Giới Luật
Có một lần cùng các huynh tỷ đi làm công tác từ thiện, khi kết thúc buổi công tác thì trời đã đi dần vào xế chiều, các huynh tỷ đề nghị cùng nhau dùng cơm tối để luôn tiện hàn huyên tâm sự sau một thời gian dài không được hội ngộ vì cơn dịch Covid. Vì đa phần các huynh tỷ không thọ giới chay trường, nên chúng tôi chọn một nhà hàng hải sản. Tôi thì tùy duyên nên chỉ ăn những cọng rau bên cạnh thịt cá, miễn sao hòa đồng với mọi người. Nhưng có một huynh khác thì trì giới nghiêm cẩn, huynh ăn chay như người xuất gia, chỉ ăn những thực vật thanh tịnh không có máu huyết và kiêng cữ luôn cả những đồ tanh, hành tỏi... Vì vậy, sư huynh cương quyết từ chối chung vui với chúng tôi, rồi ra về một mình. Nhìn bóng dáng huynh lủi thủi xa dần trong buổi chiều tà đêm đông, mọi người đều cảm thấy ít nhiều sự tiếc nuối và bầu không khí đột nhiên trở nên hơi nặng nề.
Sự kiện xảy ra khiến tôi suy nghĩ. Nếu đứng trên phương diện tôn giáo và đức tin thì dĩ nhiên phải tuân theo giới luật quy định. Nhưng nếu đứng trên góc nhìn thông thoáng một tí, thì tôn chỉ và mục đích của bất cứ tôn giáo nào cũng muốn mọi người được sống vui vẻ và hạnh phúc. Nghiêm trang và cảm thông cũng như mọi sự việc trên đời đều như hai mặt của một đồng tiền bổ túc lẫn nhau để thể hiện sự toàn diện và viên mãn.
Tất cả giới luật trong Phật giáo không nhằm mục đích ràng buộc bất cứ một ai. Luật lệ xã hội cũng chỉ nhằm ngăn ngừa những lỗi lầm để cho con người sống có hạnh phúc. Nhưng tất cả đều tùy theo hoàn cảnh và phương tiện mà du di để con người được an lạc. Ví dụ, nếu chúng ta bị giấy phạt vì vượt đèn đỏ, sau đó chúng ta yêu cầu được lên tòa giao thông xin trình bày lý do vi phạm luật đi đường, lỗi ấy không phải là một hành vi cố tình, mà vì hôm đó thắng xe bị trở ngại đột ngột, chúng ta nhận sai sót này. Thường thì luật và quan tòa sẽ châm chước và giảm khinh án phạt cho sự cố trên.
Đó là sự linh động của luật lệ, thế nên trong giới luật Phật pháp có bốn phần: Khai, giá, trì, phạm (開遮持犯). Khai là mở, giá là ngăn che, trì là giữ, nếu không giữ được là phạm. Ví dụ người xuất gia thì không được va chạm với phụ nữ, nhưng nếu gặp trường hợp nhìn thấy một phụ nữ bị té ngã mà không ra tay cứu giúp vì phải giữ giới thì thiết nghĩ sự dửng dưng đó không hợp lý hợp tình. Thực sư giới luật trong nhà Phật tức là đạo đức, chúng ta giữ giới nhằm tăng trưởng đạo đức của con người. Như vậy chúng ta còn gì đạo đức khi thấy người khác gặp nạn mà không ra tay cứu giúp. Trong khi cứu giúp mà cần phải bồng bế nhưng tâm không bao giờ có sự đen tối ô uế hay tà ý, chỉ nhằm mục đích cứu người chớ không có bất cứ một sự lợi dụng nào cả. Như vậy, thiết nghĩ tu sĩ ấy không phạm giới, nói đúng hơn vị tu sĩ ấy biết cách giữ giới.
Người có đạo ắt có đức nên gọi là đạo đức. Chúng ta theo đạo không phải để bái kính hay tôn thờ một đấng thần linh tối thượng nào, mà là giữ giới để làm tròn nhân cách của mình. Giới là đạo đức, càng giữ giới thì nhân cách càng thanh cao.
Năm 2004, pháp sư Tịnh Không đến Bắc Kinh hoằng pháp, tạm trọ ở Nhà Hàng Quốc Tế tại Bắc Kinh. Một hôm tình cờ gặp một đồng tu rất thân, là thương gia nổi tiếng tại địa phương. Hôm đó vị đồng tu chủ trì hôn lễ cho con trai và có nhã ý mời Sư làm người chứng hôn mặc dù người bạn ấy trước đó đã mời chủ tịch cục chánh hiệp Bắc Kinh đảm trách vai trò chứng hôn rồi. Nếu hôn lễ được một tăng một tục cùng chứng hôn thì hôn lễ sẽ càng có ý nghĩa và tròn đẹp. Khi được biết con dâu là người Nhật và khách đến dự hôm đó gồm nhiều viên chức đại sứ quán Nhật, cán bộ trong bộ nội vụ Bắc Kinh cùng nhiều thương gia nổi tiếng địa phương. Đây là cơ duyên hiếm có để giới thiệu Phật pháp cho giới thượng lưu ít có cơ hội tiếp xúc đạo lý không môn, cho nên Sư đồng ý nhận làm chứng hôn.
