRICS sẽ trở thành BRICS+, khi có thêm sáu thành viên mới là Achentina, Ai Cập, Ả Rập Xê Út, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Ethiopia và Iran. Hầu hết giới chuyên gia đều có chung một nhận xét : Đây là một thắng lợi của Nga và nhất là của Trung Quốc.

Đây là hai nước quyết tâm mở rộng nhóm nhiều nhất. Với Bắc Kinh, sự mở rộng này đồng nghĩa với khả năng gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc với nhóm các nước phương Nam. Về phần Matxcơva, sự mở rộng này có thể hạn chế phần nào thế cô lập của Nga trên trường quốc tế vì cuộc chiến xâm lược Ukraina.

Sự kiện cũng cho thấy ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc trong nhóm. Ấn Độ và Brazil lo sợ tầm ảnh hưởng của mình sẽ bị tan biến. New Dehli – đối thủ cạnh tranh của Bắc Kinh – cũng có tham vọng trở thành một trong những đầu tầu của những nước đang phát triển.

Một sự mở rộng quá nhanh và quá lớn có nguy cơ biến « BRICS thành một diễn đàn chống phương Tây để phục vụ trước hết các lợi ích của Trung Quốc và Nga », theo như lời một quan chức ngoại giao Ấn Độ được nhật báo Pháp Le Monde dẫn lại.

Raoul Delcorde, đại sứ danh dự của Bỉ, trả lời nhật báo kinh tế L’Echo (Bỉ) nhận định « Trung Quốc có thể ép buộc được các nước còn lại vì chỉ riêng nước này đã đóng góp đến 70% GDP của toàn bộ nhóm BRICS ».

Thay đổi trật tự thế giới

Dù vậy, giữa các nước đều có chung một mẫu số : Cùng phản đối một trật tự kinh tế thế giới do phương Tây thiết lập và mong muốn hướng đến một thế giới đa cực. Mở rộng cửa đón các thành viên mới cho phép củng cố hơn nữa vai trò thay thế của BRICS trên bình diện địa chính trị, trước các định chế quốc tế do phương Tây thống trị.

Nhà kinh tế học Jean-Joseph Boillot, cố vấn cho Viện Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (IRIS), trả lời RFI Pháp ngữ, nhắc lại BRICS được thành lập năm 2009, sau khi cơn bão khủng hoảng tài chính của Mỹ quét qua, đẩy nhiều nước đang phát triển và nước nghèo lâm vào cảnh khốn khó trong vòng 5-10 năm liên tiếp.

BRICS cho rằng, bất chấp quy mô diện tích, dân số và kinh tế, nhóm này đã không được đại diện đầy đủ trong các định chế quốc tế. Chuyên gia kinh tế Jean-Joseph Boillot, cố vấn cho Viện Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (IRIS), trả lời RFI Pháp ngữ, giải thích vì sao dù có những khác biệt lớn về trọng lượng kinh tế nhưng nhiều nước vẫn được chọn để tham giam BRICS:

« Điều cốt lõi ở đây là vì những nước này bị gạt ra khỏi các định chế quốc tế lớn. Năm nước thành viên của BRICS chiếm khoảng 15% phiếu bầu ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) trong khi cả năm nước gộp lại có đến gần 3,5 tỷ dân và chiếm gần 25% GDP của toàn cầu. Đây là ý tưởng chính dẫn đến việc hình thành BRICS.

Từ quan điểm này, Ả Rập Xê Út là cường quốc thứ chín trên thế giới và trên phương diện GDP tính theo đầu người, Ả Rập Xê Út cũng không xa mấy các nước châu Âu, nhưng trên bình diện chính trị, vai trò và quyền phủ quyết trong các tổ chức quốc tế lớn là không có. Do vậy, việc bày tỏ nguyện vọng tham gia nhóm BRICS còn nhằm mục đích làm thay đổi trật tự kinh tế thế giới. »

Nhưng BRICS có thêm thành viên mới không chỉ là mở rộng câu lạc bộ, mà đây còn là một liên minh mở rộng cho phép vạch lại mô hình tài trợ phát triển của các nước mới trỗi dậy, thống trị các thị trường dầu khí và nguyên liệu thiết yếu trong quá trình chuyển đổi năng lượng.

Các vương quốc Ả Rập : Những ông chủ ngân hàng mới

Và trong tầm nhìn này, Trung Quốc sẽ là bên hưởng lợi trước tiên. Trang mạng La Tribune (25/08/2023) nhận định việc mở rộng nhóm cho phép Trung Quốc tăng tốc dự án Những Con đường Tơ lụa Mới (BRI), được khởi động từ năm 2013, liên quan đến gần 70 nước, đông đến khoảng 4,4 tỷ dân, và chiếm đến khoảng 40% GDP toàn cầu, nhưng bị đình trệ vì đại dịch Covid-19.

Như vậy, BRICS có thể huy động thêm được nguồn vốn cho ngân hàng phát triển của nhóm – New Development Bank (NDB), được thành lập năm 2014 – để có thể tài trợ các dự án đầu tư cho các nước mới trỗi dậy mà không cần các khoản vay có điều kiện từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB).

Kinh tế gia Alexandre Kateb, chủ tịch Văn phòng tư vấn The Multipolarity Report, trên đài truyền hình tư nhân BFMTV, nhấn mạnh việc mở rộng BRICS cũng có nghĩa là phi đô la hóa:

« Đúng là phi đô la hóa và phát triển một đồng tiền trao đổi thay thế như nhân dân tệ chẳng hạn sẽ đi cùng với việc mở rộng nhóm. Ở đây thật sự có một lô-gic kết nối hai khía cạnh này với nhau. Theo tôi, điều này thể hiện rõ qua việc kết nạp hai nước Ả Rập Xê Út và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, bởi vì đây là những nước có thể tài trợ cho một hệ thống tài chính mới dựa trên đồng tiền của BRICS hay một đơn vị tiền tệ dự trữ nào đó mà đồng tiền này được ấn định theo bản vị vàng hay dầu hỏa. »

Về điểm này, nhà nghiên cứu thuộc IRIS, trên đài RFI lưu ý thêm rằng « ngân hàng NDB của BRICS vốn đang thiếu nguồn tài chính, bỗng nhiên có thêm hai chủ ngân hàng, giờ có thể cấp vốn cho các nước phương Nam nào có nhu cầu. Cho đến hiện tại, Trung Quốc là bên giữ vai trò này, tất cả các nước đều tỏ ra nghi ngại về ảnh hưởng quá lớn của Trung Quốc ở trong nhóm. Do vậy, sự có mặt của hai nước Ả Rập là một sự tái cân bằng khá thú vị. »

Liên minh BRICS và OPEC+ để thống lĩnh thị trường dầu lửa

Trong bối cảnh này, Nhà Trắng ra sức ngăn cản nhiều nước tham gia BRICS, khi cam kết giải ngân « khoảng 50 tỷ đô la tiền vay cho các nước có thu nhập trung bình và các nước nghèo », đồng thời mời gọi các nước đồng minh và đối tác tham gia đóng góp để nâng tổng số tiền hỗ trợ có sẵn là 200 tỷ đô la.

Liệu rằng Mỹ có thể cạnh tranh với Trung Quốc ? Câu trả lời là Khó, vì giới quan sát cảnh báo thêm rằng đại đa số các nước thành viên khối OPEC Mở rộng, nhóm các nước khai thác và xuất khẩu dầu hỏa, cũng sẽ sớm gia nhập nhóm BRICS. Sự hội nhập này sẽ mang lại cho nhóm một vị thế vượt trội trên các thị trường dầu khí.

La Tribune ước tính tổ chức OPEC+ được hội nhập vào BRICS có thể sẽ chiếm đến hơn 60% sản lượng khai thác và 40% khả năng tinh lọc vàng đen của thế giới. Trung Quốc và Ấn Độ là những khách hàng quan trọng của các nước Vùng Vịnh. Việc bảo đảm nguồn cung dầu khí là mang tính sống còn cho nền kinh tế Trung Quốc, vốn dĩ một phần lớn nhập khẩu là để đáp ứng các nhu cầu trong nước.

Ông Alexandre Kateb nhận định, việc nhiều nước khai thác và xuất khẩu dầu hỏa gia nhập BRICS cho thấy rõ một mục tiêu chiến lược khác : Giảm bớt sự phụ thuộc vào đô la trong việc niêm yết giá dầu trên thị trường thế giới.

« Đây thực sự là chất xúc tác cho sự chuyển đổi này và vai trò của nhân dân tệ trong việc thanh toán các hợp đồng dầu mỏ. Quá trình đã được bắt đầu với việc Ả Rập Xê Út ký một thỏa thuận với Trung Quốc để thanh toán những hợp đồng xuất khẩu dầu lửa bằng nhân dân tệ. Rồi chuyển giao hàng khí hóa lỏng đầu tiên của Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất đến Trung Quốc cũng được trả bằng đồng nhân dân tệ.

Hơn nữa, chính hãng Total của Pháp là bên đưa ra sáng kiến giao dịch này. Và ngày nay chúng ta thấy rõ là có cả một phong trào nhằm thiết lập các giao dịch trong một khuôn khổ đa phương, nơi xuất phải cho ý tưởng về một loại tiền dự trữ cho BRICS, một loại đơn vị tiền tệ trao đổi đóng vai trò như là một đơn vị thanh toán cho tất cả các hoạt động giao dịch này và như vậy cũng sẽ cho phép gộp những nước khác mắc nợ Trung Quốc, cung cấp tài chính cho họ mà không dùng đến đồng đô la, như trường hợp của Achentina hiện nay ».

Châu Âu và sự phụ thuộc vào BRICS trong tương lai ?

Cuối cùng, trong lĩnh vực nguyên liệu, mức độ tập trung còn quan trọng hơn và trở nên mang tính chiến lược cho nhiều nước mới trỗi dậy muốn tận dụng quá trình chuyển đổi năng lượng để có thể tự mình phát triển các chuỗi công nghiệp thế giới và hưởng lợi các chuỗi giá trị cao như kế hoạch IRA của tổng thống Mỹ Biden trị giá 370 tỷ đô la, hay của kế hoạch của Liên Hiệp Châu Âu, 750 tỷ euro.

