2/28/23

MÙA BẮT BA KHÍA

Phùng Nhân

        Năm nào cũng vậy, khi tiết trời vào tới tháng Bảy âm lịch, thì cư dân trong làng Lộc Thuận huyện Bình Đại tỉnh Bến Tre họ đã chuẩn (chửng) bị hết rồi. Từ mấy gịa muối hột, chiếc xuồng ba lá, xuồng vịt, ghe tam bảng cho tới cái đèn soi và đá lửa hột quẹt với một chai dầu lửa, đó là tất cả những thứ cần thiết mà người đi soi Ba Khiá cần phải có trong lúc vào mùa.

Ảnh internet
        Riêng gia đình ông Bảy thì đã có một chiếc xuồng vịt từ lâu, đó là một phương tiện sanh nhai cho những người nào đang sống trong vùng sông nước miệt Bến Tre. Nhưng nó đã tróc đường hèm, mấy ngày nay hai vợ chồng ông phải xú dầu chai để mà xảm trét lại.Công việc làm tuy cực khổ, nhưng đó là huê lợi Trời cho hằng năm để kiếm miếng ăn. Hễ tới mùa nào, thì kiếm ăn thứ đó. Nhưng mùa bắt Ba Khiá năm nay, ở trong cái xóm nầy chỉ có hai vợ chồng ông là hăm hở. Còn lại bao nhiêu thì họ lo đi phát đất để cấy lúa mùa, hoặc trồng giồng để kiếm tạm miếng ăn. Vì mắm Ba Khiá coi dễ làm như vậy, nhưng nó hay bị hư. Nếu khi ướp muối hột không đều tay, thì chỉ cần một số con Ba Khiá bị thúi, thì cái mùi của nó cũng sẽ lan dần qua nguyên khạp mắm.

        Con Ba Khiá nó khác với con Nha. Con Nha thì thường làm hang và sống ở trên ruộng, trong bờ, cái mu (mai) của nó có màu hơi đen sậm, cặp càng cũng lớn. Còn con Ba Khiá thì nhỏ con hơn, cái mu có màu hơi tiá lợt, ngoài chót càng màu đỏ ớt chín cây. Nhưng con Ba Khiá thường sống ở rừng mắm, rừng bần, cặp theo những con xẻo sầm uất bóng đêm. Cũng chính vì vậy mà người đi bắt nó, phải chịu cảnh đối đầu với bầy muỗi đói. Có lẻ con Ba Khiá nhờ ăn bông mắm, bông bần mà thịt của nó rất ngon, nên muối làm mắm chừng một tuần lể sau thì bay mùi thơm phức. Còn người nào vừa hết bịnh, thìăn rất mau tiêu cơm. Còn người nào có chửa, thìăn cơm no cành bụng cũng không biết ngán…

Ba khiá (Ảnh internet)
           Thông thường con Ba Khiá và con Nha người ta chỉ có làm mắm, hoặc thỉnh thoảng nấu canh chua với trái đậu bắp mà thôi. Vì khi nấu canh chua thì màu nước hơn đen, nhưng ăn cơm húp vô một miếng thì nghe cái mùi ngọt dịu thâm trầm chạy xuống dài trong bao tử. Nhưng quê tôi ở làng Lộc Thuận cách đây chừng 60 – 70 năm thì Ba Khiá thiếu cha gì, người ta chỉăn cua biển, còn Ba Khiá, Nha thì chỉ có nước xách đèn đi soi về làm mắm, để dành ăn trong những ngày nước rong không thể ra đồng.

        Trưa hôm nay hai vợ chồng ông Bảy lo ăn cơm cho sớm, để đợi tới con nước ròng rồi bơi xuồng đi xuống Rạch Mây. Vì ở nơi đó tới tháng nầy, khi nước lớn đầy mà thì tụi Ba Khiá đeo lên nhánh bần, nhánh mắm thành một màu đỏ chạch.Còn bà Bảy thì lo cụ bị mấy chai nước mưa lượt sạch xách xuống xuồng, sau đó bưng mấy gịa muối hột đổ xuống khoang, rồi chặt thêm mấy tàu lá dừa nước phủ lại. Xong xuôi đâu đó rồi bà nhìn ông hỏi:

- Đâu ba sắp nhỏ coi còn thiếu thứ gì hôn?

        Ông nhìn bà, nói nhỏ:

– Bà lo mấy vung giấy quyến, với gộp thuốc rê cho tôi. Vì thiếu nó thì tui không chịu nổi…

        Hai vợ chồng ngồi bàn tính một hồi, thì con nước ròng từ con rạch Cả Muồng bắt đầu chảy xuôi ra biển cả.Ông nhìn bà hối:

Má nó coi còn thiếu thứ gì hôn. Nếu không thì mình đi cho kịp nước.

        Trong lúc bà đi lấy cây dầm, còn ông Bảy thì lo đi xách cây đèn dầu chai. Vì chỉ có loại đèn nầy khi đi ra gió thì không sợ tắt. Hai vợ chồng xuôi theo con nước mà bơi. Thỉnh thoảng ông Bảy cũng cất giọng ca bài vọng cổ. Bà Bảy thì ngồi trước mũi xuồng nhìn trời rộng bao la. Một buổi trưa tháng bảy thật buồn, khi đi ngang qua voi đất của ông Bộ Hùng. Bất ngờ có tiếng chim Bìm Bịp kêu lên rất làãm đạm. Bà nhìn ông nói nhỏ:

Ba sắp nhỏ à. Nghe tiếng chim Bìm Bịp kêu làm cho tôi chạnh nhớ tới hôm năm rồi, cũng tới mùa mắm mình bơi xuồng đi lên chợ Mỹ Tho ngồi bán mắm Ba Khiá. Mình có nhớ hôn, xém một chút nữa thì tui bị tụi “bối” nó móc túi hết tiền rồi. Từ đó đền nay hễ mỗi lần đi tói chỗ đám đông, thì tui cứ bịn miệng túi vậy thôi cứng ngắt.

        Ông phà hơi thuốc rê bay ra, rồi nói:

– Mai mốt bà may một cái ruột tượng mà đeo. Tui thấy làm như vậy thì chắc ăn dữ lắm, chớ còn gài kim gút thì đối với tụi bối có nhầm nhò gì…

        Bà Bảy cười cười, rồi cãi lại:

– Ý… đâu có được ông. Đó là đàn bà Bắc Kỳ, còn tui Nam Kỳ cuốc làm như vậy thì bị họ nói…

        Hai vợ chồng nói chuyện dần lân một hồi thì chiếc xuồng bơi theo con nước cũng ra khỏi họng vàm con rạch Cả Muồng, từ nơi đây đi xuống tới Rạch Mây chắc cũng còn xa hơn 7 cây số. Con sông Ba Lai khúc nầy tuy không lớn, nhưng là một khúc sông nguy hiểm cho những ghe xuồng. Vì thường có những cơn sóng dữ nổi lên mà không báo trước, nên những người đi quơ củi, hay đi qua sông họ rất sợ ở chỗ nầy, nhưng rồi cũng phải đi qua. Vì phía bên kia là xã Bình Khương, chạy dài xuống tới Tân Xuân là một dãy rừng Chà Là bất tận, còn cặp theo hai mé xẻo thì dừa nước mọc tối trời. Chỉ cần chóng chiếc xuồng vô đây, đốn cây cà bắp rồi róc lạc ra chở về bán cho mấy vựa lá cũng đủ gạo ăn. Còn người nào có ghe lớn, thì họ đốn chà là vác chất xuống ghe, rồi chở đi lên mấy vựa cây ở Mỹ Tho bán lại. Nhờ vậy mà con nhà nghèo cũng sống đắp đổi qua ngày. Còn cua cáở trong miệt đất nầy biết bao nhiêu mà kể…

        Ông Bảy thấy nước chảy xuôi cũng không có gì gấp rút, nên ông ngừng tay rồi vấn một điếu thuốc rê, sau khi le lưỡi liếm cho hai đầu giấy quyến nó dính chặc với nhau rồi đưa lên môi bập. Bập xong mấy cái, ông thấy khỏe trong người, vì chất thuốc xua tan cơn buồn ngủ đang làm cặp mắt sụp mi. Buồn tình quá ông bắt đầu ca vọng cổ. Bài Phạm Công Cúc Hoa là bài ruột, nên ông nói lối rồi xuống giọng thật mùi. Khi tới chỗ bà mẹ ghẻ là bà Tàu Thị bắt con chồng, là hai anh em Nghi Xuân, Tấn Luật đi chăn trâu làm cho bà Bảy rơi nước mắt, nên bà bệu bạo nói:

Ba sắp nhỏ nó à. Nếu mai mốt tui có chết trước, ông có bước đi thêm bước nữa không? Chớ nghe trong bài ca vọng cổ vừa rồi, làm cho lòng của tui buồn dữ lắm

        Ông Bảy nhìn bà cười, rồi nói:

– Tui đương thèm bước, mà tui nhảy cho mau. Bài ca nầy người ta đặc theo sự tích bên Tàu chưa chắc gì có, mà chỉ cốt khuyên răn người đời, ăn ở với nhau cho có nghĩa có tình. Chỉ có vậy mà bà cũng rơi nước mắt!

        Bà cự lại:

– Ông nói. Phải có tích mới dịch ra tuồng. Chuyện mẹ ghẻ con chồng là chuyện xưa nay. Tui nói vậy chắc ông đã hiều…

        Là vợ chồng ăn ở với nhau có tới mấy mặt con, nên ông đã hiểu cái tánh của bà rất là đa cảm. Tuy là dãi nắng dầm mưa, nhưng bà cũng còn giữ được cái nếp sống của con nhà giàu, nhờ vậy mà căn nhà lá của ông tuy nền đất nhưng lúc nào cũng gọn gàng ngăn nắp trước sau. Ông bèn giả lả:

– Tui nói giỡn với má nó cho vui. Hai vợ chồng tụi mình sẽ sống với nhau cho tới khi đầu bạc răng long, chớ đâu có chuyện gì mà lo xa dữ vậy.

        Bà Bảy đưa tay lên chậm nước mắt, nói:

– Ba sắp nhỏ nó à. Mình ráng làm năm nay Tết may cho mấy đứa nhỏ mỗi đứa một bộ đồ mới để đi mừng tuổi ông bà. Hồi năm rồi nhìn thấy mấy đứa con, mặc đồ cũ mà tui buồn rơi nước mắt…

        Trời bắt đầu sẩm tối, từng lượng sóng nhấp nhô vỗ lách chách dưới mạn xuồng. Ông Bảy hối:

– Má nó ráng phụ bơi mạnh tay một chút nữa đi. Nếu đi trễ gặp nước ngược thì rất mệt…

        Chiếc xuồng lầm lũi rẻ nước mà đi. Nó đã bỏ lại con kinh Giồng Kiến, xẻo Cây Cui, Rạch Gừa, Rạch Vọp, Bà Trang. Nhưng vì xuồng cũ, nước rịn đường hèm tràn vô ngó thấy. Ông Bảy nói:

– Má nó ngừng tay lo tát nước dùm tui, đừng để nước rịn vô, rồi làm muối hột của mình tan ra uổng lắm. Để tôi lủi vô voi đất, má nó xắn cục đất vẻo, rồi vò lại trét đỡ chỗ nào nước mội rịn vô. Đi chuyến nầy về nhà kéo lên ụ, tui mua dầu chai lấp thêm một lớp nữa, còn không thì mấy lá be nầy sẽ mụt hết…

        Tiếng gào tát nước lách chách trong bóng tối lờ mờ tạo ra một âm thanh buồn thảm lạnh lùng. Thỉnh thoảng tiếp đập muỗi vang lên bốp chát âm thầm, để đánh thức bóng đêm, rằng đã có một chiếc xuồng đang bơi tới đây để soi Ba Khiá. Khi tới họng con Rạch Mây, ông Bảy nhẹ tay dầm, rồi tìm chỗ cấm xuống cột dây ngồi trên xuồng đợi nước. Con nước lớn từ từ chảy tới, mang theo cả sự sống của muôn loài, trong đó có cả loài người, nên xứ nào mà xa biển, không có sông nước mênh mông thì sẽ không phát triển.

