Showing posts with label khí hậu-môi sinh. Show all posts
Showing posts with label khí hậu-môi sinh. Show all posts

12/20/23

Các nhà khoa học gióng lên hồi chuông cảnh báo sau khi loài cá hồi tìm thấy địa điểm sinh sản mới: 'Một dấu hiệu đáng ngại'

Rick Kazmer Chủ nhật, ngày 17 tháng 12 năm 2023 

Cá hồi/salmon đã bắt đầu bơi về hướng Bắc Bắc cực để đẻ: một dấu hiệu rất đáng lo ngại! Lý do là vì cá hồi phải tìm về chỗ ấm để đẻ, tức là Bắc cực đang nóng lên nhanh gấp 4 lần so với các nơi khác trên trái đất.

Phải chờ để xem hiện tượng này sẽ gây hậu quả thế nào!

Trong cốt truyện gợi nhớ đến câu chuyện cổ tích “ Goldilocks ”, cá hồi chum đang tìm kiếm những vùng nước ấm “thích hợp”.

Theo một báo cáo từ Wired, do hành tinh này quá nóng, món cháo hoàn hảo theo tục ngữ của chúng nằm ở các khu vực Bắc Cực xa xôi mà trước đây chưa từng được biết đến bởi loài cá di cư nổi tiếng với khả năng sinh sản dồi dào của chúng, theo một báo cáo từ Wired , gọi sự phát triển mới là “một dấu hiệu đáng ngại”.

Các nhà nghiên cứu được phỏng vấn trong câu chuyện vẫn chưa biết khu vực sinh sản thay đổi của cá hồi sẽ tác động đến hệ sinh thái như thế nào.

Chuyện gì đang xảy ra ?

Theo tạp chí Nature , Bắc Cực đang nóng lên nhanh gấp 4 lần so với phần còn lại của hành tinh . Các chuyên gia cho rằng sự hiện diện của cá hồi chum ở xa hơn về phía bắc chỉ là một dấu hiệu khác của sự nóng lên chưa từng có.

Peter Westley, nhà sinh thái học tại Đại học Alaska, nói với Wired : “Điều dường như đang xảy ra là những con sông Bắc Cực này mới bắt đầu trở nên phù hợp”.

Tại sao nó lại quan trọng?

Các nhà sinh vật học vẫn chưa biết số lượng cá hồi tăng lên ở các con sông phía bắc xa xôi sẽ tác động như thế nào đến các loài khác mà người dân địa phương trong khu vực phụ thuộc vào. Các nhà nghiên cứu nói với Wired rằng tất cả trứng cá hồi (cá hồi đẻ một đống trứng rồi chết, như một phần trong vòng đời của chúng) có thể cung cấp thức ăn cho các loài khác. Theo nghĩa đó, những người mới đến có thể được xem như một sự trợ giúp.

Tuy nhiên, di cư là một phần của sự thay đổi sinh thái tổng thể, bao gồm băng tan và tăng trưởng xanh hơn, cùng nhiều vấn đề khác.

Một mối quan tâm liên quan đến lượng nước dư thừa do băng tan tạo ra. Wired đưa tin các chuyên gia lo ngại dòng chảy mới sẽ làm suy thoái đất, trộn lẫn nước trên mặt đất với các dòng suối ngầm.

Nhiều thảm thực vật hơn - thậm chí cả những cây bụi cao hơn - có thể có những tác động. Chúng có thể giữ tuyết trên đất, cách nhiệt mặt đất và ngăn không cho mặt đất bị đóng băng.

Wired đưa tin : “Điều đó có thể đẩy nhanh quá trình tan băng vĩnh cửu, từ đó sẽ giải phóng khí mêtan làm nóng hành tinh” .

Những gì đang được thực hiện để giúp đỡ?

Các nhà nghiên cứu đang đặt các cảm biến ở Bắc Cực để đo nhiệt độ nước. Điều này sẽ giúp họ đánh giá xem các vùng nước trên thực tế có thích hợp với sự hiện diện ngày càng tăng của cá hồi hay không, theo Wired.

Giảm ô nhiễm không khí làm hành tinh nóng lên là rất quan trọng để ngăn chặn tình trạng tan băng ở Bắc Cực. Chuyển sang xe điện hạn chế ô nhiễm. Tuy nhiên, Cơ quan Kiểm soát Ô nhiễm Minnesota lưu ý rằng việc tắt máy xe thay vì để xe ở chế độ chờ, cũng như đảm bảo hệ thống ống xả được sửa chữa tốt, có thể giúp đầu đốt xăng sạch hơn một chút.

Trồng và chăm sóc cây là một cách khác để giúp đỡ. Theo Tổ chức Arbor Day , trong một năm, một cây trưởng thành hấp thụ hơn 48 pound ô nhiễm không khí.

12/18/23

Sống tiết kiệm, gắn bó cộng đồng…: Giải pháp thoát đại khủng hoảng sinh thái

Chủ đề ‘‘Sống một cách khác trong thế giới này’’

Ảnh: Một sinh hoạt của cộng đồng Mạng lưới đô thị sinh thái (Transition Network), xuất phát từ thị trấn Totnes, Anh quốc, do Rob Hopkins sáng lập, hiện có mặt ở khoảng 500 đô thị trên thế giới.

Nhà cao cửa rộng vốn là mong muốn của đông đảo mọi người, và ngày càng trở thành một mẫu hình lý tưởng, gắn liền với lối sống tự do cá nhân phương Tây. Tuy nhiên, việc thu hẹp diện tích ở cũng lại đang là một xu thế bắt đầu được ghi nhận tại nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là tại nhiều nước phát triển. Nhiều người coi đây là giải pháp căn bản giúp nhân loại, sắp 10 tỉ người, đối phó với các khủng hoảng nhiều mặt, trước hết là cuộc đại khủng hoảng sinh thái.

Chọn nơi ở khác với quan điểm thống trị nói trên đi liền với việc lựa chọn những lối sống khác: chọn sống cùng bạn bè, hay sống chung với những người cùng hoặc không cùng huyết thống, lập cộng đồng với những người cùng chí hướng… Với chủ đề ‘‘Habiter le monde autrement’’ (tạm dịch là ‘‘Sống một cách khác trong thế giới này’’), Courrier International hy vọng chuyển đến độc giả nhiều cảm hứng và trải nghiệm mới, có thể có ý nghĩa thiết thực cho các lựa chọn hướng đi tương lai.

Áp lực địa ốc ở nước giàu: Phong trào giảm ‘‘diện tích nhà ở’’ tại Đan Mạch


‘‘Sống một cách khác trong thế giới này’’ với tiêu điểm là vấn đề nơi ở. Vì sao lại là chủ đề ‘‘nơi ở’’? Bởi sự lựa chọn tự do hay do hoàn cảnh bó buộc, ngày càng có nhiều người quyết định sống một cách khác và sáng tạo lại khái niệm về cuộc sống tập thể. Mục tiêu là tạo những lối sống mới, cách cư trú mới, ‘‘bền vững hơn cho con người và ít tổn hại hơn cho môi trường.

Tại Đan Mạch, ở nhiều nơi dấy lên một phong trào hướng đến ‘‘thu hẹp diện tích nơi ở’’ nhằm nỗ lực giảm khí thải gây hiệu ứng, góp phần vào cuộc chiến chống hâm nóng khí hậu. Tại thành phố Skanderborg, mục tiêu đặt ra là trung hòa về khí thải ngay từ năm 2025. Cuộc chiến giảm diện tích nơi ở vấp phải nhiều trở lực trong một xã hội, nơi diện tích ở cá nhân được coi là một tiêu chuẩn sống quan trọng, và gắn liền với tập quán lâu đời của xứ sở Bắc Âu này.

Trên thực tế, nhìn chung, việc thu hẹp diện tích ở là một áp lực tại chính ‘‘các nước giàu nhất’’. Tại Mỹ hay châu Âu, giá thuê nhà gia tăng, số lượng nơi ở mới ngày càng hiếm, bên cạnh việc giá thuê người coi sóc trẻ đắt hay chi phí cao ở nhà dưỡng lão buộc nhiều người phải thuê nhà chung, hay sống cùng cha mẹ. Hãng tin Mỹ Bloomberg cho biết, số lượng giấy phép xây dựng mới tại Đức sụt 27% trong nửa đầu năm nay. Tại Pháp, Anh, tình hình tương tự.

‘‘Tự cung tự cấp’’, gần gũi thiên nhiên, thay vì ‘‘nhà cao cửa rộng’’


Tuy nhiên, kinh nghiệm đặc biệt về ‘‘nơi ở’’ được tuần báo Pháp Courrier International nêu bật qua phóng sự của African Arguments, là trường hợp của một cộng đồng mang tên eKhenana, ở khu vực ngoại ô thành phố Durban, Nam Phi, hình thành từ năm 2018. Cộng đồng eKhenana, với 109 gia đình, được coi là những người đi tiên phong trong một thế giới hướng đến mục tiêu duy trì nhiệt độ không tăng quá 1,5°C.

Lối sống ‘‘tự cung tự cấp’’ một thời bị chê bai là lạc hậu, giờ được xem như một lối thoát cho thế giới. Các chuẩn mực sống của châu Âu, của phương Tây nói chung, về một lối sống tiêu thụ nhiều, nhà cao cửa rộng, không còn là ‘‘khuôn vàng thước ngọc’’ cho hạnh phúc của đông đảo, mà thậm chí là một tham vọng với các hệ quả nguy hại. Theo báo châu Phi, kinh nghiệm của cộng đồng nhỏ bé ở bên lề xã hội tại Nam Phi này cho thấy, sống tiết kiệm với các điều kiện khiêm tốn là con đường dẫn đến hạnh phúc cho mình và bảo vệ hành tinh.

Lịch sử nhân loại: Từ bỏ quan điểm ‘‘định mệnh’’ để rút ra các bài học thực sự.