Những nước muốn tham gia, hay đã là thành viên, đều là những quốc gia giầu khoảng sản, nhất là những nguồn đất hiếm như nickel, cobalt, platine hay palladium… Trọng lượng của những nước này (Nga, Indonesia, Cộng hòa Congo, Nam Phi, hay Trung Quốc…) trong lĩnh vực dầu khí và nguyên nhiên liệu, cũng như trữ lượng của chúng có khả năng thúc đẩy sự hội tụ lợi ích giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng trong nhóm BRICS trong tương lai.

Điều này có nguy cơ làm thay đổi cấu hình hiện tại của thị trường quốc tế và các chuỗi cung ứng. Đó cũng là những gì đã xảy ra cho dầu lửa và khí đốt khi chiến tranh Nga – Ukraina nổ ra, qua việc phát triển khai thác mỏ tại lục địa châu Phi.

Nếu như Hoa Kỳ vẫn có thể trông cậy vào nguồn khai thác và sản xuất dầu khí ở trong nước và trong một chừng mực nào đó là các loại nguyên liệu hiếm từ Canada, rõ ràng là việc BRICS mở rộng nhưng dưới sự ảnh hưởng của Nga và Trung Quốc có thể làm suy yếu Liên Hiệp Châu Âu. Khu vực này có nguy cơ bị lệ thuộc nhiều vào nguồn cung dầu lửa từ nhiều nước thành viên tương lai của BRICS, chủ yếu ở vùng Trung – Cận Đông và châu Phi.

7/6/23

BUSH CON MẠO HIỂM TỪ TRONG RA NGOÀI

 

        Cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 khá “ngoạn mục”. Ngoạn mục không chỉ vì đó là năm 2000, đóng lại một thế kỷ, một thiên niên kỷ, và mở ra một thế kỷ mới, một thiên niên kỷ mới. Ngoạn mục vì bầu cử năm đó là một cuộc tranh đua giữa Phó Tổng thống Al Gore, đại diện cho đảng Dân Chủ, và Thống đốc Texas George W. Bush (hai nhiệm kỳ, từ 1995-2000), đại diện cho đảng Cộng Hòa. Từ cuộc bầu cử này người dân Mỹ mới thấy cha con ông Bush làm lịch sử. Cựu tổng thống Bush (H.W.) còn có một người con khác, Jeff Bush, đang làm thống đốc tiểu bang Florida, và ông Bush cha cứ nghĩ “thằng Jeff lanh hơn, sẽ ra trước thằng George”. Nhưng George W. Bush (1946) lại ra trước bởi vì quanh ông đang có đông đúc giới quân sư chính trị làm áp lực. Hai cha con Bush đã làm nên một kỷ lục: lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ, đời cha đời con đều làm tổng thống (không ai phải ăn mặn, không ai phải khát nước). 

Qua cuộc bầu cử này, giới quan sát chính trị nhận định: đảng Cộng Hòa, trên bình diện quốc gia, đã chuyển từ cánh hữu sang trung tâm vào những năm 1940 và 1950, sau đó trở lại  cánh hữu vào những năm 1970 và 1980. Trong khi đó, đảng Dân Chủ, cũng trên phạm vi quốc gia, đã chuyển từ cánh tả sang trung tâm trong những năm 1940 và 1950, sau đó tiến xa hơn về phía cánh hữu trong những năm 1970 và 1980. Cuộc tranh cử tổng thống vào năm 2000 giữa Bush và Gore đã cho thấy sự phân cực chính trị không thực sự nghiêm trọng. Cuộc bầu cử ở các bang quyết định là New Mexico và Florida đã diễn ra vô cùng sít sao và tạo ra một cuộc tranh cãi gay gắt về việc kiểm phiếu. Kể cả năm 2000, đảng Dân Chủ thường bỏ phiếu cao hơn đảng Cộng Hòa về số phiếu toàn quốc trong mọi cuộc bầu cử từ năm 1992 đến năm 2020, ngoại trừ năm 2004. Thế nhưng bầu cử tồng thống ở Mỹ còn bị vướng mắc bởi qui luật cử tri đoàn mà người ta không chịu bỏ đi hay sửa đổi. Cho nên vấn đề thường ở chỗ đó, rắc rối thường ở chỗ đó.

Ứng cử viên của đảng Dân Chủ Phó tổng thống Al Gore đương nhiên không phải là người xa lạ. Thống đốc bang Texas hai nhiệm kỳ George W. Bush cũng không phải là người xa lạ vì Texas là tiểu bang lớn, mà ông Bush cha cũng lớn. Việc ông Gore chọn Thượng nghị sĩ Joseph Lieberman của Connecticut đứng chung với ông là một việc làm lịch sử; Lieberman trở thành người Mỹ gốc Do Thái đầu tiên tranh cử vào chức vụ quốc gia. Nhờ Lieberman, Gore lấy hết số tiền vận động và số phiếu của người Mỹ gốc Do Thái. Vì Lieberman, Gore mất một số phiếu đáng kể của những người “bài Do Thái”. Cuộc bầu cử cho thấy đất nước được chia cắt như thế nào. Mặc dù sức mạnh của Gore ở Đông Bắc, Illinois và California đã giúp ông dẫn đầu về số phiếu phổ thông, nhưng bản đồ cử tri đoàn lại là một câu chuyện khác. Khi đầy đủ tin tức bầu cử đến từ khắp đất nước, rõ ràng là Florida sẽ quyết định kết quả. Florida là tiu bang mà Jeff Bush là thống đốc. George W. Bush cũng là người có kinh nghiệm tranh cử. Năm 1994, ông đã thắng bà đương kim thống đốc Texas Ann Richards người Dân Chủ trong cuộc tranh cử thống đốc tiểu bang này, một phần là nhờ quân sư Karl Rove đã khéo gieo tin: bà Richards mắc bệnh đồng tính! Như Reagan trước đây phủ nhận chuyện ông giúp loạn quân Contra, đó là do “mấy đứa ở dưới”, nay ông Bush cũng nói: “Ai gieo tin đồn nhảm, tôi chỉ hái quả”. 

Đến cuối tháng 11, hội đồng vận động tranh cử của bang Florida đã chứng nhận Bush là người chiến thắng với 537 phiếu bầu, nhưng cuộc bầu cử vẫn chưa được giải quyết do các cuộc chiến pháp lý vẫn còn. Cuối cùng, Tòa án Tối cao Florida đã quyết định (4–3) ra lệnh kiểm phiếu lại bằng tay trên toàn tiểu bang đối với khoảng 45.000 phiếu bầu không đủ tiêu chuẩn—các phiếu bầu mà máy ghi lại là không thể hiện rõ ràng một phiếu bầu tổng thống—và chấp nhận một số kết quả chưa được xác nhận trước đó ở cả Miami-Dade và Palm Beach, làm giảm số phiếu dẫn đầu của Bush xuống chỉ còn 154. Chiến dịch tranh cử của Bush nhanh chóng đệ đơn kháng cáo lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, yêu cầu tòa án này hoãn kiểm phiếu lại cho đến khi có thể xét xử vụ việc; tòa án đã ban hành quyết định tạm hoãn vào ngày 9-12. Ba ngày sau, tòa án kết luận (7–2) rằng việc kiểm phiếu lại công bằng trên toàn tiểu bang không thể được thực hiện kịp thời để đáp ứng hạn chót ngày 18-12 để xác nhận các đại cử tri của tiểu bang, tòa án đã đưa ra phán quyết định với tỷ lệ 5-4 gây nhiều tranh cãi, đảo ngược lệnh kiểm phiếu lại của Tòa án Tối cao Florida, có nghĩa là Bush được xem là  đã chiến thắng. Nhờ chiến thắng mù mờ ở Florida, Bush đã giành được phiếu đại cử tri sát nút trước Gore với tỷ số 271/266 — chỉ nhiều hơn 1 phiếu so với yêu cầu 270 (một cử tri Gore bỏ phiếu trắng). Tuy nhiên, Gore đã hơn Bush về số phiếu phổ thông với khoảng 500.000 phiếu bầu—sự đảo ngược đầu tiên giữa phiếu đại cử tri và phiếu phổ thông kể từ năm 1888. 

Vì uất ức trước kết quả bầu cử này, nghe nói Gore (1948-) đã không được “bình thường” trong hơn 20 năm qua, dù cho năm 2007 ông được giải Nobel vì đấu tranh cho việc bảo vệ môi trường, ngăn ngừa global warming. Sự đời là thế: Bush cha không đáng thua, lại không thắng; Bush con không đáng thắng, lại không thua!

Chương trình trong nước. Nội các của Bush là một “tuyển tập” Cộng Hòa chính thống từ bao đời, từ Phó Tổng thống Dick Cheney đến Ngoại trưởng Colin Powell, Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld, Bộ trưởng Tư pháp John Ashcroft, Bộ trưởng Lao động Elaine Chao…. Việc thành lập Văn phòng Sáng kiến ​​Cộng đồng  Dựa trên Tín ngưỡng (Office of Faith-Based Community Initiatives) của Nhà Trắng vào đầu nhiệm kỳ đầu tiên của Bush là một ví dụ điển hình về con người “bảo thủ nhân ái” hay chính sách “tân bảo thủ” của Bush. Sử gia vẫn gọi Bush có con đường bảo thủ mới, mục tiêu là giúp các tổ chức cộng đồng từ thiện, bao gồm cả các tổ chức tôn giáo, dễ dàng tiếp cận với các quỹ liên bang cho các chương trình trong các lĩnh vực như phòng chống tội phạm, giáo dục ma túy, nghèo đói và quan hệ gia đình. 