        Câu ca dao mà người dân ở đây hay hát “xứ nào vui cho bằng bằng xứ cạnh Đền, muỗi kêu như sáo thổi, vậy chớ đỉa lền tợ bánh canh”. Còn đêm nay, ở ngay chỗ Rạch Mây nầy.Hai vợ chồng ông Bảy không biết nó có thua kém gì hôn. Chớ mỗi khi đêm xuống, thì tiếng muỗi kêu cũng là sầu thảm. Ông nhìn bà nói:

– Má sắp nhỏ coi quấn lại cái khăn cho bít cần cổ nghe. Còn tui thì coi lại cây đèn. Mình bắt đầu chóng xuồng vô, đi tới đâu bắt nó tới đó. Nếu chưa đầy xuồng, khi trở ra thì mình bắt tiếp…

        Bà nhìn ông nói trong bóng đêm:

– Hình như nước chưa đầy mà ông…

        Ông Bảy nói:

Tui biết. Nước lên tới cỡ nầy thì tụi Ba Khiá đã bị ngập hang rồi, bây giờ tụi nó đang đeo nhánh mắm, nhánh bần mà nhí nha nhí nhảnh hò hẹn với nhau.

        Trong bóng đêm dưới ánh trăng non đang rựng mọc ở phía chân trời, có một chiếc xuồng đang lách mình chun vô con Rạch Mây âm thầm không tiếng động. Khi đi qua khỏi hai cái voi đất, thì ông Bảy một tay cầmcây sào, một tay quơ cây đèn chai lên mấy nhánh cây, rồi nói:

– Có Ba Khía rồi bà. Coi mòi cũng bộn à…

        Nói xong ông quơ cây sào lên cháng cây, từng cặp Ba Khiá đang ôm nhau tình tự buông tay rơi xuống. Những tiếng rớt nghe lộp độp trong xuồng, làm cho hai vợ chồng bà cảm thấy rất vui. Chừng vài giờ đồng hồ sau, thì sẽ đầy xuồng chớ không có ít. Lâu lâu ông Bảy cũng hạ cái đèn dầu chai rọi xuống khoang xuồng, để cho bà Bảy cầm cái mo cau xúc muối hột rải lên, khiến cho mấy con Ba Khiá ăn muối nằm yên mà chịu trận.

        Càng vô sâu chừng nào thì Ba Khiá nó hội rất nhiều, trên những chạc cây chỉ toàn một màu đỏ nhờ nhờ trong bóng tối. Nhưng muốn gạt cho tụi nó buông tay, thì phải là người có kinh nghiệm với nghề làm mắm nầy. Còn không, gạt nó không rớt mà còn làm động ổ tụi nó rút đi mất hết.

        Con Ba Khiá trong mùa nầy rất sạch, vì khi nước lớn ngập hang thì tụi nó bò ra, rồi tắm rửa giỡn hớt một hồi, sau đó mới bò lên nhánh mắm, nhánh bần hội tụ. Rồi tụi nó làm chồng làm vợ với nhau, sau đó con cái mang bầu, cái yếm của nó mang một chùm trứng để chờ sanh nở. Dòng đời như vậy cứ tiếp tục xoay dần, nếu con người không tàn phá đến thiên nhiên, thì thiên nhiên sẽ nuôi sống con người thật là phong phú.

        Công việc làm coi vậy mà cũng mệt rất nhiều, nên ông Bảy chóng cây sào nghỉ mệt một chút cho đỡ mỏi tay, rồi ông vấn một điếu rêđưa lên môi bập. Ông nhìn bà Bảy, hỏi:

– Má nó làm một điếu nghen…

        Bà Bảy trả lời:

– Ừ… ông vấn cho tui một điếu bập cho vui. Chớ muỗi nó bu vào hai mang tai cắn chắc là sần mình sần mẩy.

        Rồi công việc tiếp tục, khi chiếc xuồng Ba Khiá khẩm muốn lừ đừ ông Bảy nghỉ tay. Nhìn bà nói:

Đủ rồi má sắp nhỏ à…

        Trong bóng đêm hai bàn tay của bà rất là thuần thục. Bà rải thêm một mớ muối hột phủ kín con Ba Khiá, rồi lo rửa tay cho sạch sẽ mới lấy mấy cục cơm nếp ép gọn trong cái mo cau. Sau đó chòm người tới đưa cho ông. Hai người vừa ăn vừa đập muỗi. Tiếng nhai cơm nếp, hoà lẫn với tiếng xào xạc của rừng cây, đã tạo ra một âm thanh kỳ lạ đến rợn người. Chỉ có những người nghèo khổ, vì kế sanh nhai, mà phải bơi xuồng đi trong đêm tối.

        Chiếc xuồng quay mũi trở ra, khi tới vàm xẻo thì nước đã vựt ròng, nên hai vợ chồng phải chóng cái xuồng đi tìm voi đất rồi cấm lại. Hai vợ chồng ngủ ngồi một giấc cho quá nửa đêm, khi con nước lớn đẩy chiếc xuồng nổi lên trên mặt nước.

        Hai vợ chồng đều tỉnh ngủ, vấn mỗi người một điếu thuốc bập cho vui. Cũng chính vì những thói quen nầy, mà mấy người đàn bà nhà quê họ thường hay ghiền thuốc.Chiếc xuồng vẫn êm ái nhẹ nhàng lướt đi trên một khúc sông im ắng đến lạnh người. Thỉnh thoảng cũng có tiếng cá Sửu, cá Chẻm, cá Đối, cá Chim táp mồi trong bãi bần vang lên lồng lộng. Ông nhìn bà nói:

– Ráng làm để dành tiền ra giêng tôi sắm ít giềng câu. Tui với má nó bơi xuồng xuống đây giăng câu cũng đủ sống.

        Tiếp theo sau đó là một tiếng thở dài. Vì thời buổi nầy lưỡi câu và dây nhợ nó mắc vô phương, con nhà nghèo thì đừng có mong mơ tưởng. Khi bơi xuồng về tới nhà thì trời cũng hừng đông, cho dù cực khổ tới đâu, hai vợ chồng cũng ráng làm cho xong việc.

        Ông Bảy lẹ làng nhảy lên bờ cột dây xuồng, rồi xúc từng rổ Ba Khiá đầy vun, bưng vô đổ đầy trong mấy cái khạp da lươn, xong cái nào ông xúc muối hột rắc lên rồi dùng thanh tre gài lại. Bốn cái khạp da lươn đầy ắp mắm Ba Khiá để một dãy sau hè, còn cạnh đó là mấy máy vú nước mưa, mà bà Bảy đã dầm mưa hứng cho đầy rồi đập nắp lại để dành uống trong mùa hạn hán.

        Hai vợ chồng ông Bảy sau đó ngủ một giấc sảy tay, tới chiều thì mới thức dậy lo nấu cơm cho sắp nhỏ. Một bầy con như một tổ chim non, đang nằm trong ổ chờ mồi. Chớ tụi nóđâu có biết rằng, muốn có một miếng mồi để móm cho con, thì chim mẹ phải lặn lội suốt ngày nơi đồng vắng.

        Mới đó mà một tuần lễ trôi qua, bà Bảy đi ra sau hè giở mấy khạp mắm ra thăm thử, thì hởi ơi mấy khạp mắm đã khẩm mùi. Cái nầy mấy người làm mắm họ thường nói mắm bị hư, nên trong ruột gan bà Bảy bắt đầu bấn loạn. Lúc đó thì ông Bảy không có ở nhà, chắc đang tán dóc với anh em, nên bà lật đật bắt một cái trả lên trên bếp lửa, rồi xúc muối hột đổ vào. Đợi cho nước sôi vài dạo bà hớt bọt cho trong, rồi san ra từng ãng nấu thêm ba trả nữa.

        Công việc làm tuy có mệt nhưng bà cũng phải ráng hết sức mình, có tận thiên mệnh mới truy ra số phận. Bà vớt từng thúng Ba Khiá ra để trên giàn cho ráo nước, rồi bà sắp trở vô, đợi nước muối nấu thiệt nguội rồi đổ vô gày lại. Vừa lúc đó thì ông Bảy về tới, hỏi:

– Vậy chớ má sắp nhỏ làm cái gì mà coi mệt vậy?

        Bà vừa thở, vừa than:

– Mấy khạp mắm Ba Khiá bị hư hết rồi ông ơi!

        Ông Bảy ngồi xuống cái giường cây, rồi nói nhỏ:

– Để tui đái vô khạp cho nóthơm trở lại nghen bà…

        Bà Bảy la lên:

– Ý … đâu có được ông. Ai bày ông vậy hả?

– Tụi thằng Tư Sai, Ba Điểu, Bốn Hoằng, Năm Khạp. Mấy ông nầy chuyên môn đi chèo ghe mướn cho xứ Cà Mau, tụi nó nói từ miệt rừng U Minh Hạ, Năm Căn mà chèo lên tới Sàigòn cũng gần mười bữa. Chủ ghe mắm họ biểu mấy ông nầy, hễ mắc đái, thì cứ đái trong ghe. Nhờ nước đái, mà mắm Ba Khiá ngon dữ lắm…

        Vừa nghe qua bà Bảy cự lại liền:

– Đồ ăn của người ta, mà mấy ông nhậu rồi nói bậy không sợ tội. Tui đã nấu nước muối để nguội gày lại kỹ rồi.Đợi một tuần lễ nữa thì sẽ hay, nều không được ngon, thì tôi gày thêm vài tháng nữa cho rã thịt. Sau đó tui chịu cực nấu làm nước “mắm đồng” để dành ăn cũng được cả năm. Chớ ai đâu mà tin những điều tầm bậy…

        Hai vợ chồng ngồi nói chuyện láp giáp một hồi thì cũng làm thinh. Bởi trong cái đạo vợ chồng, sự yêu thương không cần lời nói. Mà phải bằng hành động, hai người phải hiểu nhau, người nầy nói, người kia lắng nghe, thì trong đó sẽ có sự yêu thương bền chặt.

        Gà buổi trưa trong xóm bắt đầu gáy vang lên lồng lộng, xen lẫn với tiếng cục tác của mái tơ, chắc đang tìm ổ để đẻ lứa so, nên tiếng cục tác của nó rất là vồn vã. Cặp theo bờ đất con rạch Cả Muồng, là một dãy đất rộng mêng mông. Nhưng dường như tất cả là của tụi Chà Đò (Chà Và), mà người dân ở nơi đây do tổ tiên để lại, hoặc khai phá sau nầy nhưng vì thua bài bạc, hoặc chạy chức ông Tổng ông Cai, nên lần lượt đi vay hỏi tụi Chà Đò, khi quá hạn trả thì bị tụi nầy qua bộ…

        Con kinh Cả Muồng vẫn trầm mặc với tháng năm, vẫn có những cái búng sâu cho cá tôm về trú ngụ. Nhưng muốn bắt được thì phải có miệng chài, hoặc mấy đường câu. Chớ còn đi nom, đi xúc thì chỉ đủ ăn chớ không khá được. Riêng về cửa nhà ông Bảy, nhờ có mấy bụi tre gai. Khi cây tre đã già, thì ông đốn xuống rồi đem ngâm dưới bùn chừng 6 tháng. Sau đó chẻ ra rồi bện đăng làm lọp, làm giẹp, làm bung. Nhờ vậy mà tới nước rong ông đem gày trên họng xẻo, hoặc mấy con mương, còn tới nước kém thì đem gày dưới búng.