Tuấn báo Pháp Courier International giới thiệu trích đoạn bài viết của nhà báo Michael Marshall, trên New Scientist, Anh Quốc, tuần báo phổ biến khoa học hàng đầu thế giới, với tiêu đề ‘‘Một quan niệm khác về lịch sử các nền văn minh nhân loại’’. Ôn cố tri tân: Hiểu đúng hơn về lịch sử có thể giúp con người tự do, chủ động hơn trong nhận thức, xác định được đúng hơn hướng đi trong xã hội đương đại vô cùng phức tạp hiện nay, là chủ ý của bài viết.

Muốn nhận thức đúng hơn, cần thoát khỏi các ảo tưởng mang tính định mệnh. Tuần báo New Scientist cho biết quan điểm thống trị từ lâu trong nghiên cứu về lịch sử nhân loại, đó là nền văn minh nông nghiệp, ra đời khoảng 10.000 năm trước, với việc thuần hóa nhiều giống loại thực vật và động vật, đã là động lực làm xuất hiện các xã hội phức tạp, phát triển. Theo quan điểm này, văn minh nông nghiệp dẫn đến nhiều thành tựu vĩ đại, như mức sống gia tăng, chữ viết, y học ra đời… Mặt tiêu cực là sự hình thành của các hệ thống quyền lực, bất bình đẳng gia tăng…. Và với sự phát triển của các xã hội phức tạp, những điểm tiêu cực nói trên ngày thêm trầm trọng hơn và không thể tránh khỏi. Các chuyên gia, trong đó có người nổi tiếng như giáo sư Jared Diamond (Ucla), giải thưởng Pulitzer, với nhiều tác phẩm bán chạy nhất thế giới, thậm chí coi nông nghiệp là một ‘‘cạm bẫy’’, là ‘‘sai lầm tồi tệ nhất của nhân loại’’.

Theo New Scientist, quan điểm về nguyên nhân đơn nhất nói trên đã bị nhiều phát hiện gần đây bác bỏ. Việc khảo cổ học phát hiện một số công trình kiến trúc quy mô lớn có trước thời kỳ văn minh nông nghiệp (chẳng hạn như quần thể kiến trúc Gobekli Tepe, Thổ Nhĩ Kỳ, khoảng 11.500 đến 10.000 năm trước), cho thấy ngay trong các xã hội săn bắn - hái lượm cũng đã tồn tại các hình thái tổ chức rất cao, cho phép huy động một số lượng lớn nhân lực vào các công trình lớn. Văn minh nông nghiệp đúng là cơ sở cho sự phát triển của nhiều xã hội ‘‘phức tạp’’, nhưng không phải là nguyên nhân duy nhất.

New Scientist cũng phê phán kết quả của nghiên cứu quy mô của Seshat (viện nghiên cứu Mỹ Evolution Institute), về 414 xã hội, tồn tại trong 10.000 năm lịch sử, từ khi có nông nghiệp. Đây là dự án nghiên cứu được coi là lớn hàng đầu. Theo một số kết quả ban đầu của Seshat, gây bàng hoàng, có nhận định về động lực quan trọng nhất để thúc đẩy các xã hội phát triển là ‘‘chiến tranh’’, còn quan trọng hơn cả nông nghiệp. Quan điểm này cũng bị chuyên gia Timothy Kohler (Đại học Washington) phản bác.

10.000 năm ‘‘mưa thuận gió hòa’’ sắp tan vỡ: Động lực nào giúp nhân loại hành động ?

Nhìn chung, không có một nguyên nhân ban đầu, có ý nghĩa quyết định duy nhất, và mang tính định mệnh. Sự hình thành của nền văn minh nhân loại, tính chất phức tạp của xã hội con người, còn chứa đầy ẩn số. Nhưng có một điểm dường như tương đối được giới khoa học thống nhất, đó là nông nghiệp phát triển mạnh để trở nên ổn định trên quy mô toàn cầu là vào thời điểm khoảng 10.000 năm trước, tương ứng với thời kỳ mà khí hậu Trái đất bước vào ổn định với tình trạng mưa thuận gió hòa tại nhiều khu vực rộng lớn.

Các điều kiện thuận lợi nói trên hiện đang đứng trước nguy cơ bị phá vỡ do biến đổi khí hậu, do chính nền văn minh công nghiệp tạo ra. Để hãm lại đà biến đổi khí hậu và thích ứng với những hậu quả của nó, các xã hội đương đại cũng cần được cải tổ sâu sắc. Trở lại hiểu đúng lịch sử, học lấy các bài học tích cực từ các xã hội ngoài phương Tây là rất quan trọng. Theo nhà khảo cổ học so sánh người Anh, David Wengrow, trường College Luân Đôn, xét về đóng góp ‘‘xây dựng xã hội’’, thì quan hệ cộng đồng, quan hệ với thiên nhiên, năng lực sáng tạo nghệ thuật của các thổ dân xứ Ambrym ở tiểu quốc đảo Vanuatu chẳng hạn có thể đáng được xem trọng hơn nhiều so với các xã hội phát triển châu Âu.

Nguồn: Mục điểm tuần báo RFI tiếng Việt - Trọng Thành, Đăng ngày: 

12/17/23

COP28: Cam kết ‘‘giã từ than-dầu-khí’’ và công lao của ông chủ Adnoc

Sáng ngày 13/12/2023 được ghi vào lịch sử nhân loại như một bước tiến ‘‘lịch sử’’. Hội nghị khí hậu lần thứ 28 (COP28) của Liên Hiệp Quốc, họp tại Dubai, đã thông qua thỏa thuận khẳng định nhân loại khởi đầu của kỷ nguyên chia tay với năng lượng hóa thạch - thủ phạm chính của việc Trái đất bị hâm nóng. Không khí đã trở nên căng thẳng cao độ vào những ngày áp chót, với sự phản đối quyết liệt của phe ‘‘dầu mỏ’’.

Chủ tịch COP28 Sultan Ahmed al Jaber tại phiên khai mạc Hội nghi ở Dubai, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, 30/11/2023. REUTERS - Amr Alfiky

Tình hình có lúc tưởng chừng bế tắc. COP28 đã phải kéo dài thêm một ngày để thỏa thuận được thông qua. Vì sao COP28 đã ra được thỏa thuận lịch sử như vậy? Không thể phủ nhận được vai trò của chủ tịch COP28, chủ tập đoàn dầu mỏ Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Sultan al-Jaber. Chủ tịch COP28 đã đóng góp như thế nào cho thỏa thuận lịch sử này?

***

Trước thềm COP 28, không khí hoài nghi cao độ. Chủ tịch COP28, ông al-Jaber, lãnh đạo tập đoàn Adnoc của Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, tập đoàn dầu khí hàng đầu thế giới, bị tình nghi lợi dụng COP28 để ‘‘mở rộng thị trường khai thác các năng lượng hóa thạch’’ (theo truyền thông Anh Quốc). Chủ tịch COP28, bị cáo buộc lợi dụng việc công để tư lợi, tiếp tục đứng trước áp lực buộc hoặc từ chức chủ tịch COP, hoặc từ chức chủ tịch tập đoàn Adnoc (kêu gọi của khoảng 100 tổ chức phi chính phủ quốc tế, và nhiều nghị sĩ Âu, Mỹ).

Đại gia dầu khí ‘‘dễ thuyết phục’’ giới dầu khí

Trên thực tế, việc ông al-Jaber được chấp thuận làm chủ tịch COP28, cũng nằm trong chủ trương và hy vọng của Liên Hiệp Quốc và nhiều nước vận động từ bỏ năng lượng hóa thạch. Là một đại gia trong ngành dầu khí không hẳn đã là một điểm yếu. Theo một nhà thương lượng kỳ cựu châu Âu, việc chủ tịch COP28 là một thành viên của giới dầu khí thậm chí có thể là một ‘‘lợi thế’’.

Thỏa thuận Hội nghị Khí hậu của Liên Hiệp Quốc đòi hỏi sự đồng thuận của tất cả các thành viên, hay nói cách khác, không bị bất cứ nước nào phản đối. Chủ tịch COP28, một đại gia trong ngành dầu khí, có khả năng thuyết phục được các quốc gia dầu khí bằng hữu. Chủ công ty Adnoc đã dành cho giới dầu khí một vị trí quan trọng tại COP28, theo ghi nhận của giới quan sát. Vào ngày áp chót của hội nghị, 11/12, chủ tịch COP28 đã đưa ra một dự thảo thỏa thuận gây sốc, khi loại trừ nội dung ‘‘giã từ năng lượng hóa thạch’’. Đông đảo các nước và giới tranh đấu môi trường kịch liệt phản đối phiên bản, bị coi là được đưa ra dưới áp lực của khối các nước bảo vệ năng lượng hóa thạch.

Làm rõ ‘‘lằn ranh đỏ’’: Thủ pháp đàm phán

Rút cục một thỏa thuận cuối cùng đã được đưa ra, cụm từ ‘‘từ bỏ năng lượng hóa thạch’’ (phase out), mà phe chống năng lượng hóa thạch chủ trương không có mặt, nhưng thay vào đó là cụm từ uyển chuyển hơn, ‘‘giã từ dần dần’’ (transition away from) các năng lượng hóa thạch ‘‘một cách đúng đắn, có tổ chức và công bằng’’. Dự thảo rút cục đã nhanh chóng được gần 200 nước thông qua chỉ ít giờ sau khi được đưa ra.

Về dự thảo áp chót bị đông đảo cộng đồng quốc tế phản đối dữ dội, ban điều hành COP28 giải thích rõ, trên thực tế, đây là một thủ pháp đàm phán nhằm cho phép phe dầu mỏ bộc lộ quan điểm, và cũng là dịp để các quốc gia khác khẳng định ‘‘các lằn ranh đỏ’’. Thủ pháp nói trên rút cục đã mang lại kết quả như ta đã biết.

Theo AFP, một trong những bí quyết khiến tiếng nói của chủ tịch COP28 được lắng nghe là ông al-Jaber đã rất chú trọng đến khâu truyền thông. Chủ tịch COP28 đã tuyển mộ một nhóm chuyên viên lành nghề trong lĩnh vực truyền thông – giao tế. Bản thân chủ tịch COP28 cũng là người nỗ lực thiết lập quan hệ với giới bảo vệ môi trường khí hậu.