Sự hiện diện của Sư Tịnh Không hoàn toàn nằm ngoài dự tính, cho nên buổi tiệc toàn là đồ mặn. Sư tùy duyên dùng rau cải bên cạnh thịt cá. Cuộc vui nào đương nhiên đều có mời rượu để mọi người chúc phúc nhau. Sư tuyên bố chỉ nhấp ly nhỏ. Có người cho rằng “Sư Tịnh Không” phá giới, nhưng Sư nói đó là khai duyên, bởi vì Sư không có dự tính tham dự buổi tiệc thế tục và mời rượu chúc phúc cho hôn lễ. Học Phật phải được lợi ích chân thật, vậy lợi ích chân thật là biết áp dụng nguyên tắc khế lý khế cơ vào đời sống hằng ngày. Khế lý: “khế” tức là hợp, “lý” tức là chân lý. có nghĩa là phù hợp với đạo lý, pháp lý. Khế cơ : có nghĩa là phù hợp với từng hoàn cảnh, từng căn cơ của người nghe. Phật hiểu được căn tánh của chúng sanh mà tùy nghi hóa độ, đưa ra những phương tiện để dẫn dắt chúng ta đi đến chánh pháp. Nếu quá nghiêm khắc chấp trước trong việc hoằng đạo, không trắng là đen, không kiên thủ thì có tội, thì nhiều người sẽ e ngại và không muốn tiếp xúc với Phật pháp.
Trở lại câu chuyện buổi hôn lễ, trong khi mời rượu, chủ hôn mời Sư nói vài lời chúc phúc cô dâu chú rể, đây là cơ duyên hoằng pháp rất khế cơ khế thời. Mở đầu, Sư giới thiệu sơ lược về Phật pháp. Nhờ vậy mà có nhiều người đã hiểu thêm và chấp nhận Phật pháp. Sư giải bày giáo lý nhà Phật không ràng buộc bất cứ điều gì trong cuộc sống, giới luật nhà Phật linh động uyển chuyển, giữ giới là giữ nhân cách để cuộc sống được hạnh phúc cho chính bản thân và người khác.
Khai giới là lợi ích cho chúng sinh, trì giới là lợi ích cho chính mình. Nếu cứ khư khư giữ giới tu trì mà không nghĩ đến hạnh phúc của người khác thì không phù hợp với giáo lý của đạo Phật là từ bi chúng sanh, cứu nhân độ thế. (Trích lục từ buổi khai thị "A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung kinh"(阿難問事佛吉凶經)15-13-57).
Khoảng 3000 năm trước thời Phật còn tại thế, chư tăng phải giữ giới thanh quy, chỉ đi trì bình thác bát, khất thực nuôi thân và không được giữ tiền. Thời gian trôi qua, cuộc sống xã hội đã thay đổi, chư tăng không thể ngày ngày ôm bình đi khất vì có thể bị hiểu lầm là loại sâu mọt xã hội. Thế nên Tổ thiền tông Bách Trượng Hoài Hải đã lập ra một thanh quy "nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực" (một ngày không làm, một ngày không ăn). Xã hội công nghiệp ngày nay, chú trọng hiệu quả kinh tế, nhiều nhà chùa không còn ngồi chờ bá tánh cúng dường, do đó, một số chùa tự sản xuất thực phẩm, nhang đèn để tự lực cánh sinh. "Sống là làm" đã trở thành một triết lý tự nhiên trong đời sống cũng như tu hành để không ăn cơm của chùa và bá tánh một cách uổng phí.
Chư tăng ngày nay không thể đi bộ để hoằng pháp như thời đức Phật, nếu không giữ tiền, ai cho lên xe. Đừng vì thế mà bảo là phạm giới.
"Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác" (佛法在世間,不離世間覺), sự tồn tại của Phật Giáo là hướng dẫn con người có một cuộc sống chơn thiện mỹ, và trở thành người có nhân cách đạo đức toàn thiện. Phật pháp tồn tại vì đời người. Nếu không có đời thì sẽ không có đạo, đời và đạo nương nhau mà có. Vì vậy thế gian pháp tức Phật pháp, Thế sự biến thiên vô thường, Phật pháp cũng có thể uyển chuyển linh động. Tinh thần giới luật của Phật phải tùy cơ, tùy thời và tùy xứ. Vì thân tâm thanh tịnh và sự ổn định của xã hội mà giữ giới; vì từ bi hỷ xả và lợi ích chúng sinh mà khai giới. Giới luật đưa đến trí tuệ, dùng trí tuệ hướng dẫn giới luật mà không bị giới luật một mực cấm chế để rồi làm mất đi giá trị thâm thúy thiêng liêng của giáo lý nhà Phật.
Trường
02-22-2023
No comments:
Post a Comment