        Mới đó mà mấy khạp mắm của bà Bảy cũng đủ cử mười ngày, trưa nay bà mới giở nấp ra thăm, một mùi thơm của mắm bay ra thật là dễ chịu. Bà liền khom người xuống, bợ mấy tảng đá cục bỏ ra, rồi giở từng nan tre sắp ra trên cái ảng. Bà bốc ra mấy con để thử trên cái dĩa bàn, rồi bẻ từng cái chèo của nó rút ra. Quả thật đúng như bà dự đoán, từng cái chèo rút ra có kèm theo cả bắp thịt còn nguyên bóng lưởng, đó là dấu hiệu của con mắm đã trở mình. Bà liền đưa lên miệng nếm thử. Tuy hương vị không được đậm đà như mấy kỳ mắm vừa rồi. Chớ nó cũng ngon, như vậy thì đem ra chợ bán được rồi, hoặc gánh đi lên chợ Vang Quới bán, hoặc đổi dừa khô về nhà thắng dầu dừa để dành xức tóc cho mượt cũng được.

        Bà giở ra thăm mấy khạp mắm xong xuôi, khạp nào cũng bay mùi thơm rất nhẹ. Bà liền bắt ra chừng một chục có đầu, sau đó bà đi ra trước giồng quằn nhánh khế chua thấp xuống, rồi hái đem vô năm trái. Khi đi ngang qua lảnh rau, tiện tay bà ngắt một nắm rau râm đem vô rửa sạch, rồi ngồi xuống ghế xắt lát mấy trái khế chua bỏ chung vô trong cái tượng hột xoài.

        Bà chậm rãi tách mu Ba Khía ra, gỡ bỏ cái yếm xong, bà bẻ từng cục nhỏ ra trông rất là bắt mắt. Xong xuôi mấy việc đó, bà mới đi hái hai trái ớt sừng trâu, đem vô xắt nhỏ cùng vài ba tép tỏi. Bà bầm lộp cộp một hồi, rồi đổ vô hết trong tô. Sau đó cầm đũa lên trộn cho đều, rồi đậy nấp lại đợi cho nó thấm.

        Vừa lúc đó thì ông Bảy đi đâu về tới, hỏi:

– Má sắp nhỏ làm gì đó. Cơm nước gì chưa?

        Bà Bảy trả lời:

– Đang bẻ mấy con Ba Khiá ra trộn đặng một lát ăn cơm. Còn ông đi đâu cho tới giờ nầy mới dìa (về)?

        Ông Bảy mặt buồn hiu ngó mong ra cửa, rồi nói:

– Đi lại nhà ông Ba Điểu chơi, định một lát rồi về. Gặp mấy thằng chả đang cáp độ gà, nên tui ở lại…

        Bà sanh nghi, hỏi tiếp:

– Ăn hay thua?

– Thua hết $10 đồng bà ơi…

        Bà nhìn ông, nói:

– Sao ông không biết phận mình. Như vầy thì làm sao để dành tiền mua áo mới cho con, với còn phải sắm mấy giềng câu và một miệng chài nữa chớ!
    
        Ông Bảy biết mình có lỗi, nên nói nhỏ:

– Thôi việc đó nó cũng đã lỡ rồi. Má nó bỏ qua cho tôi đi. Từ đây về sau tôi hứa, không bao giờ như vậy nữa…

        Bà Bảy nghe một niềm sung sướng âm thầm đang thấm dần trong ruột trong gan. Vì phận gái mười hai bến nước, bà đã may mắn cặp được bến trong, mặc dầu hiện tại còn nghèo. Nhưng nếu hai vợ chồng chịu cực ráng làm ăn, thì nuôi tụi sắp nhỏ ăn học để sau nầy làm một ông thầy giáo, nên bà nhìn ông nói:

– Thôi mình rửa tay rồi ăn cơm với tui. Coi cái tài của tui sửa mắm Ba Khiá trở có chiến không. Từ nay trở về sau, nếu bị mắm trở thì mình không còn phải lo xa nữa…

        Ngoài trời cơn nắng buổi xế chiều rắc xuống mặt đất nóng ran, trên nhánh cây mù u trước nhà có mấy con cu gù nhau rất là tình tứ. Thỉnh thoảng tụi nó cũng đạp mái với nhau, đã tạo ra mấy tiềng động lào xào, khi hai cái chưn con cu cườm đang bươi trên lưng con cu mái. Một tiếng động đó rất bất ngờ, rất âm thầm trên những chảng cây cao, chỉ có người dân ở thôn quê mới nghe và thấy được. Bất giác ông Bảy cười khan rồi nói một mình. Con Cu nó chết với nhau vì tiêng gáy…/-

Đại Học Đà Lạt 1970 - Khóa 7 CTKD Kỷ Niệm 50 Năm Nhập Học - Những Ngày Xưa Thân Ái

 
Nguồn:
nhathunhan@googlegroups.com

2/26/23

Nhà sư và linh mục


Chùa Bảo Sái - Việt Nam linh thiêng Cổ Tự
Linh mục Nguyên Khải vừa lên tới chân núi Yên Tử thì trời mưa tầm tã. Núi Yên Tử thuộc xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, là một dãy núi cao nằm ở phía đông bắc Việt Nam. Mặc dù Cha Khải có mang theo chiếc ô, vừa che mưa che nắng vừa làm gậy phòng thân, nhưng đụng phải cơn mưa giông, sấm sét rền trời buộc ông phải lách mình vô sơn động núp mưa. Vừa bước vào cửa động Cha Khải suýt dẫm phải con rắn hổ mang bành dài khoảng 6m nằm chắn ngang đang nuốt con rắn lục to bằng hai ngón tay. Đúng lúc đó con chim bồ câu trắng sà xuống đậu trên cành muỗm gần chỗ Cha Khải đứng. 
Con bồ câu vẫn nhận ra ông. Nó kêu cúc cúc, đưa cặp mắt màu hồng tươi lúc ngúc cái đầu nhìn ông. Như những lần trước, khi Cha Khải vừa tới lưng chừng núi ghé am cổ tự Bảo Sái thăm sư Lâm Mộc là con bồ câu xuất hiện như đại diện nhà sư chào đón khách phương xa. Lần nào cũng thế, Cha Khải nhẹ nhàng vuốt đầu nó, thì thầm với nó đôi câu xong là nó bay đi ngay. Năm ngoái, lúc nghỉ chân nơi am Ngọa Vân, Cha Khải đã kịp thời cứu con bồ câu thoát khỏi móng vuốt chim ưng. Lúc đem nó vô chùa, sư Lâm Mộc thấy đốm lông xám trên đỉnh đầu chim nên sư đặt tên là Lam câu và nuôi dưỡng nó đến nay.

Chùa Bảo Sái, xưa kia là một cái am thô sơ được Thiền sư Bảo Sái, đệ tử của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, dựng nên. Vì am cổ tự nằm cheo leo bên vách núi Yên Tử nhiều lần bị sụt lở vì mưa bão, về sau trải qua những biến đổi thăng trầm dần hồi am được trùng tu thành chùa mang tên của Thiền sư Bảo Sái.

Theo dòng thời gian mãi đến cuối thập niên 1930, một hôm chùa Bảo Sái tiếp nhận một đạo sư lang thang lạ mặt. Trang phục của sư thật giản dị, nhiều phần chắp vá và rách rưới. Ông mang đôi giầy vải, cổ đeo tràng hạt lớn, trên vai quàng một tấm vải nâu, râu ria lờm xờm. Cái thân hình hộ pháp trông dữ tợn nhưng ánh mắt thật hiền từ, nồng ấm. Điểm nổi bật ở ông là uyên thâm đạo pháp. Đó là nhà sư Lâm Mộc, đến rồi đi, như con giao long ẩn hiện rầy đây mai đó. Sư vân du khắp nơi, hoằng pháp khắp xứ Bắc kỳ, mùa mưa mới âm thầm trở về chùa. Sư Lâm Mộc là một cao tăng không chủ trương ở chùa. Ngay từ thuở thiếu thời, chịu ảnh hưởng cuộc sống cách mạng chống thực dân Pháp của bố mẹ nên sau một thời gian dài ẩn tu thành tựu tì kheo sư Lâm Mộc đã vân du hoằng pháp đó đây, coi trời đất là nhà, trần gian là chỗ tạm dung. Hằng năm vào mùa mưa, sư Lâm Mộc mới trở về chùa Bảo Sái náu mình trong kho củi ở khu vườn đá phía sau chùa.

Thỉnh thoảng vào trung tuần tháng Sáu, linh mục Nguyên Khải từ giáo phận Vinh lặn lội đường xa vượt núi, đội mưa ghé thăm sư Lâm Mộc vấn an sức khoẻ, thăm hỏi sự tình. Sư Lâm Mộc và linh mục Nguyên Khải có cùng một huyết thống. Hai ông là con sinh đôi của nhà cách mạng Nguyễn Khúc Thụ, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, mẹ là bà Đỗ Thị Nâu thuộc đội hậu cần của Đảng trưởng Nguyễn Thái Học.

Năm 1930, ông Nguyễn Khúc Thụ hy sinh tại Yên Bái trong cuộc Tổng Khởi Nghĩa rạng mồng 10 tháng 2 năm 1930, chiều cùng ngày bà Nâu bị mật thám Pháp treo cổ trong nhà bếp của Cô Giang, người bạn đời chung thủy của Đảng trưởng Nguyễn Thái Học.

Cuôc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng thất bại, Nguyễn Thái Học cùng 12 nghĩa sĩ bị đưa lên đoạn đầu đài ở Yên Bái. Hai hôm sau, Cô Giang, tức nữ chí sĩ cách mạng Nguyễn Thị Giang, đã âm thầm trở về làng Thổ Tang tự sát bằng khẩu súng lục của Nguyễn Thái Học đã tặng cô ở đền Hùng ngày nào. Riêng Cô Bắc, em ruột của Cô Giang, cùng các nghĩa sĩ bị bắt đi tù 5 năm cấm cố. Nguyễn Thị Bắc qua đời năm 1943, khi mới 35 tuổi.

Lúc 13 anh hùng Việt Nam Quốc Dân Đảng bị xử chém thì một số đồng đảng thân cận của Nguyễn Thái Học may mắn chạy thoát khỏi sự săn đuổi của mật thám Pháp. Trong cuộc săn đuổi đó có hai người thanh niên tuổi vừa 20, cũng là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, hoạt động tích cực cho mục đích đấu tranh giành độc lập dân tộc, tức nhà sư Lâm Mộc và linh mục Nguyên Khải sau này.

Để tránh bị sát hại, hai ông đã phải thay tên đổi họ, chia tay nhau được các nghĩa sĩ bí mật gởi vào nương náu nơi cửa Phật ở Sầm Sơn và nhà thờ Chúa ở Ninh Bình.

Dòng đời cứ thế trôi mau. Thỉnh thoảng các nghĩa sĩ sống sót âm thầm trở về chốn thanh tu vấn an hai vị tu sĩ, nhưng dần hồi không còn thấy họ trở lại nữa. Dù vậy, cả nhà sư và linh mục đều nương vào đấng tối cao để sống còn. Họ không để oán thù dầy xé hoặc đau buồn quật ngã, vẫn hành trì đạo pháp.