Tiếp thu quan điểm của giới môi trường

Theo ông Harjeet Singh, một người có nhiều kinh nghiệm tại COP, phát ngôn viên của mạng lưới quốc tế Climate Action Network-CAN (quy tụ khoảng 1.900 hiệp hội), từ nhiều tháng trước COP28, chủ tập đoàn Adnoc đã thường xuyên lắng nghe CAN. Tháng 6/2023, đại gia dầu khí này thừa nhận, việc giảm dần năng lượng hóa thạch là điều ‘‘không thể tránh khỏi’’ (bài ''Sultan al-Jaber : một doanh nhân bài bản điều hành COP28", France 24).

Vừa để các tiếng nói phản đối việc ‘‘giã từ năng lượng hóa thạch’’ được bày tỏ đầy đủ, vừa lắng nghe và tiếp thu quan điểm của giới bảo vệ khí hậu là hành xử của chủ tịch COP28. Ông al-Jaber khẳng định rõ cần thực thi mục tiêu giữ nhiệt độ Trái đất không tăng quá 1,5°C so với thời kỳ tiền công nghiệp (tức mục tiêu mức cao của Hiệp định khí hậu Paris 2015, mục tiêu mức thấp là giữ nhiệt độ không tăng quá 2°C).
Thông điệp ‘‘1,5°C’’ đúng lúc: ‘‘Lực đẩy’’ cho đàm phán

Giữ nhiệt độ Trái đất không tăng quá 1,5°C cũng là đòi hỏi của lãnh đạo Liên Hiệp Quốc, của đông đảo các nước, của giới bảo vệ môi trường. Theo các dự báo khoa học, đã được cộng đồng quốc tế đồng thuận, nếu nhiệt độ Trái đất tăng quá 1,5°C, nhân loại sẽ đối mặt với các thảm họa thiên nhiên vượt tầm kiểm soát. Lãnh đạo COP28 coi mục tiêu 1,5°C là thiết thân khi nhấn mạnh, ông điều hành COP28 để mang lại các kết quả ‘‘thực sự’’, để ‘‘giữ mục tiêu 1,5°C trong tầm tay’’.

Thông điệp ‘‘1,5°C’’ được chủ tịch COP28 nhiều lần khẳng định là ‘‘kim chỉ nam’’ cho hành động của ông, trước thềm hội nghị, và nhiều lần trong những ngày đầu tiên (Le Monde, 04/12). Điều này đã mang lại ‘‘lực đẩy tích cực’’cho tiến trình đàm phán, theo ghi nhận của ông Yves Marignac, chuyên gia về năng lượng hạt nhân và hóa thạch, Viện Institut NégaWatt, trong một cuộc trả lời đài RFI.

Nhanh chóng ‘‘giã từ năng lượng hóa thạch’’: Cơ hội cuối cùng với nhân loại

Trên thực tế, nhân loại đang đứng trước chân tường. Cộng đồng quốc tế chỉ còn ít năm nữa để giữ được mục tiêu 1,5°C (trong lúc nhiệt độ Trái đất hiện đã tăng hơn 1,4°C). Để làm được điều này, trước mắt phải cắt giảm được ít nhất đến 43% khí thải (chủ yếu) do năng lượng hóa thạch (so với năm 2019) ngay trước năm 2030, tức phải nỗ lực gấp hai mươi lần so với hiện nay (theo báo cáo của Cơ quan khí hậu Liên Hiệp Quốc - UN Climate, tổng cam kết cắt giảm của nhân loại hiện tại chỉ cho phép giảm 2% khí thải vào năm 2030). Việc giã từ năng lượng hóa thạch không hề là chuyện của tương lai xa vời, mà là ngay trước mắt, và nhất là việc tăng tốc giã từ năng lượng hóa thạch phải được quyết định ngay tại COP28.

Đối với không ít chính trị gia, nhà quan sát, thỏa thuận khí hậu COP28, mở đầu kỷ nguyên ‘‘giã từ năng lượng hóa thạch’’, được cho là ‘‘lịch sử’’, trên thực tế có thể là ‘‘cơ hội cuối cùng’’ với cộng đồng quốc tế, để tránh các đại thảm họa do biến đổi khí hậu. Lãnh đạo tập đoàn Adnoc dường như rất hiểu điều này.

Chủ tịch COP28 - chủ tập đoàn Adnoc, một người tự hào về nghề kỹ sư mà ông được đào tạo và ‘‘tin tưởng vào khoa học’’, cho biết ‘‘toàn bộ cuộc đời ông’’ đã được ''tổ chức trên các nguyên tắc hướng đến hiệu quả’’, và ông cũng ‘‘quản lý các doanh nghiệp như vậy’’. Đóng góp lớn nhất của chủ tịch COP28 có lẽ nằm ở chỗ ông chia sẻ nhận thức chung của cộng đồng khoa học, của giới bảo vệ môi trường, của đông đảo các quốc gia trên thế giới, mong muốn kịp thời bảo vệ Trái đất khỏi nhiệt độ gia tăng, với các hậu quả vượt tầm kiểm soát. Vấn đề tiếp theo là các hành động ‘‘hiệu quả’’ nào để thực thi mục tiêu này.

Trọng Thành

9/29/23

Nấm-rễ cộng sinh: ‘‘Bí quyết 400 triệu năm tuổi’’ có giúp nhân loại thoát đại họa khí hậu?

Nghe phần âm Thanh:
Đại thảm họa chồng chất, do Trái đất bị hâm nóng, đang cận kề. Nhiệt độ toàn cầu sắp ‘‘tăng quá 1,5°C’’ so với thời tiền công nghiệp. Sự phụ thuộc nặng nề vào năng lượng hoá thạch ‘‘đã mở cánh cửa địa ngục với nhân loại’’, như cảnh báo của Liên Hiệp Quốc. Viễn cảnh đen tối ngày một khó tránh khỏi. Tuy nhiên, cái khó làm ló cái khôn. Ít năm gần đây ‘‘nấm rễ’’ đang được hy vọng như một giải pháp chống biến đổi khí hậu hàng đầu, có thể giúp nhân loại thoát hiểm.
Nấm rừng mùa thu (ảnh minh họa)

“Nấm rễ” là gì ? Vì sao nhiều hy vọng được đặt vào “nấm rễ” ? Tạp chí của RFI tổng hợp thông tin về chủ đề này. Khách mời của Tạp chí hôm nay là giáo sư Marc-André Selosse, Viện bảo tàng Quốc gia về Lịch sử Tự nhiên (MNHN), Paris, một chuyên gia trong lĩnh vực nấm rễ cộng sinh xứ ôn đới. Ông cũng là tác giả cuốn “L’Origine du monde : une histoire naturelle du sol à l’intention de ceux qui le piétinent” (tạm dịch là “Nguồn gốc của thế giới : Một lịch sử tự nhiên của đất, dành cho những ai bước đi trên đó mà không hay’’).

“Tấc đất” còn giá trị hơn cả “tấc vàng”. Bởi đất là ‘‘nguồn gốc” của sự sống, đất “nuôi dưỡng” sự sống, “bảo vệ” sự sống. “Đất” có ý nghĩa sống còn với sự sống như vậy, nhưng bản thân cuộc sống của đất, cuộc sống trong lòng đất lại là điều còn rất ít được biết đến, và rất ít được chú ý bảo vệ. “Nấm rễ cộng sinh” - một phần căn bản làm nên sự sống của rừng – cũng chính là một giải pháp chống biến đổi khí hậu hàng đầu, theo ghi nhận của giáo sư Marc-André Selosse, chuyên gia về nấm truffle (hay “nấm cục”), một trong các loài nấm rễ cộng sinh nổi tiếng ở Pháp, và ở châu Âu. Giải pháp căn bản cho cuộc chiến chống biến đổi khí hậu nằm ngay dưới chân ta, ngay trong lòng đất.

Thiếu “nấm rễ”, cây còi cọc


Giới khoa học đã phát hiện ra vai trò của nấm rễ như thế nào ? Trả lời RFI Việt ngữ, giáo sư Marc-André Selosse tóm lược:

‘‘Phát hiện về chuyện này diễn ra vào năm 1885. Vào thời điểm đó, Albert Bernhard Frank, một nhà thực vật học người Phổ (nước Đức hiện nay), được bộ trưởng Nông Nghiệp nước này đặt câu hỏi : vì sao nấm truffle luôn mọc dưới gốc cây ? Albert Bernhard Frank đã phát hiện ra rằng bộ phận tồn tại ổn định của nấm truffle nằm sâu trong lòng đất, với vô vàn các sợi có kích thước hết sức nhỏ bé. Cây nấm, bộ phận nổi trên mặt đất, trên thực tế chỉ là ‘‘cơ quan sinh sản’’, cho phép phát tán các bào tử nấm. Các bộ phận siêu nhỏ tồn tại ổn định nằm trong lòng đất nối liền với các rễ cây, nhà khoa học người Phổ gọi đây là hiện tượng ‘‘nấm rễ cộng sinh’’ (mycorhize). Không chỉ có nấm truffle, mà hàng nghìn loài nấm cũng tồn tại theo một cơ chế tương tự. Khi phát hiện nhiều “nấm rễ cộng sinh” ở cây sồi, Albert Bernhard Frank đặt câu hỏi : Phải chăng các loài nấm như vậy giúp cây phát triển ? Năm 1892, ông viết một bài báo, với nhận định : nếu cắt bỏ nấm rễ của cây thông, loại cây này sẽ phát triển không tốt… (…) Khi người phương Tây di thực các loại thông đến những vùng đất ở Nam Mỹ và châu Phi, thoạt tiên, thông không thể phát triển được nếu không có các loại nấm rễ. Đối với các loại cây thông phát triển tốt ở Nam Mỹ, đến mùa, người ta thấy trên rễ chúng cùng các loại nấm như ở châu Âu’’.