Chính quyền đã thúc đẩy những thay đổi về quy định trong một số bộ phận điều hành để giúp các nhóm này làm việc với chính phủ liên bang. Đạo luật Không trẻ nào bị bỏ lại phía sau 2001 (No child left behind) đã chứng minh rằng giáo dục công lập là một ưu tiên cao. Giáo viên phải có chứng chỉ của tiểu bang, kiểm tra hàng năm là bắt buộc để đánh giá tiến độ học tập và học sinh của các trường có thành tích kém có cơ hội chuyển sang trường công lập khác, trường bán công hoặc nhận các dịch vụ giáo dục bổ sung. Những người ủng hộ “No Child Left Behind” lập luận rằng nó đưa trách nhiệm giải trình vào giáo dục tiểu học và trung học, trong khi những người chỉ trích chỉ ra việc thiếu kinh phí liên bang để hỗ trợ các mục tiêu của nó.

Giảm thuế là một yếu tố thực sự  quan trọng trong chính sách kinh tế của chính quyền. Quốc hội đã thông qua ba đợt cắt giảm thuế từ năm 2001-2003, dù nhiều người cho rằng chủ yếu mang lại lợi ích cho người Mỹ giàu có. Tổng thống lập luận rằng việc cắt giảm tạo ra công ăn việc làm và giúp chấm dứt tình trạng suy thoái nhẹ trong năm đầu tiên ông cầm quyền. Không có gì bất đồng khi doanh thu liên bang giảm vào thời điểm chi tiêu tăng đáng kể. Ngoài các chi phí liên quan đến Iraq và cuộc chiến chống khủng bố, chính quyền đã hỗ trợ các chương trình mới tốn kém, chẳng hạn như phúc lợi thuốc theo toa của Medicare được gọi là Medicare Phần D. Chi phí dự kiến ​​ban đầu trong mười năm là hơn 500 tỷ đô la. Được ban hành vào năm 2003 và có hiệu lực vào năm 2006, phúc lợi cung cấp hỗ trợ tài chính cho những người nhận Medicare, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, những người phải tự trả chi phí cho thuốc của họ; đến tháng 6/2006, 22,5 triệu người Mỹ đã đăng ký tham gia các chương trình Medicare Phần D.

Hồ sơ môi trường của Bush không mạnh. Năm 1997, Hoa Kỳ đã ký Nghị định thư Kyoto, một thỏa thuận quốc tế yêu cầu các quốc gia công nghiệp hóa trên thế giới giảm phát thải khí nhà kính (khí sinh ra từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ và than đá) gây ra sự nóng lên toàn cầu. Theo các điều khoản của nó, Hoa Kỳ phải cắt giảm 7% lượng khí thải dưới mức của năm 1990 vào năm 2012. Tổng thống Bush đã phản đối Nghị định thư Kyoto ngay sau khi nhậm chức. Ông lo ngại về tác động của nó đối với nền kinh tế Mỹ, e rằng các nước đang phát triển nhanh chóng như Trung Quốc và Ấn Độ không bắt buộc phải thực hiện bất kỳ hành động nào và ông cũng không hoàn toàn tin tưởng vào khoa học về hiện tượng nóng lên toàn cầu. Chính quyền dần dần thay đổi quan điểm và đưa ra chương trình riêng để đối phó với biến đổi khí hậu. Tổng thống cũng nhất quán ủng hộ việc mở Khu bảo tồn Động vật hoang dã Quốc gia Artic (ANWR) để thăm dò dầu mỏ như một biện pháp giảm sự phụ thuộc của Mỹ vào các nguồn nước ngoài; các nhà môi trường phản đối mạnh mẽ đề xuất này.

        11/9 – Chính quyền của Tổng thống Bush, hay cuôc chiến chống khủng bố quốc tế của Hồi giáo vẫn được nhớ đến nhiều nhất với biến cố ngày 11-9-2001, khi tổ chức khủng bố Al Qaeda mà người cầm đầu là Osama Bin Laden tổ chức một vụ tấn công không tiền khoáng hậu, “bắt cóc”  máy bay thương mãi và cho những máy bay này tấn công tự sát vào những tòa nhà cao tầng tại New York. Không tặc đã lao máy bay vào hai tòa tháp Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) và Lầu Năm Góc; một chiếc máy bay thứ tư hướng đến một mục tiêu khác là Washington, D.C., đã bị các hành khách trấn áp 2 kẻ khủng bố và máy bay bị rơi ở Pennsylvania. Những đám cháy dữ dội từ nhiên liệu máy bay đã khiến tòa tháp đôi sụp đổ không lâu sau khi va chạm. Gần 3.000 người thiệt mạng trong vụ tấn công tồi tệ nhất trên đất Mỹ kể từ trận Trân Châu Cảng 1940. Osama bin Laden và al Qaeda được xác định là nghi phạm chính. Trong vòng vài ngày, Quốc hội đã trao cho tổng thống quyền sử dụng lực lượng quân sự chống lại thủ phạm và những người ủng hộ chúng; điều khoản phòng thủ chung của hiệp ước NATO lần đầu tiên được thực hiện để hỗ trợ bất kỳ hành động nào của Mỹ. Chiến dịch Tự do bền vững chống lại chính quyền Taliban ở Afghanistan, chính phủ đã cung cấp trợ giúp vật chất cho al Qaeda và dung túng cho các trại huấn luyện của chúng, bắt đầu vào tháng 10. Các lực lượng của Mỹ và Anh cùng với những người Afghanistan chống Taliban trong Liên minh phương Bắc đã lật đổ chính phủ vào cuối năm; Hamid Karzai được chọn làm thủ tướng lâm thời. Tuy nhiên, Osama bin Laden và lãnh đạo al Qaeda đã trốn thoát.

Cuối năm 2002, Ủy ban Quốc gia về tấn công khủng bố vào Hoa Kỳ, hay còn gọi là Ủy ban 11/9, được thành lập. Ủy ban độc lập, lưỡng đảng chịu trách nhiệm điều tra các cuộc tấn công, phản ứng với chúng và đưa ra các khuyến nghị về việc ngăn chặn các cuộc tấn công trong tương lai. Báo cáo năm 2004 của Ủy ban, đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất toàn quốc, lưu ý rằng khủng bố không phải là ưu tiên hàng đầu của chính phủ so với một số chính quyền và chỉ ra những vấn đề cụ thể trong việc đối phó với mối đe dọa từ FBI, CIA và an ninh hàng không. Ủy ban cũng bày tỏ lo ngại về những khó khăn trong việc chia sẻ thông tin tình báo giữa các cơ quan khác nhau. Chính quyền Bush đã thực hiện một số khuyến nghị của Ủy ban - bổ nhiệm Giám đốc Tình báo Quốc gia và thành lập Trung tâm Chống Khủng bố Quốc gia trong số đó.

Các cuộc tấn công ngày 11-9 đã gây ra những hậu quả trong nước. Đạo luật Yêu nước (Patriots Act) của Hoa Kỳ (26-10-2001) giúp các cơ quan thực thi pháp luật và tình báo dễ dàng chia sẻ thông tin hơn, mở rộng thẩm quyền của chính phủ liên bang trong việc tiến hành tìm kiếm và giám sát, đồng thời qui định việc giam giữ/trục xuất người nước ngoài bị nghi là khủng bố. Đạo luật này thường bị chỉ trích vì làm suy yếu các quyền tự do dân sự; bảo vệ nhiều hơn cho các quyền cá nhân đã được đưa vào việc tái ủy quyền của pháp luật năm 2006. Mặc dù ban đầu bị tổng thống phản đối, Bộ An ninh Nội địa được thành lập vào năm 2003. Bộ phận điều hành mới đã củng cố công việc của 22 cơ quan liên bang chịu trách nhiệm ngăn chặn và ứng phó với một cuộc tấn công khủng bố hoặc mối đe dọa khác đối với Hoa Kỳ. Cơ quan Quản lý Khẩn cấp Liên bang (FEMA), Sở Di trú và Nhập tịch Hoa Kỳ, Cảnh sát biển Hoa Kỳ, Hải quan và Bảo vệ Biên giới Hoa Kỳ (trước đây là Sở Hải quân Hoa Kỳ và Lực lượng Tuần tra Biên giới Hoa Kỳ), và Cơ quan Mật vụ Hoa Kỳ Dịch vụ bây giờ đều thuộc An ninh Nội địa.


Chiến tranh Iraq


        Trong phát biểu về Tình trạng Liên bang năm 2002, tổng thống đã vạch ra mối nguy hiểm từ các nước đang tìm kiếm vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) cho dù là sinh học, hóa học hay hạt nhân; ông đặt tên cho ba quốc gia là "trục ma quỷ" – axe of evils, gồm Bắc Triều Tiên, Iraq và Iran. Học thuyết Bush hình thành vài tháng sau đó, tuyên bố rằng Hoa Kỳ có quyền sử dụng lực lượng quân sự phủ đầu chống lại các quốc gia là mối đe dọa đối với chúng tôi và đang tìm kiếm WMD. 

Ngày càng rõ là mục tiêu đánh phủ đầu đầu tiên là Iraq. Chính quyền lập luận rằng Iraq có vũ khí sinh học và hóa học và đang phát triển một chương trình hạt nhân; có thể có mối liên hệ giữa lãnh đạo Iraq Saddam Hussein, ngày 11 tháng 9, và al Qaeda; lật đổ chế độ của Hussein và thành lập một nước Iraq dân chủ có thể là hình mẫu cho toàn khu vực. Vào tháng 10/2002, Quốc hội trao cho tổng thống quyền hành động quân sự chống lại Iraq. Trong khi khăng khăng yêu cầu các thanh sát viên vũ khí trở lại và đe dọa "hành động nghiêm trọng" đối với việc không tuân thủ, Hội đồng Bảo an LHQ đã không ủng hộ giải pháp vũ lực. Hoa Kỳ, cùng với Vương quốc Anh và một đội quân nhỏ từ các quốc gia khác, đã xâm lược Iraq vào tháng 3/2003. Trong vòng vài tháng, Chiến dịch Iraq Tự do đã chiếm được Baghdad và các thành phố lớn khác, và chính phủ của Saddam Hussein bị lật đổ; Bush tuyên bố kết thúc các hoạt động chiến đấu qui mô vào ngày 1-5-2003. Hussein trốn thoát, nhưng cuối cùng bị bắt ngày 13-12-2003.Tuy nhiên, hòa bình khó có hơn chiến tranh.