Mười năm sau, lúc sư Lâm Mộc đi hóa duyên ngang qua nhà thờ đá Phát Diệm tình cờ gặp Cha Nguyên Khải vừa từ giáo phận Vinh trở về nhà Chúa. Sư và Cha vừa giáp mặt nhau trước cửa Chính Tòa, cả hai đều sửng sốt trố mắt nhìn nhau như thể hai ông đang nhìn vào chính bản thể mình. Là anh em sinh đôi nên họ giống như hai giọt nước, ngay cả các giáo dân của Cha Khải cũng ồ lên kinh ngạc. Từ khi trở thành tu sĩ, hai ông đều đi khắp nơi vừa truyền bá đạo pháp vừa âm thầm dò la tung tích người thân, kết cục cả Cha và Sư không thể ngờ lại có ngày tri ngộ ở Giáo xứ này. Thoáng nhìn qua, sư Lâm Mộc biết ngay đây là sư đệ thất lạc của mình lúc chạy loạn, nhưng sư rất trầm tĩnh, âm thầm niệm hồng danh đức Phật thế tôn. Còn linh mục Nguyên Khải, qua những hoạt động mục vụ của nhà thờ, bản tánh thoáng hoạt hơn, Cha buột miệng nói rất khẽ: “Lạy Chúa tôi! Sư huynh...”. Từ đó, khi có dịp thỉnh thoảng Sư xuống núi hoặc Cha lên núi vấn an nhau. Là bậc tu hành của đấng đại trí đã giác ngộ, Cha Nguyên Khải và Sư Lam Mộc lấy đức báo oán, lấy bác ái của trí nhân làm hướng đi và lấy máu mủ tình thâm mà thăm hỏi sự tình.

Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Đông Dương chống thực dân Pháp tạo nên cảnh loạn lạc, đói kém, bệnh tật và chết chóc khiến sự đi lại của công chúng bị trở ngại và hạn chế rất nhiều Năm 1954, sau khi quân Pháp thất thủ tại Điện Biên Phủ, Hiệp Định Genève được ký kết chấm dứt chiến tranh Đông dương, chia đất nước ra làm hai tại vỹ tuyến 17, đưa đến cuộc di cư vĩ đại vào miền Nam Việt Nam từ tháng 8-1954 đến tháng 5-1955. Trong những cộng đồng Thiên chúa giáo miền Bắc dưới thời Pháp thuộc, các linh mục giữ vai trò lãnh đạo về dân sự và tinh thần.

Cuộc di cư 1954 là một cuộc di cư lịch sử của khoảng một triệu người dân miền Bắc (đa số là người Công giáo) đã ra đi trên những chuyến tàu há mồm do Mỹ và Pháp thực hiện. Trong tất cả những chuyến tàu di cư không tiền khoáng hậu đó không có mặt linh mục Nguyên Khải và sư Lâm Mộc

***
Tôi, người được nghe kể câu chuyện này mà tâm không ngớt dao động. Năm ngoái từ Huế, nhóm Phật tử chúng tôi đã làm một cuộc hành hương ra Hà Nội, từ đó đi xe đò ra Ninh Bình dài khoảng 90km ghé thăm nhà thờ chính tòa Phát Diệm (còn gọi là nhà thờ đá), hôm sau vượt núi Yên Tử lên viếng chùa Bảo Sái. Điểm đặc biệt của nhà thờ đá Phát Diệm được khởi công xây cất từ năm 1875, tuy là nhà thờ Công giáo nhưng lại kiến trúc theo hình thể chùa chiền.

Viếng nhà thờ Phát Diệm, cá nhân tôi chỉ là khách thập phương không có ý dò hỏi, hay mạo muội tìm kiếm dấu vết của linh mục Nguyên Khải. Nhưng chiêm ngưỡng giá trị trăm năm của nhà thờ đá tôi có cảm tưởng như Cha Khải vẫn bàng bạc đâu đó, trong nhà nguyện, trên tường đá hay dưới chân tượng Đức Mẹ Hằng Sống.

Còn chùa Bảo Sái, sau nhiều công trình trùng tu trải dài theo năm tháng, nay đã được mở rộng, gồm chánh điện, nhà Tổ, tượng Phật Bà Quán Thế Âm, tượng Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn, tượng Thiền sư Bảo Sái, tượng hổ, giếng thiêng và vườn đá phía sau chùa.

Khi lần vào vườn đá, tôi đứng lặng trước biến thiên của dòng đời. Nhà củi, nghe nói nơi nhà sư Lâm Mộc từng cư ngụ, không còn nữa. Tuy vậy, cái nền đất hoang phế cỏ mọc vẫn không phủ lấp hết những thanh củi dựng theo chiều đứng của mô đất. Những thanh củi rêu phong, mục nát, có vẻ như cam chịu nhưng vẫn đứng nghiêng mình theo tuế nguyệt dần qua.

Ở đời có nhiều bậc anh hùng vì nước mà hy sinh, trong đó có những người sống âm thầm như chiếc bóng và chết đi trong vô danh. Nhưng cũng có những người vì hoàn cảnh buộc phải rời khỏi vòng gươm giáo, như sư Lâm Mộc và linh mục Nguyên Khải, với tấm lòng nhân ái mang lại lợi ích cho người, tặng cho đời những suy nghĩ tốt lành, những việc làm dễ thương, họ không là Thánh nhân thì cũng thành nhân.
Phan Ni Tấn

2/25/23

TÔI là Người Nước Nào ?!

 Đỗ Chiêu Đức hiện nay 2023
    Dĩ nhiên, tôi là Đỗ Chiêu Đức, được sanh ra ở xã Thường Thạnh và lớn lên ở xã Thường Thạnh Đông, chợ vườn chồm hổm ở Cái Chanh, 5 giờ sáng nhóm đến khoảng 9-10 giờ sáng thì tan chợ. Cái Chanh cách Thị Trấn Cái Răng khoảng 5 cây số đường đất với cầu ván đóng đinh cũng có, mà cầu tre lắt lẻo cũng nhiều, như câu hát ru em mà tôi thường nghe :

Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi....

    Nên mặc dù là người Việt gốc Hoa (Triều Châu), tôi chỉ biết gọi Cha Mẹ Anh Chị bằng Pá Má Hia Chế và các từ thông dụng như Ăn cơm, ăn cháo là " Chìa bừng, chìa múi..." ra, thì toàn bộ sinh hoạt gia đình đều bằng tiếng Việt của Nam kỳ Lục Tỉnh. 7 tuổi vào trường làng học lớp Đồng Ấu, học đánh vần với quyển Con Gà Con Chó, với các thành ngữ sau khi đã qua vần ngược là :

* Dùi đánh đục, đục đánh săng.
* Ách giữa đàng , mang vào cổ.
* Ăn bữa giỗ, lỗ bữa cày.
* Đặng buồng nầy, xây buồng nọ.
* Ăn thì có, ó thì không...

Tôi lại nổi tiếng đánh Cờ Nhào giỏi nhất đám con nít ở Cái Chanh. Một hôm, có Bác Ba ở xóm Ông Cò Nhỏ nghe tiếng tôi tìm đến đánh thử, Bác ghìm với tôi chừng nửa tiếng đồng hồ, rồi cũng bị tôi lừa thế nhào đôi một cái, bác chỉ còn có 8 con cờ, đang tìm cách gỡ gạc, đi lầm một nước, tôi lại được dịp nhào ba, còn có 5 con cờ thua là cái chắc. Bác Ba xô bàn cờ đứng dậy, xoa đầu tôi và khen : " Con Tùa Hia thông minh thiệt !". Tôi nổi tiếng " thông minh" từ đó ! 10 tuổi ( 1958) ra chợ Cái Răng học chữ Hoa, cậu tôi mới dạy cho tôi đánh cờ Tướng, và câu chuyện bắt đầu từ đây...

Trước 10 tuổi, lớn lên và học chữ Việt ở xã Thường Thạnh Đông, chợ Cái Chanh. Tôi là một đứa bé nông thôn nhà quê Việt Nam thuần túy. Khi ra đến thị trấn Cái Răng học chữ Hoa ở Trường Tiểu học Tân Triều của người Hoa sáng lập, tôi mới thấy được chiếc xe hơi Traction chạy đưa khách từ Cái Răng đi Cần Thơ, phố xá nhà lầu hai ba từng, và điều làm tôi ngạc nhiên nhất là một hôm đang trên đường đi tới trường, thì có mấy đứa nhỏ cũng đi học ở một trường Việt gần đó, chỉ trỏ và nói rằng : Mấy đứa "Ba Tàu" giàu hơn mình, đi học phải mang giày, còn mình thì đi chân không thôi ! Tôi không biết "Ba Tàu" là gì, nhưng rồi cũng phải biết, vì 2 tiếng "Ba Tàu" nầy theo tôi suốt thời gian niên thiếu, như khi chuyển sang học luyện thi bằng Tiểu Học ba tháng, lớp tôi 11 đứa đậu được 10 đứa, thì các bạn ở trường Việt lại khen : Mấy đứa "Ba Tàu" nầy giỏi thiệt. Một tháng sau, tôi đậu luôn vào Đệ Thất của trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ, thì lại nghe : Cái thằng "Ba Tàu" đó giỏi qúa ! Hai năm sau (1964), cuối năm Đệ Lục tôi đi học lớp luyện thi Trung Học Đệ Nhất Cấp và tôi đi thi ẩu ... và đậu luôn bằng Trung Học Đệ Nhấp Cấp. Mấy anh học Đệ Tứ thi rớt lại mỉa mai một cách thán phục : Cái thằng "Ba Tàu" đó mới học Đệ Lục mà, sao mà đậu bằng Trung Học được ?!

16 tuổi (1964), Tôi và ông bạn Liêu Chương Cầu lên Chợ Lớn làm lao công trong trường Phước Đức ở số 226 đường Khổng Tử ( nay là trường Trần Bội Cơ). Chợ Lớn là nơi kinh doanh buôn bán của người Quảng Đông, cả người Việt vào Chợ Lớn buôn bán cũng biết nói tiếng Quảng Đông. Tôi là người Tiều Châu, tiếng Tiều còn nói không rành, làm sao biết tiếng Quảng Đông mà nói. Tôi và ông bạn Cầu chỉ lõm bõm được vài câu Quan Thoại cà trật cà vuột, nên nhiều khi văn phòng hoặc thầy cô giáo sai biểu hoặc nhờ cậy điều gì, phải nói tới nói lui mấy lần hoặc phải ra dấu thì mới hiểu được, nên các thầy bà đó gọi chúng tôi là "Ón Nàm Chẩy 安南仔" (tiếng Quảng Đông có nghĩa là "Thằng An Nam"). Và không chỉ ở trong trường, đi mua đồ, hay đi ăn cơm ở các sạp cơm bình dân, vì đang tập nói tiếng Quảng Đông nên phát âm không chuẩn, họ vẫn gọi chúng tôi là "Ón Nàm Chẩy" như thường.

50 tuổi (1998), định cư ở Mỹ, rồi phải chạy theo cuộc sống ở đây, đâu có thời giờ để mà đi học tiếng Anh. 56 tuổi (2004) nhập quốc tịch Mỹ, nhưng nói chuyện với Mỹ vẫn "mỏi tay" như thường ! Và mấy người Mỹ làm chung ở trường học vẫn gọi tôi bằng Vietnamese mặc dù tôi đã là công dân Hoa Kỳ rồi, nghĩ có tức không ?! Nhưng nếu nói mình là người Mỹ, thì mình có nói rành tiếng Mỹ đâu mà câu mâu !? Nhưng, đây cũng là một điều bất công rất tự nhiên trên nước Mỹ : Người Đức, Người Ý, Người Pháp, người Anh... nói chung là người da trắng, khi nhập tịch Mỹ là thành ngay Mỹ Trắng. Người Châu Phi bất kể nước nào, nhập tịch Mỹ, thì thành Mỹ Đen. Nhưng người "da vàng mũi tẹt" nhập tịch Mỹ, không có ai gọi là "Mỹ Vàng" cả ! Ngay cả người da vàng với nhau, gặp nhau cũng hỏi : where do you come from ?( Bạn từ đâu đến đây ?) Ý muốn hỏi, bạn là người đến từ Đài Loan, Nhựt Bổn, Việt Nam, Đại Hàn, Phi Luật Tân...