Quan hệ cộng sinh Cây và Nấm. 

Cây cung cấp ‘‘đường’’ cho nấm, nấm ‘‘đi chợ’’ giúp cây


Nấm rễ cộng sinh sống trên các mô rễ của cây chủ, sống nhờ vào cây chủ, nhưng tham gia vào thúc đẩy sự sống của cây chủ, trái ngược với các loại nấm hoại sinh, nấm phân giải chất hữu cơ sống nhờ vào các thực thể hữu cơ chết, phân huỷ, hay các loại nấm ký sinh xâm nhập vào cơ thể vật chủ, gây bệnh và thậm chí tiêu diệt vật chủ. Nấm rễ cộng sinh cụ thể như thế nào với cây? Giáo sư Marc-André Selosse giải thích :

‘Trong thế kỷ 20, nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy nấm rễ nhận được từ cây chất đường, chắc chắn là các loại vitamin, và trong nhiều trường hợp cả các axit béo, tức các sản phẩm có được nhờ ở tiến trình quang hợp của cây. Ngược lại, nấm làm việc công việc ‘‘đi chợ’’ trong lòng đất, hay nói cách khác lấy từ đất các chất azot, photphat, potasium, các chất vi lượng, nước… để tự nuôi nó, nhưng cũng để nuôi cây (…) Trong lòng đất có rất nhiều chất, nhưng tồn tại rất tản mát. Nấm rễ nhỏ li ti làm công việc hút lấy các nguồn dưỡng chất, với hiệu suất cao hơn nhiều so với các rễ cây to. Nấm rễ cũng làm cả công việc bảo vệ rễ cây. Khi quan sát rễ cây ở các vùng ôn đới, cả Nam bán cầu cũng như Bắc bán cầu, và một số nơi ở xứ nhiệt đới, nấm rễ làm nên một thứ vỏ bọc bao xung quanh rễ cây. Có một số loại thông hay bạch đàn không thể mọc được trên đất đá vôi chẳng hạn, nếu không có nấm cộng sinh bao bọc rễ. Nấm rễ giúp cây trong việc tiếp nhận calcium, điều hoà lượng nước tiếp nhận, và cả chống lại các vi sinh vật có hại tấn công rễ. Và có một điều tinh vi, quan trọng khác mới được phát hiện gần đây, đó là nấm rễ giúp cả việc tăng cường hệ miễn dịch của cây, đối với toàn bộ cây, không chỉ với rễ cây. Tóm lại, nấm rễ bảo vệ cây, và và hoạt động tương trợ này diễn ra có tổ chức, bởi khi bảo vệ cây, nấm cũng bảo vệ chính kho thực phẩm của mình’’.

Không có “nấm” thì không có rừng

Nấm rễ cộng sinh mang lại sự sống cho đại đa số các hệ sinh thái trên mặt đất là điều mà giới khoa học, và một số định chế quốc tế ghi nhận từ khá lâu nay. Hội Đồng Toàn Châu Âu (Council of Europe), trong một văn bản năm 2001, liên quan đến nấm, làm rõ Phụ lục 1 Công ước Bern (tức Công ước Bảo tồn Thiên nhiên hoang dã ở châu Âu, có hiệu lực từ năm 1982), nhấn mạnh: “Các loài nấm rễ tham gia vào nhiều quan hệ cộng sinh : khoảng 85% cây thân gỗ có cơ chế cộng sinh nấm rễ, và đây là điều quan trọng nhất trong các chức năng sinh thái của chúng – không có nấm rễ thì sẽ không có rừng, và không có các hệ sinh thái tự nhiên có tổ chức khác’’.

Châu Âu có hai tổ chức toàn châu lục bảo vệ nấm rễ : Hội đồng châu Âu Bảo tồn Nấm (The European Council for the Conservation of Fungi - ECCF), thành lập từ năm 1985, và Hiệp hội chuyên về Nấm rễ châu Âu (European Mycological Association - EMA), thành lập năm 2003. Không kể các hiệp hội quốc gia nhiều nước tồn tại từ lâu đời. Hiệp hội nấm rễ Pháp (Société mycologique de France) xuất hiện từ năm 1884, cùng thời với phát hiện của nhà nghiên cứu người Phổ.


Từ rừng bị hâm nóng...

Tuy nhiên, tại châu Âu và với quốc tế nói chung, trong một thời gian dài nấm rễ về cơ bản vẫn chỉ được nhìn nhận về phương diện đa dạng sinh học, không trực tiếp liên quan đến chuyện biến đổi khí hậu. Cuộc chiến bảo vệ đa dạng sinh học diễn ra gần như độc lập với cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh mẽ đến sinh giới. Đa dạng sinh học ngày càng trở thành nạn nhân của việc trái đất bị hâm nóng. Rừng bị biến đổi khí hậu làm cho suy yếu đến mức mà nhiều nơi rừng trở thành nguồn phát thải khí CO2, thay vì là nơi hấp thụ. Vai trò của nấm rễ với biến đổi khí hậu ngày càng trở thành chuyện được quan tâm hàng đầu trong các nghiên cứu về rừng. Nấm rễ được hy vọng như một cứu tinh .

Nhìn chung ‘‘nấm rễ’’ có vai trò như thế nào trong việc hấp thu khí thải CO2 ? Về vấn đề này, giáo sư Selosse lấy trường hợp rừng ở khu vực ôn đới làm ví dụ giải thích:

‘‘Nấm rễ có hai vai trò trong việc hấp thu khí thải CO2. Vai trò gián tiếp và vai trò trực tiếp. Vai trò gián tiếp khi nấm rễ giúp cây phát triển. Khi cây hút khí thải CO2 chính là nhờ sự trợ giúp của nấm rễ. Vai trò thứ hai là trực tiếp hấp thụ cac-bon. Các nấm rễ ở xứ ôn đới rất phàm ăn cac-bon. Nấm rễ tiếp thu đến 40% lượng cac-bon được cây hấp thu trong quá trình quang hợp. Đây là một con số cực lớn. Đặc điểm thứ hai là nấm rễ xứ ôn đới chậm chuyển hoá : trước hết do nấm rễ sống lâu hơn và khi chết, xác của chúng cũng phân huỷ rất chậm’’.

... đến thừa nhận ‘‘vai trò then chốt với khí hậu’’ của nấm rễ

Năm 2019 lần đầu tiên giới khoa học tiến hành một nghiên cứu quy mô về đa dạng sinh học toàn cầu, với tổng cộng 55 triệu cây, hơn 32.000 giống loài, đại diện cho 97% diện tích trái đất, với sự tham gia của khoảng 250 nhà khoa học từ 50 quốc gia. Nghiên cứu Global Forest Biodiversity Initiative (GFBI), với sự tham gia của Viện nghiên cứu nông học vì phát triển Pháp (Cirad) trong ban điều hành, khẳng định ‘‘vai trò then chốt trong việc điều chỉnh khí hậu’’ của quan hệ cộng sinh nấm rễ với cây nói riêng và giữa các vi sinh vật với cây nói chung.

Vai trò to lớn của quan hệ nấm rễ cộng sinh với ‘‘điều chỉnh khí hậu’’ được nhìn nhận cùng lúc với việc giới nghiên cứu chỉ ra quan hệ cộng sinh nấm rễ này lại đang bị chính biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ. Chưa kể tác động của việc rừng bị phá huỷ, bị khai thác theo lối công nghiệp hóa, đất đai bị can thiệp của con người làm suy thoái với phân bón, thuốc trừ sâu, đô thị hóa… Theo điều tra nói trên của GFBI, khoảng 10% nấm “ngoại cộng sinh” (ectomycorrhizal fungi), tức loại nấm rễ sống bao quanh rễ cây (sống chủ yếu ở xứ ôn đới), như giáo sư Selosse nêu trên, có nguy cơ biến mất trước năm 2070. Mà đây lại chính là họ nấm rễ có vai trò then chốt hơn cả đối với việc hấp thu khí thải gây hiệu ứng nhà kính.

Rừng bị khai thác theo lối công nghiệp (coupe à blanc/ Clearcutting) : Cây chết, các mạng nấm rễ trong lòng đất cũng bị tiêu diệt

Thế giới nấm, ‘‘điểm quyết đấu'’ của cuộc chiến Khí hậu-Đa dạng sinh học

Biến đổi khí hậu và các hoạt động của con người đe dọa các hệ sinh thái, đảo lộn đa dạng sinh học toàn cầu ngay trong lòng đất - nền tảng của đời sống sinh giới. Tuy nhiên cũng chính biến đổi khí hậu và các biến động ghê gớm khác cũng làm nổi bật tầm quan trọng hàng đầu của các hệ vi sinh vật nhỏ bé, mong manh trong đất đối với sự ổn định của khí hậu. Việc nhận diện đầy đủ sự tồn tại đa dạng và vô cùng tinh vi của chúng, cùng nỗ lực bảo vệ chúng đang dần dần trở thành một ‘‘điểm quyết đấu’’ mới của cuộc chiến kép - bảo vệ khí hậu, bảo vệ đa dạng sinh học .

Nấm rễ và thế giới các vi sinh vật nói chung lâu nay nằm ở vị trí chiếu dưới trong cuộc chiến bảo vệ đa dạng sinh học. Trong danh sách đỏ năm 2022 của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), chỉ có 640 loài nấm, trong lúc có hơn 62.000 động vật và hơn 60.000 thực vật (iucnredlist.org).Cho đến nay, các nhà khoa học mới chỉ xác định được khoảng vài chục nghìn loài nấm rễ, trong lúc số chủng loại nấm rễ toàn cầu có thể có đến hàng trăm nghìn loài, thậm chí hàng triệu. Quan hệ cộng sinh rễ - nấm không phải chỉ là giữa một loại nấm với một cây mà nhiều nấm cộng sinh với cùng một cây, và các nấm rễ lại có quan hệ liên thông tạo thành một mạng lưới liên kết rộng lớn, cây cối liên hệ với nhau thông qua nấm rễ.