Trái ngược với mong đợi của người Mỹ, người Iraq nhanh chóng coi lực lượng liên quân Mỹ là những kẻ chiếm đóng hơn là giải phóng. Hồi giáo có hai phe, cho nên nước nào cũng thường có hai phe: Sunni và Shiite. Khi phe này nắm quyền, thường là nhờ thế đa số, thì phe đối lập đương nhiên bị trấn áp và trở thành “đối lập”. Khi phe đối lập Sunni lớn mạnh, các cuộc tấn công của quân nổi dậy trở nên nguy hiểm hơn; các vụ đánh bom xe hơi, bắt cóc và "thiết bị nổ tự chế" (IED) đã gây tử vong lớn về dân sự và quân sự. Tốc độ tái thiết chậm dưới Cơ quan lâm thời của Liên minh, do Hoa Kỳ chỉ định để quản lý đất nước và ngăn chặn sự ngược đãi những người bị giam giữ tại nhà tù Abu Ghraib, đã làm tăng thêm các vấn đề. Các quyết định của Chính quyền lâm thời về việc giải tán quân đội Iraq và bãi bỏ Đảng Baath có thể phản tác dụng. 

Thực tế là không có WMD nào được tìm thấy sau cuộc xâm lược và sự công nhận của Ủy ban 11/9 rằng Saddam Hussein không có bất kỳ mối liên hệ nào với các cuộc tấn công đã làm suy yếu lý do chính quyền biện minh cho cuộc chiến. Tiến độ cũng chậm trên mặt trận chính trị, nhưng đã có những thành công đáng chú ý. Hội đồng quản trị Iraq được thành lập vào tháng 7 năm 2003, và chủ quyền được chuyển giao cho chính phủ lâm thời vào tháng 6 năm 2004. Cuộc bầu cử quốc hội dân chủ đầu tiên của đất nước được tổ chức vào ngày 30-1-2005; đa số ghế thuộc về người Shiite vì nhiều người Sunni tẩy chay cuộc bầu cử. Đến cuối năm, các cử tri đã thông qua hiến pháp với hệ thống liên bang và bầu các thành viên cho quốc hội. Bất chấp những phát triển tích cực này, cuộc nổi dậy vẫn gia tăng. Các chiến binh nước ngoài liên kết với al Qaeda ở Iraq và bạo lực giáo phái ngày càng gia tăng giữa người Shiite và người Sunni đã khiến quân Mỹ thương vong hơn 3.000 người, trong khi hàng chục nghìn người Iraq thiệt mạng. Nhiều người Mỹ nay tin rằng chính quyền đã quản lý sai cuộc xung đột. Họ đã đưa ra những lời kêu gọi trong và ngoài Quốc Hội yêu cầu rút quân.


Nhiệm kỳ thứ hai của Bush

        Chiến tranh ở Iraq và nạn khủng bố là những vấn đề chính trong cuộc bầu cử năm 2004, cùng với thuế, kinh tế và y tế. Đảng Dân Chủ đã đề cử Thượng nghị sĩ John Kerry của Massachusetts, một cựu chiến binh Việt Nam có sự nghiệp chính trị dựa trên chủ trương phản chiến. Trong khi ủng hộ việc sử dụng vũ lực vào năm 2002, ông liên tục chỉ trích chính sách Iraq của Bush trong chiến dịch tranh cử, nhận ra rằng đa số người Mỹ hiện tin rằng cuộc chiến là một sai lầm. Nhưng tổng thống đã giành được chiến thắng sít sao về số phiếu phổ thông và đại cử tri, và đảng Cộng Hòa đã tăng cường kiểm soát của họ ở cả Thượng viện và Hạ viện. Bất chấp sự phản đối chiến tranh, các cử tri dường như tin tưởng đảng Cộng hòa hơn đảng Dân chủ trong việc xử lý mối đe dọa đang diễn ra từ chủ nghĩa khủng bố quốc tế.

Qua nhiệm kỳ thứ hai, tổng thống tập trung vào cải cách an sinh xã hội. Theo các dự đoán, hệ thống sẽ bắt đầu chi nhiều hơn thu vào năm 2018 khi thế hệ “baby boom” bắt đầu nghỉ hưu. Ông đề xuất cho phép những người lao động trẻ tuổi bỏ một phần tiền của họ để đóng thuế an sinh xã hội vào tài khoản hưu trí cá nhân. Các nhà phê bình cho rằng đề xuất này tương đương với "tư nhân hóa an sinh xã hội" và tìm cách chặn đứng các đề xuất của ông. 

Một lĩnh vực chính sách khác nằm trong chương trình cải cách của chính quyền là vấn đề nhập cư. Những nỗ lực ban đầu để giải quyết vấn đề đã bị đình trệ vào ngày 11/9, nhưng một nỗ lực mới đã bắt đầu vào giữa nhiệm kỳ thứ hai. Không giống như an sinh xã hội, tổng thống đã nhận được sự ủng hộ của lưỡng đảng đối với cải cách nhập cư toàn diện. Đạo luật có bốn điều khoản chính—tăng cường quan tâm và tài trợ cho an ninh biên giới, trách nhiệm cao hơn đối với những người sử dụng lao động thuê những người nhập cư bất hợp pháp, một chương trình công nhân khách, và một quy trình mà những người nhập cư bất hợp pháp ở Hoa Kỳ có thể đủ điều kiện trở thành công dân. Mục cuối cùng bị những người bảo thủ xem là "ân xá", đủ để giết chết dự luật vào năm 2007.

Thẩm phán Sandra Day O'Connor nghỉ hưu, sau đó Chánh án William Rehnquist qua đời vào năm 2005, cho phép tổng thống thực hiện hai đề cử vào Tòa án Tối cao. Việc bổ nhiệm John Roberts, người đã trở thành chánh án mới, và Samuel Alito được nhiều người tin tưởng vào thời điểm đó nhằm củng cố khối bảo thủ trong Tòa án. Điều này rõ ràng đã được đưa ra trong một số quyết định 5-4 gần đây. Tòa án Roberts đã phán quyết rằng Đạo luật Cấm Phá thai Một phần (2003) là hợp hiến, cho rằng chủng tộc không thể được sử dụng trong các kế hoạch nhằm đạt được hoặc duy trì sự hội nhập trong các trường công lập, đồng thời bác bỏ các điều khoản chính của Đạo luật Cải cách Chiến dịch Lưỡng đảng (2002) .

Iraq và cuộc chiến chống khủng bố vẫn là ưu tiên chính sách đối ngoại hàng đầu. Với áp lực gia tăng về việc thay đổi hướng đi, tổng thống đã chấp thuận tăng cường lực lượng Mỹ ở Iraq để bình định Baghdad và các khu vực quan trọng khác. Đợt "tăng cường" 30.000 quân được thực hiện vào mùa hè năm 2007. Tại Afghanistan, liên quân phải đối mặt với cuộc nổi dậy của Taliban ngày càng gia tăng và quân đội NATO đã thay thế người Mỹ vào đầu năm 2006 ở miền nam đất nước. Hỗ trợ quốc tế cho cuộc chiến ở Afghanistan dựa trên cơ sở rộng rãi so với Iraq. 

Thất bại trong việc ổn định hóa tình hình Iraq, Cộng Hòa phải trả giá về chính trị. Đảng Dân Chủ giành lại quyền kiểm soát lưỡng viện trong bầu cử giữa mùa năm 2006, phần lớn là do người dân không hài lòng với chiến tranh. Chính quyền cũng phải đối mặt với những khó khăn ở Trung Đông rộng lớn hơn. Lộ trình hòa bình giữa Israel và Palestine, mà Hoa Kỳ, Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Âu và Nga (Bộ tứ) đã đưa ra vào năm 2003, kêu gọi thành lập một Palestine độc ​​lập trong vòng hai năm. Tuy nhiên, có rất ít tiến bộ hướng tới mục tiêu đó. Hoa Kỳ ủng hộ mạnh mẽ Israel trong Chiến tranh Israel-Lebanon lần thứ hai năm 2006. Chương trình hạt nhân đang diễn ra của Iran, mà chính phủ nước này tuyên bố chỉ nhằm mục đích hòa bình, đã bị phản đối mạnh mẽ. Hội đồng Bảo an đã áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Iran vì không ngừng các hoạt động làm giàu uranium. Việc phát triển vũ khí hạt nhân của Triều Tiên là một nguyên nhân khác gây lo ngại. Hoa Kỳ, cùng với Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc, đã tham gia vào các cuộc đàm phán kéo dài với Triều Tiên và cuối cùng đã mang lại kết quả. Bất chấp vụ thử hạt nhân mùa thu năm 2006, Triều Tiên đã đồng ý đóng cửa lò phản ứng hạt nhân chính và cho phép các thanh sát viên quốc tế trở lại nước này vào giữa năm 2007.


Đại suy thoái

Vào tháng 9 năm 2008, Hoa Kỳ và phần lớn châu Âu tiến vào cuộc khủng hoảng suy thoái dài nhất kể từ Đệ nhị Thế chiến - được gọi là "Đại suy thoái". Nhiều khủng hoảng chồng chéo đã xảy ra, đặc biệt là khủng hoảng thị trường nhà đất, khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn, giá dầu tăng vọt, khủng hoảng công nghiệp xe hơi, thất nghiệp gia tăng và cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất. Đại suy thoái 2008-09 là biến cố suy trầm kinh tế tai hại nhất của nước Mỹ kể từ Đai Khủng hoảng (1931). Sàn xuất nội địa giảm 4.3%, tỷ lệ thất nghiệp tăng gấp đôi, lên đến hơn 10%, giá nhà sụt giảm khoảng 30%, và tỷ lệ chứng khoán S&P 500 xuống đến 57% từ mức cao nhất. Bắt đầu chỉ là một chuyện tham lam và không kiểm soát, nhưng kết thúc với một khủng hoảng toàn cầu làm cho 6 triệu gia đình mất nhà. Kết quả, chính quyền phải tiến hành những biện pháp cải cách và “cứu vớt” (bailout) cho một số đại doanh nghiệp (hãng xe hơi) và ngân hàng “too big to fail”. 