    Dưới 10 tuổi ở Cái Chanh, tôi là em bé quê Việt Nam, khi ra đến chợ Cái Răng thì thành "Ba Tàu", lên đến Chợ Lớn thì lại thành "Ón Nàm Chẩy". Qua đến Mỹ, mặc dù đã nhập tịch rồi vẫn bị gọi là Vietnamese !!! Việt Nam chê, gọi tôi là "Ba Tàu", nhưng họ chưa chắc đã giỏi tiếng Việt bằng tôi. Cũng như Tàu chê tôi, gọi tôi là "Thằng An Nam", nhưng họ cũng đâu có giỏi tiếng Tàu bằng tôi đâu ! Chỉ có Mỹ chê, gọi tôi là Vietnamese thì tôi chịu, vì tôi nói tiếng Mỹ rất " mỏi tay". Rốt cuộc, Đỗ Chiêu Đức là người nước nào đây ?!

    Nhờ các tiền bối, thân hữu "xử" giùm xem, Đỗ Chiêu Đức là người nước nào ? ( Chinese Vietnamese American ?)
Nay kính,

Đỗ Chiêu Đức


TB :

Hỏi chơi thôi ! Chớ tôi là người Việt Nam chính hiệu mà ! Sanh ra và lớn lên ở VN, nơi chôn nhau cắt rún là VN, mồ mả ông bà tổ tiên ở VN, cha mẹ còn ở VN, anh em con cháu còn ở VN ... Chỉ có cái "gốc Hoa" mà thôi ! Mà đã là "gốc" thì mình đâu có chọn lựa được ! Qua Mỹ 20 năm (1998-2018) tôi không có về thăm "gốc" lần nào cả, vì có biết ai bên đó đâu mà "thăm", có thăm thì cũng có ai biết mình là ai đâu mà "viếng"! Nhưng, tôi lại về VN đến 10 lần, cứ chắt mót 2 năm đủ tiền mua vé máy bay là vợ chồng tôi lại bay về VN thăm Cha Mẹ, em út, con cháu và bà con cô bác .... Đặc biệt năm 2013 về VN đến 2 lần vì Ba tôi mất ... Không phải chỉ riêng tôi, mà tất cả người Việt gốc Hoa đều như thế cả ! Về thăm Trung Quốc chỉ là để du lịch khi dư dả, còn về thăm thân nhân ở VN mới là chánh ...

Người Hoa ở VN cho con cái học tiếng Hoa vì sợ mất gốc, cũng giống như người Việt Nam chúng ta hiện nay ở Mỹ cho con cái học tiếng Việt Nam cũng chỉ vì sợ mất gốc mà thôi !

Hỡi ôi ! Buồn thay cho " Cái thứ Ba Tàu !"

2/23/23

Phiếm luận về chữ "Thiên" - Trời

          
Cổng trời (ảnh minh họa)


Thiên 天 là Trời, Thiên 千 là Một Ngàn, Thiên 偏 là Thiên Lệch, Thiên 遷 là Di Dời ... Ở đây, ta chỉ nói đến chữ Thiên 天 là Trời, là phần không gian ở trên đầu của ta mà thôi. Theo "Chữ Nho ...Dễ Học", ta có chữ Nhân là người được viết như thế nầy 人. Đây là chữ Tượng Hình đơn giản nhất, cơ bản nhất và cũng ... Tượng hình nhất : Hình người đứng xoạt 2 chân hiên ngang giữa trời đất đúng như sách Tam Tự Kinh ngày xưa dạy : Tam tài giả, THIÊN ĐỊA NHÂN 三才者,天地人。( TAM TÀI là TRỜI, ĐẤT và NGƯỜI ). Con Người là một thành viên của vũ trụ, hợp với Trời và Đất tạo nên cái thế giới nầy !

Nên ...

Khi cần diễn tả sự to lớn thì chữ nhân 人 dang thêm hai tay ra theo lối CHỈ SỰ 指事 ( Mượn việc dang hai ta ra để chỉ sự to lớn gọi là Chỉ Sự ) thành chữ ĐẠI 大 , theo diễn tiến của chữ viết sau đây :


Nên...

ĐẠI là To, là Lớn, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng phát sinh : là Vĩ Đại, là Trưởng thành ... Nhưng ...

Con người dù cho có cao lớn đến đâu cũng không thể cao lớn bằng Trời được, cho nên thêm một nét ngang tượng trưng cho bầu trời lên phía trên chữ Đại 大, thì ta có chữ THIÊN 天 là TRỜI, được hình thành theo lối HỘI Ý 會意 , theo diễn tiến của chữ viết như sau đây :

Ta thấy :

Theo như Giáp cốt văn và Đại Triện ở trên, ta thấy rõ ràng hình người có cái đầu to tượng trưng cho Đầu Đội Trời, Chân Đạp Đất, gọi là " Đỉnh thiên lập địa 頂天立地 " như Từ Hải trong Truyện Kiều vậy :

 ĐỘI TRỜI đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.
Nên ...

Chữ Thiên 天 chỉ phần cao nhất của cơ thể con người, vượt lên trên đỉnh đầu cao vòi vọi, đó là Trời.

Về mặt thể chất, thì con người không thể cao bằng Trời, lớn bằngTrời được, nhưng về chí khí thì cũng có những người có chí lớn muốn CHỌC TRỜI Quấy Nước làm nên những chuyện Kinh Thiên Động Địa. Cho nên, chữ Thiên 天 mà nhô đầu lên theo chiều dọc để CHỌC thủng Trời thì sẽ thành chữ PHU 夫 là người đàn ông cao lớn mạnh khỏe hiên ngang đứng giữa trời đất, theo diễn tiến của chữ viết như sau :

Nên ...

PHU 夫 : là Người đàn ông trưởng thành, mạnh mẽ, hiên ngang mà các bà các cô ai cũng ước mong trở thành người hôn phối của mình, nên ...

PHU 夫 còn có nghĩa là CHỒNG với các từ ghép nghe cho êm tai và âu yếm là : Phu Tế 夫婿, Phu Lang 夫郎, Phu Tướng 夫相, Trượng Phu 丈夫 ... Như trong Truyện Kiều tả lúc Từ Hải chia tay với Kiều để lên đường lập nghiệp ....

Nửa năm hương lửa đang nồng,
TRƯỢNG PHU thoát đã động lòng bốn phương.

Chữ PHU 夫 lại làm cho ta ....

... Nhớ lại 2 câu thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài "Không Chồng Mà Chửa" là :

Duyên THIÊN chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận LIỄU sao đà nẩy nét ngang ?!

Nữ sĩ đã chơi chữ bằng cách chiết tự rất lý thú và lí lắt như sau :

Duyên THIÊN 天 là duyên trời run rủi, chưa thấy nhô đầu dọc, là chưa thành chữ PHU 夫, nghĩa là chưa có chồng.
Phận LIỄU 了 (là Liễu bồ, là Phận gái) sao đà nẩy nét ngang ? Chữ LIỄU 了 mà " nẩy " nét ngang thì sẽ thành chữ TỬ 子 là CON. Nên 2 câu thơ trên có nghĩa :

Duyên trời nào thấy đâu run rủi,
Phận gái sao đà đã có con ?

Trong dân gian Nam Kỳ Lục Tỉnh, ở Cái Răng Ba Láng Vàm Xán Phong Điền... quê tôi, lúc nhỏ tôi cũng thường nghe bà con lối xóm hát rằng :

Không chồng có chửa mới ngoan,
Có chồng có chửa thế gian sự thường !

Về chữ LIỄU 了 là Kết thúc, kết liễu, đồng âm với chữ LIỄU 柳 là Dương Liễu chỉ phái nữ mềm yếu dịu dàng ẻo lả như nhánh liễu. Ở đây, Hồ Xuân Hương đã chơi chữ bằng cách sử dụng từ Đồng Âm để đánh đồng 2 chữ Liễu theo âm Hán Việt. Chớ chữ Liễu là Dương Liễu thì làm sao có được nét ngang mà "nẩy" ?!

Thiên 天 là Trời, chữ đầu tiên trong sách Tam Thiên Tự 三千字 của soạn giả Đoàn Trung Còn khi mới bắt đầu học chữ Nho hồi xưa :

天 Thiên trời, 地 Địa đất, 舉 Cử cất, 存 Tồn còn, 子 Tử con, 孫 Tôn cháu, 六 Lục sáu, 三 Tam ba, 家 Gia nhà, 國 Quốc nước, 前 Tiền trước, 後 Hậu sau...

Sách tam thiên tự (ảnh minh họa)

Thiên 天 là Trời, là phần không gian cao ngất ở trên đầu ta, nhưng trong dân gian theo tín ngưỡng của người dân Đông Á chịu ảnh hưởng của Nho Thích Đạo, thì Trời là thế giới của cõi trên, có đủ các thành phần Tiên Phật Thần Thánh của thượng giới, và có đời sống giống như ở dân gian, đứng đầu là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà ta quen gọi là Ông Trời, và ông Trời hiện diện đầy đủ trong các mặt vui buồn của cuộc sống con người, ta vẫn thường nghe các câu :

- Vui qúa Trời !
- Buồn qúa Trời !
- Sướng qúa Trời !
- Khổ qúa Trời !....

Vui buồn sướng khổ gì đều kêu Trời cả ! Nên theo truyện cổ tích dân gian thì ... Ngày xửa ngày xưa, ông Trời ở rất gần ta, chỉ cao khỏi ba xào một chút mà thôi, nhưng vì hễ động một chút là người ta kêu Trời : Hôm nay ăn no qúa Trời; Con đói qúa Trời ơi ! Cái con nhỏ đó đẹp qúa Trời ! Nhõng nhẽo qúa Trời; Thấy "ghét" qúa Trời đi !... Nhất nhất cái gì cũng kêu Trời, kể cả "Con mắc ... qúa Trời ơi !". Nên ... Ông Trời nghe thét rồi chán qúa mới "vọt" tuốt lên 9 từng mây mà ở trển luôn cho yên thân ! Chẳng những giới bình dân kêu trời, mà trong văn chương trí thức cũng kêu trời, như Vương Viên Ngoại trong Truyện Kiều, khi biết cô Kiều đã bán mình, ông cũng đã kêu lên :

Trời làm chi cực bấy Trời,
Này ai vu thác cho người hợp tan !?

hay lúc cô Kiều kể cho Vương Bà nghe về nhân cách của Mã Giám Sinh "Gẫm ra cho kỹ như hình con buôn" thì :

Vương Bà nghe bấy nhiêu lời,
Nỗi oan đã muốn vạch Trời kêu lên.

hay khi bị Sở Khanh gạt, rồi còn muốn hành hung nữa, thì cô Kiều cũng đã kêu trời :

Nàng rằng : Trời nhé có hay !
Quyến anh rủ yến sự này tại ai ?
Đem người đẩy xuống giếng khơi,
Nói lời rồi lại ăn lời được ngay !

Thiên 天 là Trời, là phần đầu của con người như chữ Tượng Hình Hội Ý đã nói ở phần trên, nên trong sách tướng số gọi cái trán là Thiên Đình 天庭, phần giữa trán gọi là Thiên Môn 天門 và phần xương phía trên trán gọi là Thiên Linh 天靈, nên ta mới có từ Thiên Linh Cái 天靈蓋 là cái Mỏ Ác. Lúc còn bé thì phần Mỏ Ác nầy chỉ là một lớp sụn rất mềm, nên người lớn bắt nạt con nít hay nói câu : "Coi chừng tao cú cho một cái lủng Mỏ Ác bây giờ !". Khi lớn, Mỏ Ác đã cứng khó mà "cú" cho lủng, thì lại trở thành "cứng đầu cứng cổ"!.