Nhà sinh học Toby Skiers (giáo sư Đại học Vrije Universiteit Amsterdam, Hà Lan) ví các mạng lưới nấm rễ như “bộ xương của đất”. Nhờ mạng lưới sợi nấm, đất trở nên thông thoáng hơn, ít bị nén chặt hơn, ổn định hơn. Xói mòn ít hơn và giữ nước tốt hơn. Nấm rễ là cả một thế giới mênh mông. Dưới lòng đất, các sợi nấm mỏng manh, vô hình, nhưng có tổng số chiều dài ghê gớm : hàng cây số sợi nấm ẩn trong một centimet khối đất, và nếu tính trên diện tích toàn thế giới, chiều dài tổng cộng của các mạng sợi nấm của 10cm đất đầu tiên dưới lòng đất tương đương với 450 x 1024 km, tức bằng khoảng một nửa chiều rộng của dải Ngân Hà của chúng ta.

Tại nhiều khu vực, nấm rễ có thể chiếm đến 50% tổng trọng lượng sinh khối. Nhà nấm rễ học Stephan Declerck, phụ trách kho lưu trữ nấm rễ lớn nhất thế giới (Đại họcUCLouvain, Bỉ), cho biết cơ thể sống lớn nhất thế giới hiện nay chính là nấm. Một ‘‘con’’ nấm thuộc loài Armillaria Ostoyae, ở công viên quốc gia Oregon (miền tây nước Mỹ), nặng khoảng 600 tấn, trải rộng trên diện tích 8,9 km² trong lòng đất, có tuổi đời từ ít nhất 2.400 năm đến 8.000 năm. Cả một thế giới kỳ lạ, phi thường nằm ngay dưới bàn chân ta.

SPUN thám hiểm ‘‘vũ trụ’’ các mạng lưới “nấm rễ” toàn cầu

Thực tế nấm rễ cộng sinh chính là “điểm mù của cuộc chiến chống biến đổi khí hậu’’, như nhận định của các nhà khoa học nhóm SPUN (Society for the Protection of Underground Network), do khoa học gia Hà Lan Toby Skiers và một số đồng nghiệp chủ trì. Chương trình lập bản đồ toàn cầu đầu tiên về thế giới chuyên về các loài nấm trong lòng đất, khởi sự từ 2021. SPUN hy vọng tìm thấy chính trong “điểm mù” tri thức đó các bí quyết giúp nhân loại thoát hiểm đại thảm họa khí hậu. Dự án SPUN chủ trương lập bản đồ chi tiết đầy đủ về nấm rễ toàn cầu, tìm hiểu về khả năng cất giữ CO2 khổng lồ của loài sinh vật đặc biệt này, bảo vệ các mạng lưới nấm rễ bị đe dọa.

Kế thừa cơ sở dữ liệu khổng lồ GlobalFungi (tập hợp các thành tựu về nghiên cứu nấm rễ toàn cầu trong 20 năm qua), nhờ ở một phần ở trí thông minh nhân tạo và kỹ thuật mô hình hoá (của các chuyên gia Crowther Lab - Đại học Bách khoa quốc gia Zurich), chương trình lập bản đồ nấm rễ toàn cầu 150 triệu km² (của SPUN) về cơ bản có thể “về đích trong hơn 5 năm tới”, theo chuyên gia Pháp Francis Martin, thành viên Hội đồng khoa học của SPUN.



Cây cối trên cạn: Hậu duệ của ‘‘cuộc kết hôn giữa nấm và tảo biển’’

Trong một kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí Current Biology, trên quy mô toàn cầu, nấm rễ có thể hấp thu đến 13,2 tỷ tấn CO2, chiếm khoảng một phần ba lượng khí thải toàn cầu. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết thực vật có liên quan đến nấm rễ cộng sinh có thể hấp thụ lượng cac-bon nhiều gấp 8 lần so với thực vật không có liên hệ với nấm. Hiện tại, những dự báo về khả năng hấp thu CO2 to lớn của nấm rễ vẫn chỉ là ước tính, với độ sai số ắt là khá cao, bởi vũ trụ các mạng lưới nấm rễ trong lòng đất là điều còn rất ít được biết đến.

Dù sao có một điều chắc chắn, được giới chuyên môn đồng thuận, đó là ‘‘cơ chế cộng sinh nấm rễ’’ chính là điều đã giúp cho sự sống nở rộ trên đất liền. Cơ chế cộng sinh này đã từng cho phép “hình thành các hệ sinh thái trên cạn”. Nhờ đó mà các loài tảo biển có thể di cư thành công lên mặt đất cách nay từ 485 triệu đến 443 triệu năm, giai đoạn mà các nhà cổ sinh vật học gọi là kỷ ‘‘Ordovic’’ .

Khác hẳn với đại dương, nơi tảo cùng lúc có được ánh sáng, nước, cac-bon, khoáng chất. Đất liền khác hẳn. Ánh sáng và cac-bon có trong không khí, trong lúc nước và khoáng chất nằm trong lòng đất. Để thành công trong cuộc di thực này, tảo biển đã “ký kết một thoả ước hôn nhân lâu dài” với nấm. Tảo cấp cho nấm đường và các axit béo, nấm cấp cho tảo các khoảng chất nhờ các hệ thống sợi mỏng manh với khối lượng nhỏ hơn rễ đến hàng trăm lần, nhưng vươn xa. Đây chính là lý do khiến quan hệ cộng sinh nấm rễ liên quan đến đại đa số cây cối. Cây cối trên mặt đất là các hậu duệ của cuộc hôn nhân quyết định này.

Đối với nhà sinh học tiến hoá Toby Skiers, ‘‘phá hủy quan hệ đối tác lâu đời hàng trăm triệu năm này cũng chính là tự huỷ hoại thực sự khả năng của con người ngăn chặn biến đối khí hậu”.

“Hệ thống internet trong rừng'' và những Cây Mẹ linh thiêng

Những hiểu biết sâu hơn về đời sống các vi sinh vật trong lòng đất ngày càng làm lộ rõ sự kỳ diệu khôn cùng của các hệ sinh thái. Nhà sinh thái học kỳ cựu về rừng, bà Suzanne Simard, người Canada, từ rất sớm, vào năm 1997, đã từng ví các mạng lưới nấm rễ cộng sinh như một “hệ thống internet” ngầm trong lòng đất, liên kết cả một rừng cây. Cây cối nhờ vào hệ thống này mà có thể “tương trợ” nhau, “các cây mẹ” hỗ trợ đàn cây con. Đây là điều gây cảm hứng lớn cho đạo diễn James Cameron khi làm bộ phim Avatar, ca ngợi sự huyền nhiệm của rừng, mối quan hệ tâm linh nối kết cộng đồng thổ dân với Mẹ Cây linh thiêng (xem thêm phần ''Cây cối hợp tác qua mạng lưới nấm rễ:‘‘Trực giác khoa học’’, ‘‘Niềm tin tâm linh’’ hay ‘‘Khái quát hóa vội vã’’ ?'').



Bí quyết diệu kỳ của “nấm-rễ” : Loài người có kịp rút các bài học?

Trong cái rủi có thể có cái may. Cuộc đại khủng hoảng về môi trường, khí hậu cũng có thể là cơ hội để nhân loại đương đại trở lại với những bài học căn cốt của thiên nhiên. Tạp chí xin khép lại với một nhận định của giáo sư Marc-André Selosse. Trong cuốn ‘‘Jamais seul. Ces microbes qui construisent les plantes, les animaux et les civilisations’’ (tạm dịch là‘‘Không bao giờ cô độc. Các vi sinh vật kiến tạo nên các loài thực vật, động vật và các nền văn minh’’) (2017), nhà sinh học, chuyên gia nấm rễ Viện bảo tàng Quốc gia về Lịch sử Tự nhiên Pháp, kêu gọi chúng ta thứ tạm thời rời bỏ cách nhìn khô cứng coi mỗi ‘‘thực thể’’ là một tồn tại biệt lập (The Conversation.com).

Trong thế giới các vi sinh vật, mọi thứ ‘‘trước hết là tương tác’’, liên tục trong tương tác. Ranh giới giữa thực thể này và thực thể khác rất khó xác định. Trong thế giới ‘‘nấm rễ cộng sinh’’, khó có thể nói chắc đâu là cây, đâu là nấm. Đường biên hết sức co giãn. Nấm rễ thông qua các protein nhỏ bé ‘‘làm biến đổi sự vận hành của các tế bào cây, tác động đến quá trình hoạt hóa thông tin di truyền chứa trong gien (hay ‘‘biểu hiện gien’’)’’ . Một ‘‘thực thể cây’’, thông qua các mạng lưới sợi nấm, trao đổi dinh dưỡng và cả thông tin với các cây hàng xóm, và quá trình cứ thế tiếp tục. ''Thực thể cây mở rộng'' kiểu như vậy có thể liên quan đến toàn bộ một khu rừng, hay một đồng cỏ. Trong thế giới đó, ‘‘mỗi vi sinh vật là một giao điểm trong cả một mạng lưới tương tác khổng lồ’’, mênh mông như ‘‘đại dương’’.

Cái thế giới nhỏ bé vô cùng ấy cũng là một thế giới mang trong mình một sứ mạng khổng lồ : duy trì sự cân bằng sinh thái, sự ổn định của khí hậu trên hành tinh. Cuộc đại khủng hoảng khí hậu – môi sinh cận kề buộc nhân loại phải trở lại với cái thế giới ấy, để tìm học những bí quyết diệu kỳ, đã từng kiến tạo nên sự sống trên mặt đất từ hàng trăm triệu năm nay - các điều kiện sống đã cho phép ra đời nền văn minh của con người. Liệu nhân loại còn đủ thời gian để lãnh nhận trước khi những đại khủng hoảng dồn dập ập tới?