Các ngân hàng và những doanh nghiệp chuyên cho vay có thế chấp ngày càng có động thái săn mồi với các hoạt động cho vay trong những năm dẫn đến Đại suy thoái. Các khoản thế chấp trở nên dễ dàng hơn, với ít tiêu chuẩn hơn để đảm bảo người vay có thể trả nợ. Bởi vậy người ta nhắm mắt đi mua nhà, không nhìn lại khả năng tài chánh của mình, dẫn đến sự bùng nổ xây dựng và giá cả tăng lên đáng kể. Loại thế chấp mới này, được gọi là thế chấp dưới chuẩn, được cấp cho những người vay có hồ sơ tín dụng xấu, thu nhập không đủ và điểm tín dụng dưới mức tối ưu. Các khoản thế chấp này thường có các khoản thanh toán thấp hoặc không trả trước và các khoản thanh toán hàng tháng ban đầu thấp để thu hút người vay. Những người đi vay này thường không hiểu các đặc điểm phức tạp của khoản vay và bản chất lãi suất của họ. 

Hầu hết các khoản thế chấp dưới chuẩn, ngoài việc có các tính năng thanh toán cho có và các tiêu chuẩn bảo lãnh phát hành dưới chuẩn, còn là các khoản thế chấp có lãi suất có thể điều chỉnh (Adjustable-Rate Mortgage - ARM).Từ năm 2004 đến năm 2006, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã tăng tỷ lệ quỹ liên bang từ 1% lên 5,25% và tỷ lệ đối với ARM dưới chuẩn tăng cùng lúc với các khoản thanh toán ban đầu thấp đó đang tăng lên. Khoản thanh toán hàng tháng tăng đột ngột vượt quá khả năng thanh toán của nhiều người vay và một làn sóng tịch thu nhà bắt đầu.

Cuộc khủng hoảng tài chính đe dọa sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế vào tháng 9 năm 2008 khi Lehman Brothers thất bại và các ngân hàng khổng lồ khác đang gặp nguy hiểm nghiêm trọng. Bắt đầu từ tháng 10, chính phủ liên bang đã cho các tổ chức tài chính vay 245 tỷ đô la thông qua Chương trình cứu trợ tài sản gặp khó khăn đã được thông qua bởi các đảng phái đa đảng và được Bush ký. 

Trong tình hình này, ông Barack Obama của đảng Dân Chủ tìm đường vào Tòa Bạch Ốc không khó!


Chủ nghĩa bảo thủ mới

Như đã nói trước đây, tám năm dưới thời Tổng thống Bush (con) đánh dấu sự nổi lên của chủ nghĩa tân bảo thủ (Neoconservatism), một phong trào đối nghịch mạnh mẽ với “bảo thủ truyền thống”. Những người truyền thống chủ trương hạn chế di dân, phi tập trung hóa, áp đặt thuế quan và bảo hộ mậu dịch, kinh tế dân tộc, biệt lập, và sự trở lại những lý tưởng bảo thủ truyền thống liên quan đến giới tính, văn hóa và xã hội. Bảo thủ truyền thống chống đối mậu dịch tự do và xúc tiến chủ nghĩa cộng hòa. Bảo thủ truyền thống xem tân bảo thủ như những người đế quốc, trong khi mình là người bảo vệ nền cộng hòa. Người bảo thủ truyền thống có khuynh hướng chống phá thai, hôn nhân đồng tính, và quyền của giới LGBTQ (đồng tính nam, nữ, lưỡng tính, chuyển tính...). Bảo thủ truyền thống là đường lối của những chính quyền bảo thủ trước đó. Những người “tân bảo thủ”, như Phó Tổng thống Dick Cheney, Bộ trưởng Donald Rumsfeld, Cố vấn Paul Wolfowitz, quảng bá tư tưởng mở rộng dân chủ khắp thế giới và đặt quyền lợi của doanh nghiệp Mỹ lên hàng đầu qua việc sử dụng sức mạnh quân sự ở nước ngoài. Mậu dịch toàn cầu và cởi mở di trú là một ưu điểm tích cực cho nước Mỹ trong suy nghĩ của người tân bảo thủ trong thời đại toàn cầu hóa hậu Chiến tranh Lạnh.

Một số người Dân Chủ trước đây cũng đi theo hướng tân bảo thủ, nhưng người “tự do” (liberals) cho rằng những chinh sách của ông Bush là lạm dụng quyền lực doanh nghiệp quá mức, mở rộng chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Người bảo thủ truyền thống như Patrick j. Buchanan than phiền về phí tổn của phiêu lưu quân sự ở nước ngoài, mất công ăn việc làm trong nước do những thỏa thuận mậu dịch tự do toàn cầu, và những chuyện rối rắm vì nạn di dân không kiểm soát được. Xem chừng người Mỹ ở cả hai phía đã mất niềm tin vào năng lực của chính quyền liên bang giải quyết những vấn đề xã hội và kinh tế.


Những vấn đề thành thị

        Như trong quá khứ, người dân trong những năm 50 và 60 đổ xô về các thành phố vừa để kiếm việc vừa kiếm nhà. Người da đen tiếp tục đi về các thành phố phía bắc và phía tây như trong thời Đệ nhất và Đệ nhị Thế chiến, trong khi các nhóm thiểu số khác, bao gồm di dân đến từ châu Mỹ La-tinh, chen chúc vào các thành phố vì những lý do tương tự. Tuy nhiên, đến những năm 70 và 80, những vấn đề của các đô thị chồng chất – chen chúc, thất nghiệp gia tăng, tội ác khắp nơi, nhà cửa thiếu thốn và tệ hại và các khu vực thương mại xuống cấp – tạo một khuynh hướng phần lớn người Mỹ da trắng, trung lưu rời thành phố và đi ra vùng ngoại ô để sống (một hiện tượng được gọi là “white flight”); chỗ ở thoáng mát, các khu mua sắm, và các trường học rộng rãi, đủ tiện nghi, có tiền tài trợ nhiều hơn cũng lôi cuốn người ta bỏ nội thành ra ngoại ô.

Khi những gia đình trung lưu di cư ra vùng ngoại ô, các kinh doanh và kỹ nghệ từng cung cấp công việc sống còn và nguồn thuế cho các thành phố cũng đi theo. Kết quả là người nghèo và các dân tộc thiểu số còn lai trong các thành phố là nơi không có đủ ngân sách cho gia cư, vệ sinh, cơ sở hạ tầng và nhà trường. Trong khi đó, sự hỗn loạn ở đô thị được phát hình trong những năm 60, chẳng hạn như những chuyện xảy ra ở Los Angeles, Chicago, New York sau vụ ám sát Martin Luther King Jr., chỉ làm cho rộng hơn khoảng cách giữa thành phố và ngoại ô và làm tăng căng thẳng chủng tộc. Một trong những vụ hỗn loạn đô thị tệ hại nhất xảy ra về sau này năm 1992 tại South Central Los Angeles, nơi nhiều người da đen phẫn nộ trước sư tha bổng bốn người cảnh sát da trắng bị thu hình đánh đập một người da đen, Rodney King. 

Căng thẳng giữa những khu vực thành thị và ngoại ô nổi lên và làm nổi bật sự thù nghịch về chủng tộc và giai cấp trong xã hội Mỹ. Trong hai năm 1974-1975, việc bắt buộc học sinh đi xe buýt dẫn đến hậu quả bạo lực ở South Boston khi học sinh da đen từ một khu người nghèo được bỏ trên xe buýt đi đền một trường trong khu vực dân lao động chủ yếu là da trắng theo lệnh của tòa án. Các xe buýt bị phá hoại và tấn công trong khi cảnh sát dẹp loạn tìm cách trấn áp đám người phá phách. Những gia đình da trắng bỏ South Boston hay họ gửi con đến trường tư, trong khi ngay cả một số người da đen chống lại chuyện cưỡng bách đi xe buýt, lý luận rằng những trường trong khu da đen của họ phải được nhiều ngân quỹ hơn. Chuyện đưa trẻ đi xe buýt đến trường tiếp tục ở nhiều thành phố lớn cho đến cuối những năm 90, và dù cho nhiều trường thực hiện được sự hòa hợp chủng tộc tốt hơn, chiến lược này không phải không bị phê phán. 

Nhưng trong khi người ta vẫn tưởng tượng hình ảnh kinh khiếp của cuộc sống thành phố, thống kê đã chứng thực một thực tế khác. Cả tội ác bạo lực và tội ác cướp đoạt đã giảm kể từ đầu những năm 90, và tội ác trong năm 2010 đã xuống mức thấp nhất trong vòng 40 năm. Trong những khu vực thành thị lớn, sự sụt giảm tội ác còn nổi bật nhiều hơn. Những người chuyên nghiệp trẻ khá giả đã đua nhau trở lại các trung tâm thành thị. Có một cuộc tranh luận sôi nổi về xu hướng khích lệ này. Lý do thế nào đi nữa, sự suy giảm tội ác đã dẫn đến sự hồi sinh của các thành phố Hoa Kỳ trong thời gian 20-30 năm qua.

6/28/23

MỤC SƯ CARTER

 Hoàng Ngọc Nguyên

Những người Việt này đang sống tại Mỹ, không bao giờ quên Tổng thống Carter.

Cựu Tổng thống Jimmy Carter, nay đã xấp xỉ 100 tuổi, là tổng thống Mỹ trường thọ nhất, nay đang sống trong một nhà an dưỡng cuối cùng (hospice).