Từ Thiên Linh Cái 天靈蓋 còn tượng trưng cho cả Cái Đầu, cái Xương Sọ hoặc cái Đầu Lâu, như các thầy Pháp, thầy Phù Thủy luyện Thiên Linh Cái là chuyên sưu tập đầu lâu và xương sọ của các cô gái đã chết và như trong truyện "Trang Tử Cổ Bồn Ca 莊子鼓盆歌", mà ta quen gọi là truyện "Trang Tử Thử Vợ", thì Thiên Linh Cái tượng trưng cho cái đầu với nội dung câu truyện như sau :

Trang Tử tên Chu 周 ( Châu ), tự là Tử Hưu 子休, người nước Tống 宋 thời Chiến Quốc (690-286 TCN), cùng vợ là Điền Thị ẩn cư ở phía nam núi Hoa Sơn. Một hôm, trên đường về nhà, trông thấy một thiếu phụ dùng quạt để quạt một nấm mộ bên đường. Trang Tử thấy lạ bèn hỏi, thiếu phụ cho biết là mộ của chồng mình, vì khi còn sống hai vợ chồng rất thương yêu nhau, nên có hẹn nhau là khi chồng chết, thì sau tang lễ, phải đợi cho mộ khô rồi mới tái giá, nhưng gần đây mưa gió cứ dập dìu, mộ không khô được, nên phải quạt cho mộ mau khô ! Trang Tử nghe nói, thầm cười cho thế thái nhân tình nhưng cũng thi triển pháp lực giúp thiếu phụ quạt khô mộ chồng. Khi về nhà, đem truyện kể lại với vợ là Điền Thị, Điền Thị vô cùng phẫn nộ, chê trách thiếu phụ và bảo rằng : " Trung thần bất sự nhị quân, Liệt nữ bất sự nhị phu 忠臣不事二君,烈女不事二夫 ". Có nghĩa " Tôi trung không thờ hai chúa, gái tiết liệt chẳng lấy hai chồng ". Mấy tháng sau, Trang Tử bệnh chết, có một thiếu niên anh tuấn dắt theo một lão bộc, tự xưng là Vương tôn của nước Sở, vì mộ tiếng của Trang Tử mà tìm đến để theo học đạo. Nay tuy Trang Tử đã mất, nhưng cũng nguyện thủ tang theo lễ thầy trò, ở lại cư tang một trăm ngày và để đọc Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Điền Thị rất vui dạ vì cảm cái vẻ cao sang tuấn tú của Vương tôn, mới nhờ lão bộc làm người mai mối, rồi xuất tiền lo cho hôn sự của hai người. Đêm động phòng hoa chúc, Vương tôn bỗng phát bệnh đau tim, thoi thóp sắp đứt hơi. Lão bộc cho biết là nếu có óc của người sống hoặc của người chết chưa quá bốn mươi chín ngày hòa với rượu uống vào thì khỏi bệnh. Điền Thị bèn xách búa bổ quan tài của Trang Tử định lấy óc ra làm thuốc cứu mạng Vương Tôn.. Không ngờ khi quan tài vừa vỡ ra thì Trang Tử cũng vừa sống lại. Điền Thị cả thẹn, biết mọi việc đều do Trang Tử biến hóa an bày, nên treo cổ mà chết. Trang Tử gõ bồn làm nhịp ca bài điếu tang rồi cảm khái ngâm rằng :

從茲了卻冤家債, Tòng tư liễu khước oan gia trái,
你愛之時我不愛。 Nhĩ ái chi thời ngã bất ái.
若重與你做夫妻, Nhược trùng dữ nhĩ tố phu thê,
怕你斧劈天靈蓋。 Phạ nhĩ phủ phách Thiên Linh Cái.

Có nghĩa :

Từ nay đã hết nợ oan gia,
Nàng bảo yêu, ta hết thiết tha.
Tiếp tục vợ chồng như thuở trước,
Có ngày búa bổ vỡ đầu ta.

Ngâm xong, nổi lửa đốt sạch nhà cửa quan tài ở dưới núi Hoa Sơn rồi đi mất. Dân chúng quanh vùng chỉ nhặt lại được hai quyển Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh chưa bị thiêu rụi mà thôi.


"Phủ phách Thiên Linh Cái" là búa bổ cho vỡ sọ đầu ra ! Đây là chuyện "Trang Tử Thử Vợ" thường tình của " cải lương ", của phim ảnh theo như truyện kể của dân gian đời Tống (960-1279), những người theo Tống Nho dùng để khuyến thế răn đời, chớ con người cao khiết siêu thoát với tư tưởng của Lão Trang như Trang Tử sao lại có thể dùng tiểu xảo gài bẫy để thử vợ một cách không quang minh chính đại như thế !?

*****
Trở lại với Thiên 天 là Trời, trong Nho Giáo THIÊN 天 không phải là Ông Trời, mà là Thiên Lý 天理 là cái Lẽ Trời, nói theo bình dân, là Cái Lý Lẽ tự nhiên công bằng chính trực, chí công vô tư, chí cao vô thượng của Trời, nên cái gì hợp với tự nhiên của nhân tình thế thái thì cái đó là ... Thiên. Ví dụ như :

- Thiên Lương 天良: là Tấm lòng lương thiện ngay thẳng bẩm sinh của trời ban, là cái Lương Tâm vốn có của con người, mà cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã gán cho mình cái nghĩa vụ thiêng liêng là phải phổ biến, gợi mở, khơi dậy cái thiên Lương ở trong lòng mỗi người, nên ông mới mượn bài thơ " Hầu Trời " để nói thác :

Trời rằng : " Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc "thiên lương" của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay"...

- Thiên Bình 天平: là Sự cân bằng thẳng hàng không thiên lệch về bên nào cả, là biểu tượng của Cán Cân Công Lý ở các tòa án, pháp đình, và là cái cân có 2 dĩa cân của các tiểu thương buôn bán ở ngoài chợ, một bên để trái cân một bên để hàng hóa lên đến khi nào cân bằng thì thôi. Nên... Thiên Bình là sự bình đẵng tự nhiên của trời, sự công bằng không thiên lệch cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.


Biểu tượng cái cân của tòa án ngầm bảo rằng mọi người đều bình đẵng trước pháp luật và trước... Trời !



- Thiên Võng 天網: là Cái Lưới của Trời, nó không phải là cái lưới có thật, mà nó là biểu tượng của cái công cụ bảo vệ công lý của trời. Ai làm trái cái lý trời thì sẽ bị cái lưới nầy tóm lấy để trừng trị, như câu nói sau đây :

Chủng qua đắc qua, 種瓜得瓜,
Chủng đậu đắc đậu. 種豆得豆,
Thiên võng khôi khôi, 天網恢恢,
Sơ nhi bất lậu ! 疏而不漏。

Có nghĩa :

Trồng dưa thì được dưa,
Trồng đậu thì được đậu.
Lưới trời lồng lộng,
Tuy thưa nhưng không lọt !

Ý muốn nói, gieo nhân nào sẽ gặt qủa nấy, làm lành sẽ gặp lành, làm ác sẽ gặp ác, không sai chạy bao giờ, chỉ sớm hay muộn mà thôi !

Thiên võng khôi khôi, 天網恢恢

Ông trời luôn luôn đứng về phía người hiền, người lương thiện, nên Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu :

Nhân hữu thiện nguyện, 人有善願,
Thiên tất hựu chi ! 天必祐之!

Có nghĩa :

Người mà có những ước nguyện tốt lành, thì...
Trời sẽ phù trợ ủng hộ cho người đó !

- Thiên Chức 天職 : Không phải là cái chức tước do trời ban, mà là trách nhiệm vốn có mà trời đặt để cho mỗi con người trong xã hội. Như Thiên Chức của Cha Mẹ là phải nuôi dạy con cái cho nên người, và con cái thì phải biết hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ...

- Thiên Bẩm 天禀, Thiên Tài 天才, Thiên Phú 天賦, Thiên Tư 天資 : đều là những cái sanh ra đã có sẵn mà trời ban riêng cho người nào đó mà người khác không thể có được. Như cụ Nguyễn Du đã khen cô Kiều :

Thông minh vốn sẵn Tư Trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Tư Trời là Thiên Tư của trời ban cho đó !

Cái gì thuộc về tự nhiên thì đều gán hết cho Trời, và được gọi là Thiên Nhiên 天然, ví dụ như Trời Mưa, Trời Nắng, Trời Gió... và Tai họa do những thứ đó gây ra như Mưa lũ, Hạn hán, Gió bão...đều được gọi là Thiên Tai 天災, là tai họa chết chóc, đổ vỡ do trời gây ra cho con người. Song song với Thiên Tai thì Trời cũng set-up sẵn một chỗ để tưởng thưởng cho những người lương thiện, mà tôn giáo nào cũng có, đó chính là Thiên Đàng 天堂, nơi yên vui sung sướng nhất mà mọi người đều mong ước. Tất cả những hiện tượng thời tiết mùa màng xảy ra chung quanh cuộc sống con người đều là những thứ sỡ hữu của trời như câu nói :

Thiên hữu tứ thời xuân tại thủ, 天有四時春在首,
Nhân sanh bách hạnh hiếu vi tiên. 人生百行孝為先。

Có nghĩa :

Trời có bốn mùa thì mùa xuân là mùa đứng đầu, còn...
Người thì có cả trăm phẫm hạnh, hiếu là phẩm hạnh trước tiên.

Ông Trời làm nên tất cả, cả thân phận của con người cũng do trời đặt để, như cụ Nguyễn Du đã nói :

Trời kia đã bắt làm người có thân,
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao

Bỉ sắc 彼嗇 thì tư phong 茲豐, có nghĩa Cái kia cạn thì cái nầy đầy, hết cơn bỉ cực thì đến ngày thái lai. Ông trời luôn bắt người ta phải " phong trần " trước, rồi mới cho " thanh cao " sau. Bắt cô Kiều phong trần mười lăm năm rồi mới cho gặp lại Kim Trọng. Thế mà khi đoàn viên lại phải cảm kích cái lòng tốt của ông trời :

Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời.
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa !

Khéo mà nói sạo để... nịnh ông trời !

Còn giới bình dân thì không khách sáo gì cả, vợ chồng cứ đẻ sòn sọt năm một, mỗi năm một đứa, nhà trên mười anh chị em là chuyện " thường tình " ở quê tôi, đời sống nheo nhóc nhưng lại rất lạc quan mà... đổ thừa cho ông trời :

- Trời sanh trời nuôi.
- Trời sanh voi sanh cỏ !

Tội nghiệp cho ông trời, cứ đẻ cho đã rồi đổ thừa cho ông trời là xong ngay ! Nhưng... nói cũng lạ, " nhờ Trời " rồi tất cả cũng đều khôn lớn nên người, lắm gia đình lại còn trở nên khá giả giàu có nữa là đằng khác ! Các Thầy Đồ ta ngày xưa thường nói :

Hữu nhi bần bất cửu, 有兒貧不久,
Vô tử phú bất trường. 無子富不長。

Có nghĩa :

Có con thì nghèo không lâu, vì khi lớn lên con sẽ làm ra thêm của cải.. Còn ... Không có con thì giàu không bền, vì không có ai làm thêm của cải cho mình. Nên các Cụ cứ... đẻ thả giàn !

