Showing posts with label Trọng Thành. Show all posts
Showing posts with label Trọng Thành. Show all posts

12/17/23

COP28: Cam kết ‘‘giã từ than-dầu-khí’’ và công lao của ông chủ Adnoc

Sáng ngày 13/12/2023 được ghi vào lịch sử nhân loại như một bước tiến ‘‘lịch sử’’. Hội nghị khí hậu lần thứ 28 (COP28) của Liên Hiệp Quốc, họp tại Dubai, đã thông qua thỏa thuận khẳng định nhân loại khởi đầu của kỷ nguyên chia tay với năng lượng hóa thạch - thủ phạm chính của việc Trái đất bị hâm nóng. Không khí đã trở nên căng thẳng cao độ vào những ngày áp chót, với sự phản đối quyết liệt của phe ‘‘dầu mỏ’’.

Chủ tịch COP28 Sultan Ahmed al Jaber tại phiên khai mạc Hội nghi ở Dubai, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, 30/11/2023. REUTERS - Amr Alfiky

Tình hình có lúc tưởng chừng bế tắc. COP28 đã phải kéo dài thêm một ngày để thỏa thuận được thông qua. Vì sao COP28 đã ra được thỏa thuận lịch sử như vậy? Không thể phủ nhận được vai trò của chủ tịch COP28, chủ tập đoàn dầu mỏ Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Sultan al-Jaber. Chủ tịch COP28 đã đóng góp như thế nào cho thỏa thuận lịch sử này?

***

Trước thềm COP 28, không khí hoài nghi cao độ. Chủ tịch COP28, ông al-Jaber, lãnh đạo tập đoàn Adnoc của Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, tập đoàn dầu khí hàng đầu thế giới, bị tình nghi lợi dụng COP28 để ‘‘mở rộng thị trường khai thác các năng lượng hóa thạch’’ (theo truyền thông Anh Quốc). Chủ tịch COP28, bị cáo buộc lợi dụng việc công để tư lợi, tiếp tục đứng trước áp lực buộc hoặc từ chức chủ tịch COP, hoặc từ chức chủ tịch tập đoàn Adnoc (kêu gọi của khoảng 100 tổ chức phi chính phủ quốc tế, và nhiều nghị sĩ Âu, Mỹ).

Đại gia dầu khí ‘‘dễ thuyết phục’’ giới dầu khí

Trên thực tế, việc ông al-Jaber được chấp thuận làm chủ tịch COP28, cũng nằm trong chủ trương và hy vọng của Liên Hiệp Quốc và nhiều nước vận động từ bỏ năng lượng hóa thạch. Là một đại gia trong ngành dầu khí không hẳn đã là một điểm yếu. Theo một nhà thương lượng kỳ cựu châu Âu, việc chủ tịch COP28 là một thành viên của giới dầu khí thậm chí có thể là một ‘‘lợi thế’’.

Thỏa thuận Hội nghị Khí hậu của Liên Hiệp Quốc đòi hỏi sự đồng thuận của tất cả các thành viên, hay nói cách khác, không bị bất cứ nước nào phản đối. Chủ tịch COP28, một đại gia trong ngành dầu khí, có khả năng thuyết phục được các quốc gia dầu khí bằng hữu. Chủ công ty Adnoc đã dành cho giới dầu khí một vị trí quan trọng tại COP28, theo ghi nhận của giới quan sát. Vào ngày áp chót của hội nghị, 11/12, chủ tịch COP28 đã đưa ra một dự thảo thỏa thuận gây sốc, khi loại trừ nội dung ‘‘giã từ năng lượng hóa thạch’’. Đông đảo các nước và giới tranh đấu môi trường kịch liệt phản đối phiên bản, bị coi là được đưa ra dưới áp lực của khối các nước bảo vệ năng lượng hóa thạch.

Làm rõ ‘‘lằn ranh đỏ’’: Thủ pháp đàm phán

Rút cục một thỏa thuận cuối cùng đã được đưa ra, cụm từ ‘‘từ bỏ năng lượng hóa thạch’’ (phase out), mà phe chống năng lượng hóa thạch chủ trương không có mặt, nhưng thay vào đó là cụm từ uyển chuyển hơn, ‘‘giã từ dần dần’’ (transition away from) các năng lượng hóa thạch ‘‘một cách đúng đắn, có tổ chức và công bằng’’. Dự thảo rút cục đã nhanh chóng được gần 200 nước thông qua chỉ ít giờ sau khi được đưa ra.