        Carter thể hiện thay đổi người Mỹ muốn tìm - Lịch sử Hoa Kỳ giai đoạn Chiến tranh VN chấm dứt với Tổng thống Gerald Ford (1974-76). Giai đoạn mới mở ra với Tổng thống Jimmy Carter. Sự lựa chọn ông có thể nói một phần là do người Mỹ muốn để lại đàng sau một quá khứ không có gì hay ho: thất bại trong cuộc chiến “bảo vệ tiền đồn” và có một ông tổng thống quá “tricky”. Jimmy Carter, thống đốc của tiểu bang Georgia là một khuôn mặt khá mới lạ trong đảng Dân Chủ. Ông chẳng có gốc rễ chính trị gì tại Washington. Thế nhưng ông được chọn làm ứng cử viên của đảng trong bầu cử tổng thống năm 1976, và thắng Tổng thống đương nhiệm Gerald Ford trong đường tơ kẽ tóc (297/240). Georgia là một tiểu bang Cộng Hòa bảo thủ, nhưng Carter là một nhân vật Dân Chủ cấp tiến. Ông từng ở trong ngành tiềm thủy đỉnh của Hải quân Hoa Kỳ. Sau khi trở lại đời sống dân sự, ông hoạt động trong ngành trồng đậu của gia đình. Sau đó ông tham gia hoạt động chính trị, chống phân biệt chủng tộc, ủng hộ phong trào dân quyền, và tích cực vận động cho đảng Dân Chủ. Một tác giả Mỹ viết như sau về ông: “Khi ông quyết định ra tranh cử tổng thống, bên ngoài tiểu bang chẳng ai biết ông là ai. Hầu hết mọi người đều cười khi nghe ông ra. Mẹ của ông cũng cười. Nhưng Jimmy Carter đã nhất quyết. Nói năng nhẹ nhàng và giọng điệu như người giảng đạo, Carter nói với người dân Mỹ:”Tôi sẽ không dối gạt bà con”. Và quả thật, ông chưa hề nói dối”. 

Khi đắc cử, xa lạ với Washington, ông đem theo bạn bè ở Georgia đến thủ đô giúp ông. Đó là một quyết định cho thấy ông chưa hiểu chính trị Mỹ. Ông rất cần có bên cạnh những người am hiểu chính trị Washington để họ có thể nói cho ông biết những vấn đề ưu tiên là gì, và làm sao có những quan hệ với chính giới để có thể đạt được những mục tiêu này. Nhưng ông vốn chủ trương: làm những gì đúng thì làm, không nhất thiết phải theo những mục tiêu chính trị. Cho nên một trong những quyết định đầu tiên của ông khi nhậm chức là tổng ân xá cho những người trốn lính vì chiến tranh VN. Hàng trăm ngàn người Mỹ có cơ hội trở lai đất nước và định cư chính thức trở lại. 


Đồng thời, ông tìm cách cứu giúp những thuyền nhân VN đang không có chỗ nương tựa. Đó là những năm cao điểm của phong trào vượt biên vượt biển, hàng trăm ngàn người đã mạo hiểm trong số phận thuyền nhân, và người ta nói ít nhất cũng một nửa số người đã bỏ mình giữa biển cả mênh mông, làm mồi cho cá mập. Từ năm 1978, ông đã có ý kiến chấp nhận những thuyền nhân đang ở những đảo tạm trú và muốn đến nước Mỹ, nhất là những người có thân nhân hiện đang ở Mỹ. Ông cũng ra lệnh cho các tàu biển của Hải quân Mỹ cứu vớt những người vượt biên đang lênh đênh trên biển cả vùi dập. Năm 1978, giữa khi các nhà lãnh đạo thế giới đang họp hội nghị để thảo luận về những chuyện sống còn của đất nước của họ, Carter đã đưa ra một vấn đề làm người ta nín lặng: cái chết của những người vượt biên trên biển cả và nghĩa vụ của những nước phương tây phải cứu vớt họ. Ông thông báo Mỹ sẽ gia tăng gấp đôi số người tỵ nạn hàng tháng sẽ được nhận vào Mỹ, từ 7.000 lên đến 14.000 (khoảng 168.000 người một năm). Quyết định này nhằm thúc đẩy các nước khác phải có thái độ tích cực tương tự. Chẳng phải dân Mỹ ai cũng ủng hộ chuyện này. Thăm dò của CBS và báo New York Times cho thấy đến 62% người Mỹ không đồng tính với chuyện mở cửa cho người tỵ nạn. Thăm dò Gallup chỉ ra 57% người Mỹ chống lại chủ trương nới lỏng chính sách di dân cho người tỵ nạn từ Đông Nam Á (người Việt, Lào và Campuchia). 


Chính những bước khởi đầu đó đã dẫn đến những chương trình về sau này, như đoàn tụ gia đình, Ra đi có trật tự (ODP), HO (dành cho những người thuộc chế độ Saigon đã bị “cải tạo” hơn 3 năm). Cũng chính ông Carter là người cho thuyền Mỹ đến đón những người Cuba muốn đến Mỹ tỵ nạn nhưng bị Fidel Castro gom trên đảo nhưng không đưa đến Mỹ. .. Ông nhấn mạnh nước Mỹ là một đất nước của người tị nạn (a nation of refugees), trách nhiệm của những người lãnh đạo là mở cửa. Suy cho cùng, những thuyền nhân VN bị mất nước, hay những người Cuba tỵ nạn vì mất nước, trong cả hai trường hợp, Mỹ phải chịu một phần trách nhiệm về sự mất nước này ở một mức độ nào đó. 

 

Vào tháng sáu năm 2023, trong những ngày của Carter tại nhà “tạm cư” (hospice - trong khi chờ đợi những giây phút cuối của đời), một số nhà viết sử đã nói rằng ông Carter thất bại trong tái tranh cử năm 1980 vì nhiều lý do, trong đó có thái độ của ông đối với người tị nạn mà ông quyết tâm ủng hộ, trong khi nhiều người Mỹ da trắng bảo thủ phía Cộng Hòa (nhánh Quyền Tôn giáo - Religious Right) vẫn chống đối. Tuy nhiên, tờ New York Times trong một bài điều tra còn tiết lộ chính Tổng thống Reagan, vào năm 1980 khi còn là một ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa, đã âm mưu cùng với một chính khách cơ hội có tiếng là John B. Connally (từng là thống đốc Texas và đi cùng xe với Tổng thống Kennedy và bà kennedy nên tai bay vạ gió ông bị thương trong vụ tổng thống bị bắn chết ngày 21-11-1963), bí mật đề nghị với Iran khoan thả những người Mỹ đang bị chinh quyền cách mạng của Khomeini tại Tehran bắt giữ từ tháng chín năm 1979, để cho Carter mất điểm với ngay cả cử tri Dân Chủ.  Iran giữ lời, chỉ tha con tin Mỹ sau khi Reagan đắc cử và nhậm chức vào ngày 20-1-1981. Đáp lại công trạng của Iran giúp lật đổ Carter, Reagan sau này bán vũ khí cho Iran, dùng tiền đó cho loạn quân Contras tại Nicaragua mua vũ khí! Ông Reagan ủng hộ loạn quân này! Tổng thống Carter (1924) nay đã 100 tuổi ta, hẳn phải cảm thấy an ủi phần nào khi đọc những dòng này trong những giờ phút cô quạnh hiện nay!


Carter thừa kế một nền kinh tế đang suy yếu. Trong nhiệm kỳ của ông, lạm phát vượt mức 10%, lãi suất cho vay đến gần 20%. Tăng trưởng kinh tế nặng nề cùng với lạm phát tệ hại hơn làm cho suy thoái kéo dài, bắt đầu có từ thời Nixon. Carter cố thăng bằng ngân sách liên bang nhưng không thành (như tất cả những tổng thống khác từ thời Eisenhower). Nhiều vấn đề kinh tế của Mỹ xuất phát từ chi phí dầu hỏa OPEC gia tăng. Tổng thống Carter đã tăng ngân sách để nghiên cứu tìm kiếm một nguồn năng lượng thay thế. Ông cho thành lập một cơ quan chính phủ mới, cấp nội các, có tên là Bộ Năng lượng để thúc đẩy những nỗ lực này. Nhiều người Mỹ xem năng lượng hạt nhân như là một giải pháp cho những vấn đề năng lượng của đất nước. Những người chống đối lý luận rằng sự thất bại của nhà máy năng lượng hạt nhân sẽ có hậu quả tai hại không lường. Sự lo sợ của họ đã càng tăng khi một nhà máy tại Three Mile Island, Penn., bị hỏng, thả ra những chất liệu phóng xạ vào không gian.

Cao điểm của chính quyền Carter là khi ông đích thân vận động cho một thỏa hiệp hòa bình giữa Do Thái và Ai Cập. Sự xung đột giữa hai nước này đã có từ ngày Do Thái được thành lập vào năm 1948 và bị phong tỏa bởi những nước láng giềng A-Rập thù nghịch. Căng thẳng giữa Do Thái và Ai Cập đã gia tăng từ cuộc Chiến Sáu Ngày năm 1967, trong cuộc chiến này Do Thái đã chiếm đóng bán đảo Sinai, một vùng sa mạc thuộc Ai Cập. Tuy nhiên, vào năm 1978, lãnh tụ của hai nước đồng ý gặp nhau trên đất nước của nhau. Đó là một bước chuyển biến lớn trong quan hệ Do Thái-Ả Rập; hầu hết các nước A-Rập đều không chịu nhìn nhận ngay cả sự hiện hữu của Do Thái. Tổng thống Carter hy vọng có thể lợi dụng được cơ hội này để tạo được một chuyển biến. Ông mời cả hai bên đến Camp David và đích thân bàn bạc với cả hai bên để có một thỏa thuận. Kể từ đó, Hoa Kỳ đã tham dự tích cực trong thương thảo hòa bình của vùng này.