Thiên 天 là Trời, nên Thiên Hạ 天下 là dưới gầm trời nầy, là núi non sông nước, là đất đai ruộng vườn mầu mỡ của dân cư, là lãnh thổ, là cương thổ mà theo quan niệm phong kiến ngày xưa thì ai có tài thao lược giỏi giang, ai có đức trị dân thì sẽ là chúa tể của cái Thiên Hạ nầy, nên mới có thành ngữ Trục Lộc Thiên Hạ 逐鹿天下, có nghĩa là Đuổi bắt con nai trong thiên hạ nầy theo xuất xứ sau đây :

Trục Lộc Thiên Hạ 逐鹿天下

Theo "Sử Ký. Hoài Âm Hầu Liệt Truyện 史記˙淮陰侯列傳": Tần chi cương tuyệt nhi duy thỉ, sơn đông đại nhiễu, dị tính tịnh khởi, anh tuấn ô tập. Tần thất kỳ lộc, thiên hạ cộng trục chi, ư thị cao tài tật túc giả tiên đắc yên.秦之綱絕而維弛,山東大擾,異姓並起,英俊烏集。秦失其鹿,天下共逐之,於是高材疾足者先得焉。

Có nghĩa :

" Giềng mối của nhà Tần đã hết nên lỏng lẻo, đất Sơn Đông đại loạn, các họ khác đều nổi lên, anh hùng các nơi tập hợp. Tần như làm sổng mất con nai, nên thiên hạ đều cùng đuổi bắt, vì thế, ai tài giỏi và nhanh chân thì sẽ bắt đựơc." Và...

Các lộ anh hùng lại tiêu diệt lẫn nhau, cuối cùng đưa đến thế Hán Sở Tranh Hùng, như World-cup vào đến vòng chung kết vậy ! Nên...

Thiên Hạ là của chung, ai giỏi thì giành được. Ngày xưa, quan niệm Thiên Hạ là đất Trung Nguyên mầu mỡ với dân cư đông đúc, nên thành ngữ trên còn được nói là Trục Lộc Trung Nguyên 逐鹿中原, và tại sao phải là Lộc mà không phải là con vật khác ? Vì chữ Lộc 鹿 là con Nai đồng âm với chữ Lộc 祿 là Thiên Lôc 天祿, có nghĩa là " Lộc của trời ban", chính là cái ngôi vua của Thiên Tử 天子 là con trời, vì Thiên Tử mới là người xứng đáng hưởng Thiên Lộc mà thôi !

Còn "Thiên Hạ" trong tiếng Việt Nam ta là Phiếm Chỉ Đại Từ, có nghĩa là : Người ta, Người Khác hay chỉ chung Quảng Đại Quần Chúng...như :

- "Thiên hạ" đồn rằng...
- Đó là chuyện của "thiên hạ", đâu phải chuyện của mình.
- Hơi sức đâu mà lo chuyện của "thiên hạ" !...

Ông tú Vị Xuyên Trần Tế Xương trong bài tứ tuyệt "Chợt Giấc" cũng đã buồn cho thời cuộc mà lẫy rằng :

Nằm nghe tiếng trống, trống canh ba,
Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra.
Thiên Hạ dễ thường đang ngủ cả,
Việc gì mà thức một mình ta ?!

Còn Thiên Hạ trong đạo Phật là cõi Ta-Bà, là bể khổ trầm luân, nên khi Bổn sư Thích Ca Mâu Ni thác sinh làm Thái Tử Tất Đạt Đa, sau khi đi bảy bước nở ra bảy đóa hoa sen thì một tay chỉ Trời, một tay chỉ đất và nói câu : Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn 天上天下唯我獨尊, có nghĩa : " Trên trời dưới trời duy chỉ có TA là tôn qúy ". Cái TA hay cái NGÃ đó chính là Chân Ngã 真我, là Pháp Thân 法身 thường trụ, không bao giờ hoại, bao trùm khắp không gian và thời gian mà chúng sinh đều có. TA đó chính là Phật Tánh 佛性, là Chân Tâm 真心 để giải thoát cho tất cả mọi loài khỏi trầm luân trong bể khổ của cái Thiên Hạ Ta-Bà nầy ! Chính cái Phật Tánh đó là Thiên Hạ độc tôn, chớ không phải Đức Như Lai tự cho mình là độc tôn trong Thiên Hạ.



Trong quyển tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng của Kim Dung là " Thiên Long Bát Bộ " có một nhân vật nữ theo Đạo Gia là Thiên Sơn Đồng Mỗ, nhưng lại tu tập môn võ công của Phật Gia là " Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn Công " rất lợi hại, bà ta cầm đầu và khống chế cả 81 Động và 72 Đảo võ lâm bàng môn tả đạo đều phải nghe theo lệnh của bà ta răm rắp .

Còn Thiên Hạ của Đạo Giáo 道教 (Lão Giáo) là Cõi Hồng Trần 紅塵, nơi bụi bặm mịt mù mà con người chỉ là những cái hình chiếu từ cuộc sống thực tế ở trên trời, như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết trong Cung Oán Ngâm Khúc là :

Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm !

nên con người phải biết tu tập theo đạo pháp để trở về với cuộc sống thực ở trên trời, tức là thành Thần thành Tiên để về nơi Thượng Giới !

Thiên Hạ của ngày nay là Năm Châu Bốn Bể, là bề mặt của qủa địa cầu nầy, là cả thế giới như bài học thuộc lòng ngày xưa của lớp Đồng Ấu :

... Người bốn giống : đen, vàng, đỏ, trắng,
Trời bốn phương : nam, bắc, đông, tây.
Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn ?!

Thiên 天 là Trời, khi nào thì ta thấy được trời : Ban Ngày, nên Thiên 天 là Ban Ngày, như Tam Thiên Tam Dạ 三天三夜 là Ba ngày ba đêm. Thiên còn có nghĩa là Ngày, nên Kim Thiên 今天 là ngày hôm nay; Khi trời sáng trở lại là ngày hôm sau, nên Minh Thiên 明天 là ngày mai...

Thiên còn có nghĩa là Thời Tiết, Mùa Màng, như : Thiên Vũ 天雨 là Trời mưa, nhưng Vũ Thiên 雨天 là Mùa Mưa. Tương tự, Thiên Tình 天晴 là Trời nắng, Tình Thiên 晴天 là Mùa nắng. Như thời tiết ở Miền Nam nước ta, mỗi năm chỉ có 2 mùa Mưa và Nắng, theo như câu nói :

Tứ thời vô xuân hạ, 四時無春夏,
Nhất vũ tiện thành thu. 一雨便成秋。

Có nghĩa :

Bốn mùa không có xuân hạ gì cả, hễ...
Mưa xuống một cái thì thành mùa thu ngay !

Thiên còn là cái gì cao quý nhất, cần thiết nhất, như câu nói trong sách Hán Thư 漢書 : Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên 王者以民為天,而民以食為天. 

Có nghĩa : " Bậc vương giả lấy dân làm cao nhất, còn dân thì lấy cái ăn làm cao nhất."


Ý nói : Vua thì coi dân là cần thiết nhất, vì không có dân thì làm vua với ai đây ? Còn dân thì coi cái ăn là cần thiết nhất, vì không có cái ăn thì làm sao mà sống ?! Câu nói nầy thường hay bị nói sai thành : Dân dĩ thực vi TIÊN 民以食為先, có nghĩa : Dân thì lấy cái ăn làm trước hết. Sai mà không Sai, chỉ là một cách nói khác đi mà thôi, nhưng ý của chữ TIÊN 先 không mạnh bằng ý của chữ THIÊN 天 là Trời, là Cao nhất, là Cần thiết nhất.

Thiên 天 là Trời, Thăng Thiên 升天 là Lên trời, Phi Thiên 飛天 là Bay lên trời, còn Quy Thiên 歸天 là Về trời, là chết. Nhưng không phải ai chết cũng được về trời, vì trời chỉ có 9 tầng mà thôi, ta hay nghe nói Cửu Trùng Thiên 九重天, còn địa ngục thì có tới 18 tầng lận, gấp đôi số tầng của trời. Điều nầy cho thấy là ở trên đời người xấu nhiều gấp đôi người tốt, nên Địa Ngục phải xây 18 tầng mới đủ chỗ chứa !

Về từ Cửu Trùng Thiên 九重天, ngoài nghĩa là 9 tầng trời ra, Cửu Trùng Thiên còn được dùng để chỉ ông vua thời phong kiến ngày xưa, như 2 câu thơ mở đầu trong bài thơ Tả Thuyên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương 左遷至藍關示侄孫湘 của Hàn Dũ đời Đường :

Nhất phong triêu tấu Cửu Trùng Thiên, 一封朝奏九重天,
Tịch biếm Triều Dương lộ bát thiên. 夕貶潮陽路八千 .

Có nghĩa :

Buổi sáng trình lên nhà vua một phong tấu sớ,
Buổi chiều bị đày đi Triều Dương xa tám ngàn dặm đường.

Cửu Trùng Thiên 九重天 là Vua, còn được gọi là Đấng Cửu Trùng, hay Cửu Trùng mà trong tiếng Nôm ta gọi là Chín Tầng, như câu thơ trong đoạn mở đầu của Chinh Phụ Ngâm do Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm :

Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
CHÍN TẦNG gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.

Thiên còn là Thiên Thời 天時, ngoài nghĩa chỉ Thời tiết mùa màng ra, Thiên Thời còn có nghĩa là Thời Cơ của Trời, là cái cơ trời vận hành đến một lúc nào đó, như Thúy Vân đã phân bua :

Cơ Trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình !

Ta thường nghe câu nói trong sách Mạnh Tử là "Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa 天時不如地利,地利不如人和". Có nghĩa : Thời cơ của trời không bằng lợi thế của đất, cái lợi thế của đất không bằng cái hòa đồng hòa hợp của con người. Ví dụ như :

Thiên thời 天時, Địa lợi 地利, Nhân hòa 人和 còn được nói thành Thiên Tường 天祥, Địa Nghi 地宜, Nhân Thuận 人顺. Có nghĩa :

* Thiên Tường 天祥 : là cái Điềm lành của trời, là cái mặt tốt về thời cơ, thời vận, là Thiên Thời đó.

* Địa Nghi 地宜 : là cái Tiện nghi của đất, của cái nơi mà ta định làm hay cái chỗ mà sự việc xảy ra, là Địa Lợi đó.

* Nhân Thuận 人顺 : là Nhân sự được suôn sẻ, mọi người đều đồng ý, không ai chống đối, là Nhân Hòa đó.

Nhưng đối với bà con lối xóm ở quê tôi thì THIÊN TƯỜNG là " Thương Tiền ", từ dùng để chỉ những người keo kiệt hà tiện mà tham lam chỉ biết có TIỀN, cả câu như thế nầy :

" Thiên tường tác biệt hựu thu sương ".
Có nghĩa là : " Thương tiền, Tiếc bạc lại Thương xu ".

Có một câu chuyện vui kể rằng : Có ông trưởng giả nhà quê nọ mời bạn ăn mừng thọ lục tuần. Thiệp mời có kèm theo môt câu như thế nầy : Sách có câu chữ rằng " Xuân đình hiền tạ tống mặt khơi ". Câu sách đó có nghĩa là : " Xin đừng hà tiện tới mặt không !".

Cái Thời Cơ của Trời, chính là cái Thiên Lý đã được đề cập ở phần đầu bài viết nầy, nói lên cái lý lẽ công bằng tự nhiên của Trời, như câu :

Tử sinh hữu mệnh, 死生有命,
Phú quý tại thiên. 富貴在天.

Có nghĩa :

Chết sống đều có số mạng,
Giàu sang là do trời ban.

... và không phải ai cũng được trời ban, phải đúng với cái lẽ trời thì mới được, như trong Minh Tâm Bửu Giám ghi lại câu nói nổi tiếng của Khổng Minh Gia Cát Lượng là :

Mưu sự tại nhân, 謀事在人,
Thành sự tại thiên. 成事在天,
Nhân nguyện như thử như thử, 人願如此,如此,
Thiên lý vị nhiên vị nhiên ! 天理未然,未然!