Trọng Thành




Bài đọc thêm:

5/8/23

Biến đổi khí hậu: Việt Nam ghi nhận nhiệt độ cao nhất từ ​​trước đến nay 44,1C

 

Công nhân nông trại ở một số khu vực phải kết thúc công việc trước 10h để tránh nắng nóng (ảnh internet)

Việt Nam đã ghi nhận nhiệt độ cao nhất từ ​​trước đến nay, chỉ hơn 44C (111F) - với các chuyên gia dự đoán nó sẽ sớm bị vượt qua do biến đổi khí hậu.

Kỷ lục được thiết lập ở tỉnh Thanh Hóa phía bắc, nơi các quan chức khuyến cáo người dân ở trong nhà vào thời điểm nóng nhất trong ngày.

Các quốc gia khác trong khu vực cũng đang trải qua thời tiết nắng nóng gay gắt.

Thái Lan báo cáo mức nhiệt kỷ lục 44,6 độ C ở tỉnh Mak phía Tây nước này.

Trong khi đó truyền thông Myanmar đưa tin một thị trấn ở phía đông đã ghi nhận nhiệt độ 43,8 độ C, nhiệt độ cao nhất trong một thập kỷ.

Cả hai quốc gia đều trải qua thời kỳ nắng nóng trước mùa gió mùa nhưng cường độ nắng nóng đã phá kỷ lục trước đó.

Tại Hà Nội, chuyên gia biến đổi khí hậu Nguyễn Ngọc Huy nói với AFP rằng kỷ lục mới của Việt Nam là "đáng lo ngại" do "bối cảnh biến đổi khí hậu và sự nóng lên toàn cầu".

"Tôi tin rằng kỷ lục này sẽ được lặp lại nhiều lần", anh nói. "Nó xác nhận rằng các mô hình khí hậu cực đoan đang được chứng minh là đúng."

Thế giới đã ấm lên khoảng 1,1 độ C kể từ khi kỷ nguyên công nghiệp bắt đầu và nhiệt độ sẽ tiếp tục tăng trừ khi các chính phủ thực hiện cắt giảm mạnh lượng khí thải.

Tại thành phố Đà Nẵng, miền trung Việt Nam, nông dân Nguyễn Thị Lan nói với AFP rằng nắng nóng buộc công nhân phải bắt đầu sớm hơn bao giờ hết và kết thúc trước 10:00.

Nhiệt độ kỷ lục trước đây của Việt Nam là 43,4 độ C được thiết lập ở tỉnh Hà Tĩnh cách đây 4 năm.

Xa hơn về phía tây, thủ đô Dhaka của Bangladesh đã ghi nhận nhiệt độ cao nhất kể từ những năm 1960 trong khi chính quyền Ấn Độ cho biết các khu vực của đất nước đang trải qua nhiệt độ cao hơn ba hoặc bốn độ so với bình thường.

Vào tháng 4, Tây Ban Nha đã ghi nhận nhiệt độ nóng nhất chưa từng có trong tháng đó , đạt 38,8 độ C tại sân bay Cordoba ở phía nam đất nước.


Vào tháng 3, các nhà khoa học khí hậu cho biết một mục tiêu quan trọng về nhiệt độ toàn cầu có khả năng bị bỏ lỡ.


Các chính phủ trước đây đã đồng ý hành động để tránh nhiệt độ toàn cầu tăng trên 1,5 độ C. Nhưng thế giới đã ấm lên 1,1 độ C và hiện các chuyên gia nói rằng nó có khả năng vi phạm 1,5 độ C vào những năm 2030.


Trong báo cáo của mình, Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc cho biết "mọi sự gia tăng của sự nóng lên toàn cầu sẽ làm gia tăng nhiều mối nguy hiểm đồng thời".

2/4/23

Bộ lọc tóc được cho là để làm sạch biển: Thợ làm tóc Pháp muốn ngăn chặn ô nhiễm

Hàng tỷ búi tóc được cắt mỗi ngày tại các tiệm làm tóc trên khắp thế giới. Dài và ngắn, xoăn và thẳng, sáng và tối. Một số trong số chúng, những cái đặc biệt dài, được giữ lại, làm thành tóc giả, và nếu may mắn, nó sẽ đội lên đầu người khác . Nhưng phần lớn trong số đó rơi xuống đất, bị cuốn lên một cách bất cẩn và cuối cùng bị bỏ vào thùng rác. Một số người thậm chí còn ghê tởm khi tóc của họ bị cắt hoặc rụng.

Tóc có thể làm được nhiều hơn thế: Nếu được tái chế, nó có thể được sử dụng làm vật liệu cách nhiệt trong xây dựng nhà ở hoặc có thể hấp thụ chất lỏng.

Một người biết điều này là Thierry Gras đến từ Brignoles ở miền nam nước Pháp. Gras đã là một nhà tạo mẫu tóc hơn 30 năm và đã quen thuộc với các đặc tính đa dạng của tóc mà ông cắt từ đầu của khách hàng mỗi ngày. Anh ấy càng ngạc nhiên hơn khi phát hiện ra rằng tóc vẫn chưa được tái sử dụng ở bất cứ đâu - không phải ở Pháp hay phần còn lại của châu Âu.

Vì vậy, Gras bắt đầu tự nghiên cứu, mày mò và cuối cùng phát triển các bộ lọc đặc biệt từ tóc cắt của khách hàng, được cho là có thể làm sạch nước biển. Bởi vì một cân tóc có thể hấp thụ tám cân dầu từ biển. Kem chống nắng phảng phất trên bề mặt đó, hoặc xăng dầu bị mất do tàu hoặc nhà máy.

Bộ lọc tóc đầu tiên được thử nghiệm tại cảng Cavalaire-sur-Mer.

Làm thế nào nó hoạt động? Trong các xưởng dành cho người khuyết tật, tóc được xử lý thành một loại tóc cuộn cùng với tất nylon cũ, sau đó được thả xuống nước. Điều này sau đó nổi lên, ví dụ, trong lưu vực bến cảng của khu nghỉ mát bên bờ biển Địa Trung Hải của Cavalaire-sur-Mer, nơi có rất nhiều kem chống nắng để hấp thụ.

3200 thợ làm tóc tham gia

Thoạt nhìn, kem chống nắng dường như chỉ là giọt nước làm tràn ly trong một đại dương bị ô nhiễm bởi nhựa và dầu. Nhưng ảnh hưởng của nó không phải là không đáng kể: theo " FAZ ", chỉ riêng nó đã đảm bảo rằng từ 6.000 đến 14.000 tấn chất độc hại kết thúc trong nước biển mỗi năm. Thierry Gras nói với watson: “Do đó, các lô cuốn tóc được đặt ở bến cảng, ao hồ hoặc các vùng nước bị ô nhiễm khác để lọc dầu mặt trời và hydrocarbon. "Nước được làm sạch nhờ khả năng hấp thụ dầu mỡ của tóc."

Vì cách này hoạt động rất hiệu quả nên Gras đã thành lập tổ chức Coiffeurs Justes để thu thập tóc từ các tiệm làm tóc khác và xử lý thành bộ lọc tóc. Hiện có khoảng 3.200 thợ làm tóc tham gia, chủ yếu ở Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, Luxembourg và các nước châu Âu khác. Hơn 40 tấn tóc hiện đã được tái chế theo cách này.

Thierry Gras đã là một nhà tạo mẫu tóc trong hơn 30 năm - và cuối cùng cảm thấy mệt mỏi với việc vứt bỏ mái tóc mà mình đã cắt đi
Các thẩm mỹ viện đối tác của Coiffeurs Justes nhận được túi giấy đựng tóc đã cắt. Tóc của tối đa 220 khách hàng nằm gọn trong một chiếc túi mà các tiệm làm tóc phải trả một euro. Dù thẳng hay xoăn, ngắn hay dài, nhuộm màu hay tự nhiên - tất cả tóc đều có thể được tái chế. Chúng chỉ cần sạch sẽ, nhưng dù sao thì đó cũng là trường hợp sau khi bạn gội đầu ở tiệm làm tóc.

Bộ lọc sau này trở thành vật liệu cách điện

Thierry Gras nói: “Các thành viên của chúng tôi được nhắc đến thường xuyên hơn trên các phương tiện truyền thông và do đó nhận được nhiều sự chú ý hơn. Tuy nhiên, ngoài việc quảng cáo , điều quan trọng đối với Gras là các thợ làm tóc tham gia chia sẻ các giá trị chung, rằng họ đấu tranh cho một môi trường tốt hơn, rằng niềm đam mê dành cho tóc là có. Trong tương lai, Gras cũng muốn hợp tác với nhiều cộng đồng khác nhau để thiết lập các bộ lọc tóc ở nhiều cảng hơn nữa.

Nhân tiện, khi lưới tóc đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, chúng có thể được giặt và tái sử dụng tới tám lần. Và ngay cả sau đó, các thợ làm tóc của Justes cho biết, chúng vẫn có thể hữu ích: chẳng hạn như vật liệu cách nhiệt tòa nhà, hoặc làm phân bón cho phân trộn. Ngay cả khi chúng ta không còn cần đến chúng trên đầu nữa, thì mái tóc của chúng ta vẫn có thể làm được rất nhiều việc.

7/6/22

Voi rừng châu Phi, "vị thần" giúp thế giới chống biến đổi khí hậu

Isabelle Gerretsen - BBC Future - 22 tháng 6 2022


Khi đi qua rừng mưa dày đặc ở miền Tây và Trung Phi, voi rừng tạo ra mê cung xanh bằng cách ăn sạch và giẫm đạp những cây nhỏ nằm trên đường đi.

Có chiều cao 3m, loài thú khổng lồ hiền lành này nhỏ hơn voi đồng cỏ nổi tiếng, và hiện vẫn là loài động vật đơn độc khó hiểu.

Voi rừng tàn phá thảm thực vật, tàn phá cây trong rừng mưa khi nó lột vỏ cây non, đào rễ cây trong đất, ăn lá và quả cây. Nhưng sự phá hoại này đem lại nhiều lợi ích hơn so với những thiệt hại mà nó gây ra cho khu rừng: nó giúp rừng trữ nhiều carbon trong cây hơn và bảo tồn một trong những hệ sinh thái quan trọng nhất trên hành tinh.