Carter còn đạt được một vài thành công khác về ngoại giao. Ông đã đúc kết một hiệp định vũ khí với Liên Xô. Carter chủ trương vận động cho nhân quyền là nền tảng của chính sách đối ngoại. Ông thương thảo một hiệp ước giữa Hoa Kỳ và Panama nhằm trao trả lại cho Panama quyền kiểm soát vùng kênh đào và sau đó Thượng Viện Mỹ đã thông qua hiệp định này. Tuy nhiên, Carter cũng bị một vài thất bại lớn. Khi Liên Xô xâm lăng Afghanistan vì tưởng từ đó có thể mở ra ảnh hưởng trong vùng Nam Á-Trung Đông, những nỗ lực của Carter là vô hiệu trong việc ép Liên Xô rút lui. Carter cũng lúng túng ở Nicaragua, nơi ban đầu ông tỏ ra thân thiện với chính quyền Sandinista cách mạng, nhưng rồi lại chống lại họ khi chính quyền này liên kết chặt chẽ với Liên Xô và Cuba. 


Khủng hoảng tệ nhất cho Carter là khi Iran trở thành nước Cộng hòa Hồi giáo Iran, giáo chủ Ayatollah Khomeini lên cầm quyền, và người xuống đường đã tấn công vào sứ quán Hoa Kỳ tại Tehran, bắt giữ khoảng 70 người Mỹ (nhân viên ngoại giao và thường dân) ngày 4-11-1979 để đáp lại chuyện Mỹ trước đây ủng hộ và nay cho nhà vua Iran độc tài tỵ nạn chính trị. Sau khi thất bại trong âm mưu giải cứu, Carter quyết định chọn phương cách thương lượng để bảo vệ an toàn cho các con tin. Bởi vậy, mãi đến 444 ngày sau, tức đúng vào ngày tổng thống mới Ronald Reagan nhậm chức và Carter ra đi, con tin mới được phóng thích.

        Giới bình luận chính trị theo dõi cuộc bầu cử tổng thống năm 1980 đã sớm nhất trí rằng Tổng thống Jimmy Carter không có cách gì có thể tiếp tục ở lại Tòa Bạch Ốc bốn năm nữa. Ngay cả trong đảng Dân Chủ của ông, lẽ ra người ta phải ủng hộ một tổng thống đương nhiệm, thế nhưng người ra phá ông chính là em út của cố Tổng thống John F. Kennedy, tức Ted Kennedy (Hiện nay (2023), con trai của cố Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy, tức cháu gọi JFK bằng bác ruột, cũng ra tranh cử với Tổng thống đương nhiệm Joe Biden). Trong cuộc “nội chiến” này của đảng Dân Chủ, Kennedy, vốn nổi tiếng một phần là vì ông là em út của cố Tổng thống JFK, một phần là nhờ “tai nạn Chappaquiddick” 10 năm trước đó ông lái xe giữa đêm rớt xuống cầu làm tử thương một phụ nữ ngồi trên xe, chỉ được 1/3 số phiếu trong vòng sơ bộ của đảng Dân Chủ, nhưng điều này cũng cho thấy Carter không được lòng cử tri Dân Chủ và quan hệ cũng không hay với những người lãnh đạo đảng của ông.


Theo giới bình luận chính trị và lịch sử, đến cuối thập niên 70, nhiều người đã thấy mỏi mệt vì những xung đột trong thập niên qua. Nhiều người cảm thấy không thoải mái và có thái độ phê phán nghiêm khắc nhằm vào những người lãnh đạo chính trị. Jimmy Carter đã tạo sự bất bình – và làm nhiều người thấy khó chịu – khi ông than phiền trong một bài diễn văn là người dân đang bị cuốn hút vào một cuộc “khủng hoảng niềm tin”. “Đó là một cuộc khủng hoảng đánh ngay vào con tim và linh hồn của ý chí dân tộc. Chúng ta có thể thấy cuộc khủng hoảng này thể hiện nơi sự nghi ngờ đang nổi lên về ý nghĩa của cuộc sống của chúng ta và trong sự mất đoàn kết và thiếu mục tiêu của một dân tộc. Sự suy đồi niềm tin vào tương lai đang đe dọa tiêu hủy kết cấu chính trị và xã hội của đất nước”. Người ta gọi đó là một “diễn văn dằn vặt” (Malaise speech), trong khi người dân lại cảm thấy ông chỉ nêu bật sự bế tắc của chính ông và không chỉ ra lối thoát nào cho đất nước. 


Bởi vậy mới có sự đồng tình của cử tri quay qua Reagan để tìm một thử nghiệm mới. Reagan tranh cử với các chủ điểm gia tăng chi phí quốc phòng, thực hiện chính sách kinh tế dựa trên nguồn cung, và thực hiện một ngân sách thăng bằng. Carter chỉ trích Reagan là một phần tử cực đoan khuynh hữu nguy hiểm, và cảnh báo Reagan sẽ cắt Medicare và An sinh Xã hội. 


Tuy nhiên, cử tri Mỹ xem chừng chỉ bỏ phiếu cho người họ lựa chọn thay vì cân nhắc hay tính toán xem người đó nghĩ gì trong đầu. Người dân đã nói rõ sự chọn lựa của mình: Reagan được 489 phiếu cử tri đoàn và 50.8% phiếu phổ thông, trong khi Carter chỉ được 41% phiếu phổ thông và 49 phiếu cử tri đoàn. Đảng Cộng Hòa cũng giành được thế đa số tại Thượng Viện - lần đầu tiên kể từ năm 1952. Chủ nghĩa bảo thủ nay đã có thể bừng dậy!



5/17/23

Bác sĩ Lại Thanh Đức: Ứng cử viên đầy hứa hẹn cho cuộc tranh cử tổng thống Đài Loan năm 2024

Phó Tổng thống Đài Loan kiêm Chủ tịch Đảng Dân Chủ Tiến Bộ (DPP) cầm quyền Lại Thanh Đức (William Lai) làm thế tay trong bài diễn văn tại trụ sở DPP ở Đài Bắc hôm 12/04/2023. Ông Lại sẽ đại diện cho DPP tranh cử tổng thống vào năm 2024. (Ảnh: Sam Yeh/AFP qua Getty Images)
Đảng cầm quyền ủng hộ độc lập của Đài Loan đã đề cử Phó Tổng thống Lại Thanh Đức (William Lai) làm ứng cử viên tổng thống năm 2024 của đảng này trước cuộc bầu cử vào tháng Một năm sau. Những người ủng hộ ông Lại tin rằng ông có thể hàn gắn sự chia rẽ chính trị ở Đài Loan và đứng lên chống lại Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).

Khác với một số chính trị gia Đài Loan, ông Lại không ngại trực tiếp nói về các vấn đề xuyên Eo biển. Ông khẳng định rằng lập trường của chính phủ ông là “chống ĐCSTQ nhưng không chống Trung Quốc” và phản đối việc Đài Loan bị chính quyền Trung Quốc sáp nhập. 

Hôm 12/04, Đảng Dân Chủ Tiến Bộ (DPP) cầm quyền đã chính thức tuyên bố ông Lại sẽ đại diện cho đảng này tranh cử kế nhiệm Tổng thống Thái Anh Văn, người sẽ từ chức sau khi hoàn thành nhiệm kỳ tổng thống thứ hai vào tháng Năm năm sau.

Khởi đầu khiêm tốn 

Sinh ra tại nơi mà ngày nay là Tân Đài Bắc, ông Lại có xuất thân khiêm tốn. Ông không phải là chính trị gia thế hệ thứ hai cũng không phải là hậu duệ của một gia đình có vai vế trong xã hội. Cha ông là một công nhân khai thác than đã thiệt mạng trong một thảm họa khai thác mỏ khi ông Lại mới hai tuổi. 

Ông Lại và năm anh chị em của ông được mẹ của họ nuôi dưỡng. Bà đã phải làm việc cật lực để kiếm đủ tiền nuôi sống gia đình. 

Bất chấp nhiều khó khăn, ông sẽ vươn lên để trở thành một bác sĩ y khoa, nhà lập pháp, thị trưởng, thủ tướng nổi tiếng, và hiện là phó tổng thống, trở thành một nhân vật quan trọng trong chính trường Đài Loan.
Phó Tổng thống Lại Thanh Đức (giữa) vẫy tay chào các phóng viên tại trụ sở DPP ở Đài Bắc sau khi ông nhận được đề cử của DPP để tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống dự kiến hôm 13/01/2024, tại Đài Loan, hôm 12/04/2023. (Ảnh: CNA Photo)

Từ y học đến chính trị 

Ông Lại lấy bằng cử nhân tại Khoa Vật lý Trị liệu của Đại học Quốc lập Đài Loan (NTU), hoàn thành chương trình sau đại học về khoa học y tế tại Đại học Quốc lập Thành Công (NCKU), và lấy bằng thạc sĩ về y tế công cộng tại Đại học Harvard.


Theo hồ sơ công khai của ông, ông là một trong số ít bác sĩ ở Đài Loan có chuyên môn về phục hồi chức năng, chăm sóc lâm sàng, và y tế công cộng. Năm 1994, ông là bác sĩ nội trú chính tại Bệnh viện Đại học Quốc lập Thành Công.


Ông Lại chuyển từ hành nghề y sang làm chính trị trùng với thời phong trào dân chủ hóa của Đài Loan, bắt đầu vào những năm 1990 khi các cuộc bầu cử dân chủ lần đầu tiên được giới thiệu ở Đài Loan. 

Đặc biệt, trong cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan năm 1996, khi Bắc Kinh tiến hành một loạt vụ thử hỏa tiễn ở vùng biển xung quanh Đài Loan, ông Lại đã từ bỏ sự nghiệp y khoa thành công của mình để gia nhập chính trường nhằm theo đuổi nền dân chủ. 

Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội năm đó, ông Lại là người nhận được số phiếu cao nhất để đại diện cho thành phố Đài Nam, một đô thị lớn ở miền nam Đài Loan. Sau khi giành được một ghế, ông bắt đầu thực hiện sứ mệnh bãi bỏ Quốc hội, cơ quan lập pháp mà vào thời điểm đó, nằm dưới sự kiểm soát độc đảng của Trung Quốc Quốc Dân Đảng (KMT).