Có nghĩa :

Mưu tính công việc là ở người, còn...
Thành công hay thất bại là do trời,
Người muốn như thế nầy, như thế nầy đây, nhưng...
Cái lẽ trời cho biết là còn chưa được, còn chưa được !


Gia Cát Khổng Minh là người giỏi cả binh thư thao lược, trên thông thiên văn dưới thông địa lý, mang chí lớn muốn khôi phục lại nhà Hán, lập rất nhiều công lớn trong việc giúp Lưu Bị tam phân thiên hạ, lập nên nhà Thục Hán, nhưng lục xuất Kỳ Sơn đều thất bại, cuối cùng đành ôm hận mà chết với câu than bất hủ là " Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên " như đã nêu trên.

Con người khi còn nằm trong bụng mẹ, chưa được sanh ra, chưa thấy trời, thì gọi là Tiên Thiên 先天. Được sanh ra rồi, mở mắt đã thấy trời rồi, thì gọi là Hậu Thiên 後天. Hằng ngày phải đầu tắt mặt tối đội trời để làm việc kiếm sống, thì gọi là Thiên Thiên 天天. Vui vẻ trong cuộc sống thì gọi là Lạc Thiên 樂天. Buồn thảm trong cuộc sống thì gọi là Bi Thiên 悲天. Khi nhắm mắt xuôi tay rồi thì gọi là Quy Thiên 歸天. Tuổi thọ và những năm tháng mà ta có được gọi là Thiên Niên 天年, là những ngày tháng của Trời ban cho.

Mong rằng tất cả đều quy thiên 歸天 trong cái tâm tình lạc thiên 樂天 để đều được vui hưởng những thiên niên 天年 tuyệt vời trong cuộc sống !

Đỗ Chiêu Đức - 杜紹德

2/22/23

Giới Luật

Giới Luật

        Có một lần cùng các huynh tỷ đi làm công tác từ thiện, khi kết thúc buổi công tác thì trời đã đi dần vào xế chiều, các huynh tỷ đề nghị cùng nhau dùng cơm tối để luôn tiện hàn huyên tâm sự sau một thời gian dài không được hội ngộ vì cơn dịch Covid. Vì đa phần các huynh tỷ không thọ giới chay trường, nên chúng tôi chọn một nhà hàng hải sản. Tôi thì tùy duyên nên chỉ ăn những cọng rau bên cạnh thịt cá, miễn sao hòa đồng với mọi người. Nhưng có một huynh khác thì trì giới nghiêm cẩn, huynh ăn chay như người xuất gia, chỉ ăn những thực vật thanh tịnh không có máu huyết và kiêng cữ luôn cả những đồ tanh, hành tỏi... Vì vậy, sư huynh cương quyết từ chối chung vui với chúng tôi, rồi ra về một mình. Nhìn bóng dáng huynh lủi thủi xa dần trong buổi chiều tà đêm đông, mọi người đều cảm thấy ít nhiều sự tiếc nuối và bầu không khí đột nhiên trở nên hơi nặng nề.

        Sự kiện xảy ra khiến tôi suy nghĩ. Nếu đứng trên phương diện tôn giáo và đức tin thì dĩ nhiên phải tuân theo giới luật quy định. Nhưng nếu đứng trên góc nhìn thông thoáng một tí, thì tôn chỉ và mục đích của bất cứ tôn giáo nào cũng muốn mọi người được sống vui vẻ và hạnh phúc. Nghiêm trang và cảm thông cũng như mọi sự việc trên đời đều như hai mặt của một đồng tiền bổ túc lẫn nhau để thể hiện sự toàn diện và viên mãn.

        Tất cả giới luật trong Phật giáo không nhằm mục đích ràng buộc bất cứ một ai. Luật lệ xã hội cũng chỉ nhằm ngăn ngừa những lỗi lầm để cho con người sống có hạnh phúc. Nhưng tất cả đều tùy theo hoàn cảnh và phương tiện mà du di để con người được an lạc. Ví dụ, nếu chúng ta bị giấy phạt vì vượt đèn đỏ, sau đó chúng ta yêu cầu được lên tòa giao thông xin trình bày lý do vi phạm luật đi đường, lỗi ấy không phải là một hành vi cố tình, mà vì hôm đó thắng xe bị trở ngại đột ngột, chúng ta nhận sai sót này. Thường thì luật và quan tòa sẽ châm chước và giảm khinh án phạt cho sự cố trên.
 
        Đó là sự linh động của luật lệ, thế nên trong giới luật Phật pháp có bốn phần: Khai, giá, trì, phạm (開遮持犯). Khai là mở, giá là ngăn che, trì là giữ, nếu không giữ được là phạm. Ví dụ người xuất gia thì không được va chạm với phụ nữ, nhưng nếu gặp trường hợp nhìn thấy một phụ nữ bị té ngã mà không ra tay cứu giúp vì phải giữ giới thì thiết nghĩ sự dửng dưng đó không hợp lý hợp tình. Thực sư giới luật trong nhà Phật tức là đạo đức, chúng ta giữ giới nhằm tăng trưởng đạo đức của con người. Như vậy chúng ta còn gì đạo đức khi thấy người khác gặp nạn mà không ra tay cứu giúp. Trong khi cứu giúp mà cần phải bồng bế nhưng tâm không bao giờ có sự đen tối ô uế hay tà ý, chỉ nhằm mục đích cứu người chớ không có bất cứ một sự lợi dụng nào cả. Như vậy, thiết nghĩ tu sĩ ấy không phạm giới, nói đúng hơn vị tu sĩ ấy biết cách giữ giới.

        Người có đạo ắt có đức nên gọi là đạo đức. Chúng ta theo đạo không phải để bái kính hay tôn thờ một đấng thần linh tối thượng nào, mà là giữ giới để làm tròn nhân cách của mình. Giới là đạo đức, càng giữ giới thì nhân cách càng thanh cao.

        Năm 2004, pháp sư Tịnh Không đến Bắc Kinh hoằng pháp, tạm trọ ở Nhà Hàng Quốc Tế tại Bắc Kinh. Một hôm tình cờ gặp một đồng tu rất thân, là thương gia nổi tiếng tại địa phương. Hôm đó vị đồng tu chủ trì hôn lễ cho con trai và có nhã ý mời Sư làm người chứng hôn mặc dù người bạn ấy trước đó đã mời chủ tịch cục chánh hiệp Bắc Kinh đảm trách vai trò chứng hôn rồi. Nếu hôn lễ được một tăng một tục cùng chứng hôn thì hôn lễ sẽ càng có ý nghĩa và tròn đẹp. Khi được biết con dâu là người Nhật và khách đến dự hôm đó gồm nhiều viên chức đại sứ quán Nhật, cán bộ trong bộ nội vụ Bắc Kinh cùng nhiều thương gia nổi tiếng địa phương. Đây là cơ duyên hiếm có để giới thiệu Phật pháp cho giới thượng lưu ít có cơ hội tiếp xúc đạo lý không môn, cho nên Sư đồng ý nhận làm chứng hôn.

        Sự hiện diện của Sư Tịnh Không hoàn toàn nằm ngoài dự tính, cho nên buổi tiệc toàn là đồ mặn. Sư tùy duyên dùng rau cải bên cạnh thịt cá. Cuộc vui nào đương nhiên đều có mời rượu để mọi người chúc phúc nhau. Sư tuyên bố chỉ nhấp ly nhỏ. Có người cho rằng “Sư Tịnh Không” phá giới, nhưng Sư nói đó là khai duyên, bởi vì Sư không có dự tính tham dự buổi tiệc thế tục và mời rượu chúc phúc cho hôn lễ. Học Phật phải được lợi ích chân thật, vậy lợi ích chân thật là biết áp dụng nguyên tắc khế lý khế cơ vào đời sống hằng ngày. Khế lý: “khế” tức là hợp, “lý” tức là chân lý. có nghĩa là phù hợp với đạo lý, pháp lý. Khế cơ : có nghĩa là phù hợp với từng hoàn cảnh, từng căn cơ của người nghe. Phật hiểu được căn tánh của chúng sanh mà tùy nghi hóa độ, đưa ra những phương tiện để dẫn dắt chúng ta đi đến chánh pháp. Nếu quá nghiêm khắc chấp trước trong việc hoằng đạo, không trắng là đen, không kiên thủ thì có tội, thì nhiều người sẽ e ngại và không muốn tiếp xúc với Phật pháp.

        Trở lại câu chuyện buổi hôn lễ, trong khi mời rượu, chủ hôn mời Sư nói vài lời chúc phúc cô dâu chú rể, đây là cơ duyên hoằng pháp rất khế cơ khế thời. Mở đầu, Sư giới thiệu sơ lược về Phật pháp. Nhờ vậy mà có nhiều người đã hiểu thêm và chấp nhận Phật pháp. Sư giải bày giáo lý nhà Phật không ràng buộc bất cứ điều gì trong cuộc sống, giới luật nhà Phật linh động uyển chuyển, giữ giới là giữ nhân cách để cuộc sống được hạnh phúc cho chính bản thân và người khác.

        Khai giới là lợi ích cho chúng sinh, trì giới là lợi ích cho chính mình. Nếu cứ khư khư giữ giới tu trì mà không nghĩ đến hạnh phúc của người khác thì không phù hợp với giáo lý của đạo Phật là từ bi chúng sanh, cứu nhân độ thế. (Trích lục từ buổi khai thị "A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung kinh"(阿難問事佛吉凶經)15-13-57).

        Khoảng 3000 năm trước thời Phật còn tại thế, chư tăng phải giữ giới thanh quy, chỉ đi trì bình thác bát, khất thực nuôi thân và không được giữ tiền. Thời gian trôi qua, cuộc sống xã hội đã thay đổi, chư tăng không thể ngày ngày ôm bình đi khất vì có thể bị hiểu lầm là loại sâu mọt xã hội. Thế nên Tổ thiền tông Bách Trượng Hoài Hải đã lập ra một thanh quy "nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực" (một ngày không làm, một ngày không ăn). Xã hội công nghiệp ngày nay, chú trọng hiệu quả kinh tế, nhiều nhà chùa không còn ngồi chờ bá tánh cúng dường, do đó, một số chùa tự sản xuất thực phẩm, nhang đèn để tự lực cánh sinh. "Sống là làm" đã trở thành một triết lý tự nhiên trong đời sống cũng như tu hành để không ăn cơm của chùa và bá tánh một cách uổng phí.

        Chư tăng ngày nay không thể đi bộ để hoằng pháp như thời đức Phật, nếu không giữ tiền, ai cho lên xe. Đừng vì thế mà bảo là phạm giới.

        "Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác" (佛法在世間,不離世間覺), sự tồn tại của Phật Giáo là hướng dẫn con người có một cuộc sống chơn thiện mỹ, và trở thành người có nhân cách đạo đức toàn thiện. Phật pháp tồn tại vì đời người. Nếu không có đời thì sẽ không có đạo, đời và đạo nương nhau mà có. Vì vậy thế gian pháp tức Phật pháp, Thế sự biến thiên vô thường, Phật pháp cũng có thể uyển chuyển linh động. Tinh thần giới luật của Phật phải tùy cơ, tùy thời và tùy xứ. Vì thân tâm thanh tịnh và sự ổn định của xã hội mà giữ giới; vì từ bi hỷ xả và lợi ích chúng sinh mà khai giới. Giới luật đưa đến trí tuệ, dùng trí tuệ hướng dẫn giới luật mà không bị giới luật một mực cấm chế để rồi làm mất đi giá trị thâm thúy thiêng liêng của giáo lý nhà Phật.

Trường
02-22-2023