Các công ty và chính phủ khắp thế giới đang chạy đua cắt giảm khí thải và phát triển công nghệ tiên phong thu giữ carbon. Nhưng voi rừng Châu phi tích trữ carbon cực kỳ hiệu quả mà chẳng cần đến công nghệ gì.

Voi rừng Châu Phi còn nổi tiếng với tên gọi "người làm vườn khổng lồ của rừng", vì chúng có thể tăng khả năng tích trữ carbon và giúp giải phóng những dưỡng chất quan trọng.

Một nghiên cứu năm 2019 cho thấy thói quen phá phách của voi giúp tăng cường lượng carbon được tích trữ trong rừng mưa Trung Phi. Mỗi con voi rừng có thể kích thích tăng lượng carbon thu giữ trong rừng mưa lên đến 9.500m3 CO2 trên mỗi km2. Khối lượng này tương đương phát thải của 2.047 xe hơi trong một năm.

Ban đầu các nhà khoa học đi điền dã tại hai khu vực ở Lưu vực sông Congo, một nơi có voi rừng hoạt động và một khu vực nơi chúng đã biến mất.

Họ ghi chép lại sự khác biệt giữa lượng cây che phủ và độ dày của rừng. Sau đó, họ xây dựng mô hình theo dõi hoạt động của rừng, ví dụ như sinh khối, chiều cao của cây và lượng carbon tích trữ, và mô phỏng hoạt động có voi rừng phá hủy bằng cách gia tăng số lượng cây nhỏ bị phá hoại.

Mô hình sau đó cho thấy voi rừng làm giảm độ dày cây non trong rừng, nhưng làm tăng đường kính cây trung bình và tổng sinh khối trên mặt đất.

Lý do là voi rừng ăn và dẫm nát các cây có đường kính nhỏ hơn 30cm, đây là các cây cạnh tranh với cây to hơn giành ánh sáng, nước và không gian. Khi loại bỏ đối thủ cạnh tranh, những cây lớn hơn mọc sum suê hơn.

Kết quả là, cây lớn sẽ tiếp tục lớn hơn nữa nhờ thói quen của voi rừng, người đứng đầu nhóm nghiên cứu Fabio Berzaghi, nhà nghiên cứu từ Phòng thí nghiệm Khí hậu và Khoa học Môi trường ở Gif-sur-Yvette, Pháp, nói.

Những cây nhỏ là thức ăn ưa thích của voi, phần thịt gỗ vẫn chưa quá đặc, cứng, nghĩa là có khả năng lớn nhanh hơn và chết nhanh hơn.

Hành vi của voi giúp cho những cây lớn chậm hơn, là những cây tích trữ nhiều carbon trong thân cây hơn, Berzaghi giải thích.

Khả năng tích trữ carbon của cây chủ yếu phụ thuộc vào kích cỡ và độ đặc của thớ gỗ của thân cây, dù rằng những cây lớn hơn thì cần nhiều tài nguyên và thời gian hơn để sinh trưởng, ông nói thêm.

"Bạn có thể nghĩ về voi như người quản lý rừng," ông chia sẻ. Chúng là "loài chủ chốt", có nghĩa là chúng đóng vai trò cốt yếu trong việc duy trì sự đa dạng sinh học trong hệ sinh thái.

Ngoài việc loại bỏ những cây cạnh tranh, voi rừng cũng làm phát tán hạt giống và chất dinh dưỡng khi chúng càn quét thảm thực vật cũ và thải phân quanh rừng, giúp cây lớn nhanh hơn, Berzaghi nói. "Voi rừng giúp phát tán cây cối mà những loài động vật khác phụ thuộc vào. Cây rừng nhờ voi mà phát triển được sẽ giúp ích cho loài linh trưởng và nhiều loài thú khác."

Nghiên cứu này cho biết nếu như voi rừng tuyệt chủng thì điều này sẽ dẫn đến thiệt hại 7% khả năng tích trữ carbon, tổng cộng khoảng ba tỷ tấn, ở rừng mưa Trung Phi. Khối lượng đó tương đương với phát thải do hai tỷ xe hơi chạy bằng xăng thải ra trong một năm.

"Con số đem lại thông điệp khá mạnh mẽ về việc bảo vệ voi rừng," Berzaghi cho biết.

Có nguy cơ rất lớn là voi rừng Châu Phi sẽ tuyệt chủng. Chúng đang ở trong tình trạng bị đe dọa nghiêm trọng, với số lượng sụt giảm nhanh chóng vì nạn săn trộm và phá rừng.

Trong thập niên 1970, có khoảng 1,2 triệu con voi quanh những dải đất mênh mông ở Châu Phi, nhưng chúng đã bị dồn đến bước đường tuyệt chủng bởi những kẻ săn trộm và do bị mất địa bàn sinh sống. Ngày nay, theo một nghiên cứu năm 2013, chỉ còn khoảng 100.000 con voi.

"Ít nhất vài trăm ngàn voi rừng đã mất trong khoảng từ 2002-2013, ở mức độ 60 con mỗi ngày hoặc một con chết mỗi 20 phút, cả ngày và đêm," Fiona Maisels, đồng tác giả của nghiên cứu và là nhà khoa học từ Cơ quan Bảo tồn Động vật Hoang dã, nói tại thời điểm đó.

"Vào lúc bạn ngồi ăn sáng là lại có một con voi nữa bị giết để làm đồ nữ trang cho thị trường ngà voi," bà cho biết.

"Chúng ta đã mất khối lượng voi rừng khổng lồ trong hai thập niên qua," Thomas Breuer, nhân viên về voi rừng châu Phi tại Quỹ Bảo vệ Thiên Nhiên (WWF) cho biết. "Voi rừng sinh sản chậm hơn rất nhiều [so với voi đồng cỏ], và vì vậy để hồi phục số lượng loài thì tốn rất nhiều thời gian."

"Hành vi sinh hoạt của voi rừng đã bị bọn săn trộm làm xáo trộn. Nhiều con voi không có mẹ và không thể học thói quen di chuyển độc lập, điều chúng thường học được từ voi mẹ," ông nói.

Khi hệ sinh thái của chúng bị thu hẹp, voi rừng cũng đến gần con người hơn, và dẫn đến những cuộc giết voi trả đũa, ông nói.

Biến đổi khí hậu cũng dẫn đến số lượng hoa quả sinh sôi sụt giảm trong rừng mưa châu Phi, khiến voi rừng cực kỳ dễ bị tác động vì sụt giảm nguồn thức ăn, theo một nghiên cứu năm 2020 do Emma Bus từ Đại học Stirling ở Scotland thực hiện.

Tôn trọng thiên nhiên

Nếu đàn voi rừng châu Phi trở lại kích cỡ ban đầu và hồi phục khu vực di chuyển 2,2 triệu km2, chúng có thể tăng lượng tích trữ carbon đến 13 tấn mỗi hectare, theo nghiên cứu của Berzaghi. Khối lượng này tương đương với phát thải của 10 xe hơi chạy xăng trong một năm trên mỗi hectare.

Berzaghi cho biết nghiên cứu cho thấy khả năng sống sót của voi rừng cực kỳ quan trọng cho việc bảo tồn vùng Congo Basin, rừng mưa lớn thứ hai trên thế giới và là hố tích tụ carbon quan trọng.
Khi đi qua cánh rừng, voi ăn và dẫm nát cây con, dành nhiều không gian cho những cây lớn hơn phát triển và tích trữ carbon

Điều này thậm chí càng trở nên khẩn thiết hơn vì giờ đây một phần rừng mưa Amazon đang mất đi khả năng hấp thụ carbon, ông nói.

Theo một nghiên cứu do Viện Nghiên cứu Quốc gia về Không gian (INPE) của Brazil, hơn một phần tư rừng Amazon giờ đây thải ra nhiều carbon hơn lượng nó hấp thụ.

"Đây là tác động vô cùng lớn, bạn hiểu điều này trực tiếp vì chúng ta đang thải CO2 ra bầu khí quyển, điều làm tăng tốc độ biến đổi khí hậu và cũng kích thích, làm thay đổi tình trạng trong mùa khô, gây bất lợi cho cây, khiến sinh nhiều phát thải hơn," tác giả chính của nghiên cứu Luciana Gatti nói với BBC News vào tháng 7/2021.

"Chúng ta sẽ không đạt được mức trung hòa carbon nếu ta không đầu tư vào các giải pháp có nền tảng từ thiên nhiên," Berzaghi cho biết.

Trong bản phúc trình mới nhất, ra hồi tháng Hai, Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu của Liên Hiệp Quốc (IPCC) nhấn mạnh rằng các giải pháp dựa vào tự nhiên là công cụ quan trọng để tác động lên tình trạng biến đổi khí hậu và giảm thiểu phát thải carbon từ bầu khí quyển.

"Bằng cách khôi phục hệ sinh thái đã bị hủy hoại, bảo tồn hiệu quả và công bằng từ 30 đến 50% môi sinh của đất, đại dương và môi trường nước ngọt trên Trái Đất, xã hội có thể được hưởng lợi ích từ khả năng hấp thụ và tích trữ carbon của thiên nhiên," Hans-Otto Pörtner, một trong những đồng chủ trì bản phúc trình IPCC, nói trong một thông cáo.

Ralph Chami, trợ lý giám đốc của Viện Phát triển Năng lực thuộc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), đang trong sứ mệnh nhấn mạnh giá trị của bảo tồn thiên nhiên trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Kinh tế gia này đang thực hiện theo cách có thể khiến chính trị gia và công ty để ý: bằng cách đặt một biểu tượng tiền lên một con voi rừng.

Sử dụng kết quả từ nghiên cứu của Berzaghi năm 2019, Chami đánh giá dịch vụ thu giữ carbon của mỗi con voi rừng là 1,75 triệu đô la Mỹ, với tổng giá trị của đàn, nếu khôi phục trở lại được quy mô ban đầu là 1,2 triệu con, sẽ đáng giá khoảng 36 tỷ đô la Mỹ.