Sự nghiệp chính trị và thành tích 

Năm 1998, ông Lại được bầu làm một nhà lập pháp đại diện cho thành phố Đài Nam. Trong nhiệm kỳ của mình, ông đã giải quyết hơn 100,000 vấn đề địa phương — một kỷ lục phụng sự chưa từng có vào thời điểm đó. Ông đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cả tính chuyên nghiệp trong quản trị và việc phụng sự cho người dân của mình. Đổi lại, cư dân Đài Nam đã ưu ái bầu ông vào cơ quan lập pháp cho bốn nhiệm kỳ liên tiếp từ năm 1998 đến năm 2010. 

Ông đã bốn lần liên tiếp được chọn là “Nhà lập pháp xuất sắc nhất” của Đài Loan bởi Citizen Congress Watch, một tổ chức bất vụ lợi có trụ sở tại Đài Bắc chuyên đánh giá kết quả làm việc của các nhà lập pháp Đài Loan. 

Năm 2010, quận Đài Nam và thành phố Đài Nam được sáp nhập để tạo thành Đô thị Trực thuộc Đài Nam. Ông Lại đã được bầu làm thị trưởng đầu tiên của thành phố này với hơn 60% phiếu bầu — đây là lần đầu tiên ông ra tranh cử vào chức vụ điều hành.


Ông Lại Thanh Đức (William Lai), lúc bấy giờ là Thị trưởng Đài Nam, thông báo với giới báo chí về tình hình hiện tại của hoạt động tìm kiếm và cứu nạn trong một tòa nhà bị sập trong trận động đất 6.4 độ ở thành phố Đài Nam phía nam Đài Loan vào sáng sớm ngày 09/02/2016. (Ảnh: Anthony Wallace/AFP qua Getty Images)


Ông Lại là thị trưởng duy nhất trong số các thị trưởng thành phố lớn của Đài Loan không sử dụng ngân sách thành phố để thuê một tài xế riêng. 

Ông được xếp hạng là thị trưởng hàng đầu của Đài Loan trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình và được công chúng và giới truyền thông đặt cho danh hiệu “thị trưởng năm sao.” 

Năm 2014, khi ông Lại tái tranh cử chức thị trưởng, ông đã không thành lập trụ sở chiến dịch, dựng biển quảng cáo hay giương cờ, hoặc sử dụng các hãng thông tấn cho các quảng cáo bầu cử của mình, vốn là chuyện thường tình trong các cuộc bầu cử ở Đài Loan. Ông được cho là không muốn làm phiền cư dân thành phố hoặc cảnh quan của đô thị này. 

Mặc dù nhìn chung có ít quảng cáo vận động tranh cử, nhưng ông đã nhận được gần 73% số phiếu bầu cho cuộc tái tranh cử của mình, mức cao nhất trong lịch sử Đài Nam. Trong suốt nhiệm kỳ thị trưởng của mình, ông đã tạo dựng được một danh tiếng về việc điều hành một chính phủ trung thực, tận tâm, và hiệu quả. Theo nhiều hãng thông tấn địa phương, nhiều người đã mô tả ông là một người đàn ông khiêm tốn, vị tha, và chính trực. 

Sau khi giữ chức thị trưởng, ông Lại đã đảm trách vai trò thủ tướng, người đứng đầu Lập pháp viện Đài Loan, từ năm 2017 đến 2019. 

Một hãng thông tấn địa phương của Đài Loan đã tổng hợp các hồ sơ kê khai tài sản của ông và phát hiện rằng ông Lại và vợ đã sống như những người bình thường, vay các khoản nợ thế chấp và trả dần bằng tiền lương làm việc.

Một ứng cử viên có thể hàn gắn sự chia rẽ chính trị ở Đài Loan

 Cuối năm 2019, Tổng thống Thái Anh Văn đã mời ông Lại làm người tranh cử phó tổng thống cùng bà trong cuộc bầu cử năm 2020. Tại thời điểm đó, các cuộc biểu tình chống dẫn độ đang diễn ra ở Hồng Kông và việc bảo vệ nền dân chủ của Đài Loan là quan trọng hơn bao giờ hết trong bối cảnh các mối đe dọa leo thang từ Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). 

Ông Lại đã chấp nhận lời đề nghị của bà Thái, và cả hai đều thắng cử với số phiếu bầu kỷ lục 8.17 triệu phiếu, cao nhất trong lịch sử tổng thống của Đài Loan. Ông Lại đã tuyên thệ nhậm chức phó tổng thống thứ 15 của Đài Loan vào tháng 05/2020.

Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn (phải) và Phó Tổng thống mới đắc cử Lại Thanh Đức (trái) làm cử chỉ bày tỏ thiện ý bên ngoài trụ sở chiến dịch tranh cử ở Đài Bắc vào ngày 11/01/2020. Bà Thái đã tuyên bố chiến thắng trong cuộc bầu cử ở Đài Loan vào ngày 11/01 khi các phiếu bầu được kiểm đếm sau một cuộc bầu cử bị chi phối bởi mối quan hệ căng thẳng của hòn đảo dân chủ này với Trung Quốc. (Ảnh: Sam Yeh/AFP qua Getty Images)

Ông Lại được xem là một người theo phái bảo tồn truyền thống hơn về mặt xã hội so với bà Thái, một người cấp tiến đã đi đầu trong các cải tổ, chẳng hạn như hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới và thiết lập các mục tiêu khí hậu. Những chủ đề này không được công chúng Đài Loan chấp nhận rộng rãi.

Ông Lại đã giữ một lập trường trung lập hơn đối với một số nghị trình cấp tiến hơn của bà Thái mặc dù ông đang là một thành viên trong chính phủ của bà. Các giá trị truyền thống của ông có vẻ phù hợp hơn với người dân Đài Loan, vốn vẫn bảo tồn truyền thống hơn về mặt xã hội so với hầu hết các quốc gia phương Tây.

Ông Lại là một trong những nhân vật chính trị ít gây chia rẽ nhất ở Đài Loan, vì các thành viên của các đảng đối lập đã công nhận và ca ngợi ông là một người “thực tế".


Lập trường về Trung Quốc 

Hồi tháng Một năm nay, ông Lại đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử chủ tịch đảng của mình hôm 15/01, vốn đã được tổ chức sau khi bà Thái từ chức chủ tịch DPP sau thất bại của đảng này trong cuộc bầu cử giữa kỳ hồi tháng Mười Một năm ngoái (2022). 

 Chức vụ chủ tịch sẽ giúp ông nắm quyền kiểm soát chiến lược đối với DPP, mở đường cho nỗ lực tranh cử tổng thống của ông. 

 Tại một cuộc họp báo sau lễ tuyên thệ nhậm chức hôm 18/01, ông khẳng định: “Đài Loan đã là một quốc gia độc lập và có chủ quyền, do đó không cần phải tuyên bố độc lập.” 

 Ông Lại ủng hộ rằng hai bên bờ Eo biển Đài Loan nên tôn trọng và hợp tác với nhau. 

 Năm 2019, ông Lại tuyên bố rằng lập trường của chính phủ DPP là “chống ĐCSTQ nhưng không chống Trung Quốc,” và phản đối việc Đài Loan bị chính quyền Trung Quốc sáp nhập. Ông đã chỉ trích việc ĐCSTQ tìm cách bành trướng và thay đổi trật tự quốc tế. 

 Ông còn nói thêm rằng Đài Loan nên kiên định theo phe dân chủ, đóng một vai trò tích cực trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương do Hoa Kỳ lãnh đạo, và chống lại sự bành trướng của các lực lượng cộng sản. Ông cũng đã kêu gọi Đài Loan giúp thúc đẩy các giá trị dân chủ và nhân quyền ở Hoa lục.

Ngoài lĩnh vực chính trị: Theo đuổi hòa bình và nhân quyền 

Ông Lại rất coi trọng các giá trị phổ quát về hòa bình và nhân quyền. 

 Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2024 tại Đài Nam, ông Lại nhấn mạnh rằng hòa bình là vô giá và không có người chiến thắng trong chiến tranh. 

 Năm 2022, ông Lại đến Tokyo dự tang lễ của cố Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, người luôn xem Đài Loan là một “đối tác quan trọng” và “bằng hữu quý giá” của Nhật Bản.


Ông Abe đã trình bày trong một diễn đàn trực tuyến hồi năm 2021 rằng “nếu Đài Loan gặp bất trắc, thì Nhật Bản cũng gặp bất trắc, và liên minh Nhật-Mỹ cũng gặp bất trắc.” 

Chuyến thăm của ông Lại tới Tokyo đã khiến Bắc Kinh không hài lòng và được xem là một bước đột phá ngoại giao. 

Ông là quan chức cao cấp nhất của Đài Loan đến thăm Nhật Bản kể từ khi Tokyo cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Bắc (Trung Hoa Dân Quốc) hồi năm 1972 và thiết lập các mối bang giao chính thức với Bắc Kinh. 

Trong một cuộc vận động tranh cử tổng thống gần đây, ông Lại cho biết cuộc bầu cử năm 2024 ở Đài Loan không phải là một cuộc đọ sức giữa chiến tranh và hòa bình mà là một cuộc đọ sức giữa dân chủ và chuyên quyền, vốn là bản chất của mối quan hệ xuyên eo biển. 

Nhiều chính trị gia hàng đầu ở Đài Loan e ngại đụng chạm đến các vấn đề nhân quyền nhạy cảm vì sợ chọc giận ĐCSTQ.

Nguồn: Bản tin có sự đóng góp của Xueling Teng và Eva Fu

Nhóm tin tức Anh ngữ Epoch Times Tiếng Việt biên dịch

Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times



BẦU CỬ Tổng Thống năm 2024 tại TaiwanTân Thị trưởng Đài Bắc Hou Yu-ih (Hầu Hữu Nghị) được bầu làm ứng cử viên tổng thống của Quốc dân đảng (KMT).

*KMT : Quốc Dân Đảng, thân Bắc Kinh

New Taipei Mayor Hou Yu-ih (center) salutes at a KMT Central Standing Committee meeting Wednesday. CNA photo May 17, 2023