Chami tính toán dựa trên giá trị thị trường trung bình của một mét khối C02 vào thời điểm đó - chỉ dưới 25 đô la mỹ vào năm 2019.

Tình trạng săn trộm sẽ dẫn đến thiệt hại 10-14 tỷ đô la phát sinh từ tổn thất trong việc không thu giữ được carbon, theo phân tích gần đây của Berzaghi và Chami.

Với việc lượng hóa khối carbon mà voi rừng có thể thu giữ được thông qua các tập tính sinh hoạt hàng ngày của chúng, giới nghiên cứu hy vọng các số liệu sẽ hỗ trợ cho công tác bảo tồn voi

Thay vì coi bảo tồn voi rừng là kế hoạch tốn kém, ta nên coi đó là khoản đầu tư, ông lập luận.

"Voi rừng là tài nguyên tự nhiên có thể đem lại giá trị cho chúng ta suốt vòng đời," ông nói. "Một con voi rừng sống có thể đem lại dịch vụ đáng giá hàng triệu đô la, nó giúp ta chống biến đổi khí hậu và có giá cao hơn khi còn sống so với khi đã chết." Ngà của voi rừng chết có giá trị khoảng 21.000 đô la Mỹ.

"Chúng ta đang đánh mất nguồn vốn tự nhiên và sự đa dạng sinh học. Nếu ta thua trong cuộc chiến đó, ta cũng sẽ chết," ông nói. "Nhưng nếu ta đầu tư vào thiên nhiên, khoản đầu tư sẽ quay trở lại với ta dưới hình thức hấp thụ carbon."

Đây không phải lần đầu tiên Chami định giá một loài động vật. Năm 2019, ông ra một phúc trình cùng với các kinh tế gia của IMF, theo ddos xem xét ích lợi với khí hậu trong việc bảo tồn cá voi.

Phân tích cho thấy khi bạn thêm vào giá trị của carbon mà cá voi giúp hấp thụ trong suốt vòng đời, thì một con cá voi lớn có giá trị hơn 2 triệu đô la Mỹ, và tổng số các cá thể trong loài có thể đem lại giá trị hơn một tỷ đô la Mỹ.

Khi cá voi chết, xác chúng chìm xuống đáy đại dương và tất cả lượng carbon trữ trong cơ thể khổng lồ của chúng sẽ chuyển xuống đáy đại dương, nơi chúng sẽ được lưu giữ lại trong nhiều thế kỷ.

Chami cho biết định giá trị loài là cách tốt nhất để thuyết phục các quốc gia bảo tồn chúng.

"Tôi muốn chuyển những ích lợi khí hậu thành đô la và cent và đặt những con số đó lên bàn của giới hoạch định chính sách."

Bán dịch vụ lưu trữ carbon do voi cung cấp

Nhiều người khác đang tìm cách đưa ý tưởng về giá trị tiền mà voi có thể đem lại đi xa hơn.

Công ty khởi nghiệp Rebalance Earth định sử dụng phát hiện từ nghiên cứu của Berzaghi và định giá của Chami để bán tiềm năng hấp thụ carbon của voi cho các công ty trên thế giới.

Dựa trên thị trường bù trừ carbon, giúp các công ty bù cho phần phát thải họ thải ra bằng cách trả tiền để trồng cây hoặc trả cho dự án điện tái tạo ở nơi khác, Rebalance Earth đã bắt đầu bán phiếu hệ sinh thái đại diện cho lượng carbon mà mỗi chú voi giúp hấp thụ.

"Giá trị tiền tệ mà voi rừng trực tiếp có tác động đến lượng carbon phân ly được mà chúng tạo ra trong đời và khối lượng này nhân lên đến giá cả hiện thời của dịch vụ bù carbon," giám đốc điều hành của Rebalance Earth, Walid Al Saqqaf cho biết.

Đa số voi rừng châu Phi sống trong rừng mưa Gabon

Các công ty mua dịch vụ này sẽ trả tiền để bảo vệ voi, khoản quỹ gây được sẽ dành cho nhân viên rừng quốc gia và cộng đồng địa phương, theo Al Saqqaf. Toàn bộ quá trình trao đổi này sẽ được kiểm soát và theo dõi qua công nghệ blockchain tư nhân.

"Mọi người đều yêu voi, nhưng liệu điều đó có giúp ngăn cản sự sụt giảm số lượng loài không?" ông nói. "Chúng ta không lựa chọn một cách đúng đắn dựa trên thiện chí, mà là chúng ta ra quyết định dựa trên ví tiền của mình. Bằng cách nào ta có thể sử dụng sáng kiến tài chính để làm điều đúng?"

Công ty Rebalance Earth đang chuẩn bị tung ra dự án thử nghiệm ở Gabon, nơi có đến 70% số lượng voi rừng Châu Phi.

Gabon chiếm khoảng một phần năm diện tích rừng Congo Basin và có tỷ lệ mất rừng thấp hơn các quốc gia láng giềng như Cộng hòa Congo và Cameroon. Tuy nhiên, lực lượng bảo vệ rừng ở Gabon đe dọa sẽ đình công năm nay, do điều kiện làm việc tồi tệ và tình trạng chậm trả lương.

"Quỹ của chúng tôi sẽ đảm bảo có đủ nhân viên kiểm lâm bảo vệ voi và đầu tư vào cộng đồng địa phương," Al Saqqaf nói.

Một số người tỏ ra nghi ngờ cách tiếp cận của Rebalance Earth, vì quan ngại môi trường và đạo đức trong việc sử dụng tiền ảo bằng blockchain để gây quỹ bảo tồn.

Catherine Flick, nhà nghiên cứu cao cấp về khoa học máy tính và trách nhiệm xã hội tại Đại học De Montfort ở Leicester, Anh Quốc, cho biết vấn đề chính là đây là "đầu cơ" và "rất khó quản lý".

Tuy nhiên, Al SAqqaf tranh luận rằng "vẻ đẹp" của hệ thống blockchain là mỗi bên có khả năng tiếp cận thông tin y như các bên khác. "Khi nền tảng của chúng tôi mở rộng, chúng tôi sẽ xây dựng một hệ thống quản trị độc lập và sẽ xem xét vai trò thông qua hệ thống trao đổi có xác minh," ông cho biết.

Flick nói rằng câu hỏi ai là người thụ hưởng chương trình vẫn còn là vấn đề: những công ty lớn mua tiền điện tử hay là cộng đồng địa phương, những người thực hiện công việc bảo tồn?

Al Saqqaf cho biết nhân viên kiểm lâm sẽ được chi trả bằng loại tiền tệ địa phương, cộng đồng trong dự án thử nghiệm cũng vậy. Khi sáng kiến được nhân rộng, mọi người có thể tiêu tiền điện tử ở một số cửa hàng, dịch vụ giáo dục và sức khỏe nhất định, ông chia sẻ. Doanh số do mô hình đem lại sẽ được đầu tư cho giáo dục và dịch vụ y tế địa phương, ông nói.

Về mặt khí hậu, có nhiều quan ngại với việc sử dụng công nghệ blockchain, vốn có thể cực kỳ hao tốn năng lượng.

Rebalance Earth cho biết công ty sẽ sử dụng công nghệ blockchain R3 Corda riêng, mà công ty này cho rằng chỉ tương đương như năng lượng để gửi email.

Trong khi Bitcoin và những nền tảng blockchain công cộng khác sử dụng cơ chế đồng thuận "bằng chứng công việc" (proof of work) để xác nhận giao dịch, thì R3 Corda sử dụng một blockchain riêng tư dùng cơ chế đồng thuận xác minh và đồng thuận duy nhất, tiêu thụ ít năng lượng hơn nhiều vì không đòi hỏi sức mạnh máy tính để giải toán.

Breuer cho biết dự án thử nghiệm là "sáng kiến tuyệt vời" nhưng cũng xác nhận có nhiều lỗ hổng. "Người ta cần phải có cơ chế dùng tiền để gìn giữ voi rừng và nâng cao khả năng của cộng đồng bản địa cùng tồn tại với động vật hoang dã," ông cho biết. "Nhưng chúng ta cần phải trung thực về giới hạn và thách thức của ý tưởng này."

Chẳng hạn, làm sao để có thể theo dấu voi vẫn là khó khăn trong thực tế. "Làm sao bạn biết đó cùng là một con voi? Không dễ gì có thể xác định được chúng," ông nói.

Kiếm tiền từ "dịch vụ sinh thái" do voi rừng cung cấp có thể giúp cung cấp tài chính cho quá trình bảo tồn, nhưng những câu hỏi phê phán làm dấy lên quan ngại liệu tiền đó có tạo ra lợi ích cho cộng đồng bản địa hay không

Người ta cũng khó mà thuyết phục được cộng đồng địa phương về "lợi ích vô hình" của sáng kiến kiểu này, Breuer nói.

"Nếu bạn đến một ngôi làng Trung Phi và nói với mọi người về sáng kiến blockchain, họ sẽ nói 'nếu chúng tôi thịt một con voi, chúng tôi sẽ có thịt ăn trong khoảng thời gian nhất định và điều này có giá trị với chúng tôi hơn,"," ông nói.

Nỗ lực bảo tồn nên bắt đầu từ mức độ cơ sở và tập trung vào việc giúp cộng đồng chung sống bên cạnh voi, theo Breuer. Các khoản quỹ nên được đóng góp trực tiếp vào việc chống săn trộm và cho lực lượng chấp pháp, ông nói.

"Chúng ta cần phải chắc chắn rằng tiền sẽ đến được tận nơi. Giải pháp luôn nằm trên thực địa chứ không phải nằm ở tiền bạc," ông nói.

Mục tiêu tối thượng, theo Breuer, nên là thuyết phục cộng đồng địa phương tin rằng bảo tồn là công việc xứng đáng mà họ cần theo đuổi, công việc đó có thể đem lại việc làm và sự thịnh vượng cho khu vực. "Vì vậy trong vòng một hoặc hai thế hệ, họ cảm thấy họ không thể sống mà không làm công tác bảo tồn."

Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.