Về dự thảo áp chót bị đông đảo cộng đồng quốc tế phản đối dữ dội, ban điều hành COP28 giải thích rõ, trên thực tế, đây là một thủ pháp đàm phán nhằm cho phép phe dầu mỏ bộc lộ quan điểm, và cũng là dịp để các quốc gia khác khẳng định ‘‘các lằn ranh đỏ’’. Thủ pháp nói trên rút cục đã mang lại kết quả như ta đã biết.

Theo AFP, một trong những bí quyết khiến tiếng nói của chủ tịch COP28 được lắng nghe là ông al-Jaber đã rất chú trọng đến khâu truyền thông. Chủ tịch COP28 đã tuyển mộ một nhóm chuyên viên lành nghề trong lĩnh vực truyền thông – giao tế. Bản thân chủ tịch COP28 cũng là người nỗ lực thiết lập quan hệ với giới bảo vệ môi trường khí hậu.

Tiếp thu quan điểm của giới môi trường

Theo ông Harjeet Singh, một người có nhiều kinh nghiệm tại COP, phát ngôn viên của mạng lưới quốc tế Climate Action Network-CAN (quy tụ khoảng 1.900 hiệp hội), từ nhiều tháng trước COP28, chủ tập đoàn Adnoc đã thường xuyên lắng nghe CAN. Tháng 6/2023, đại gia dầu khí này thừa nhận, việc giảm dần năng lượng hóa thạch là điều ‘‘không thể tránh khỏi’’ (bài ''Sultan al-Jaber : một doanh nhân bài bản điều hành COP28", France 24).

Vừa để các tiếng nói phản đối việc ‘‘giã từ năng lượng hóa thạch’’ được bày tỏ đầy đủ, vừa lắng nghe và tiếp thu quan điểm của giới bảo vệ khí hậu là hành xử của chủ tịch COP28. Ông al-Jaber khẳng định rõ cần thực thi mục tiêu giữ nhiệt độ Trái đất không tăng quá 1,5°C so với thời kỳ tiền công nghiệp (tức mục tiêu mức cao của Hiệp định khí hậu Paris 2015, mục tiêu mức thấp là giữ nhiệt độ không tăng quá 2°C).
Thông điệp ‘‘1,5°C’’ đúng lúc: ‘‘Lực đẩy’’ cho đàm phán

Giữ nhiệt độ Trái đất không tăng quá 1,5°C cũng là đòi hỏi của lãnh đạo Liên Hiệp Quốc, của đông đảo các nước, của giới bảo vệ môi trường. Theo các dự báo khoa học, đã được cộng đồng quốc tế đồng thuận, nếu nhiệt độ Trái đất tăng quá 1,5°C, nhân loại sẽ đối mặt với các thảm họa thiên nhiên vượt tầm kiểm soát. Lãnh đạo COP28 coi mục tiêu 1,5°C là thiết thân khi nhấn mạnh, ông điều hành COP28 để mang lại các kết quả ‘‘thực sự’’, để ‘‘giữ mục tiêu 1,5°C trong tầm tay’’.

Thông điệp ‘‘1,5°C’’ được chủ tịch COP28 nhiều lần khẳng định là ‘‘kim chỉ nam’’ cho hành động của ông, trước thềm hội nghị, và nhiều lần trong những ngày đầu tiên (Le Monde, 04/12). Điều này đã mang lại ‘‘lực đẩy tích cực’’cho tiến trình đàm phán, theo ghi nhận của ông Yves Marignac, chuyên gia về năng lượng hạt nhân và hóa thạch, Viện Institut NégaWatt, trong một cuộc trả lời đài RFI.

Nhanh chóng ‘‘giã từ năng lượng hóa thạch’’: Cơ hội cuối cùng với nhân loại

Trên thực tế, nhân loại đang đứng trước chân tường. Cộng đồng quốc tế chỉ còn ít năm nữa để giữ được mục tiêu 1,5°C (trong lúc nhiệt độ Trái đất hiện đã tăng hơn 1,4°C). Để làm được điều này, trước mắt phải cắt giảm được ít nhất đến 43% khí thải (chủ yếu) do năng lượng hóa thạch (so với năm 2019) ngay trước năm 2030, tức phải nỗ lực gấp hai mươi lần so với hiện nay (theo báo cáo của Cơ quan khí hậu Liên Hiệp Quốc - UN Climate, tổng cam kết cắt giảm của nhân loại hiện tại chỉ cho phép giảm 2% khí thải vào năm 2030). Việc giã từ năng lượng hóa thạch không hề là chuyện của tương lai xa vời, mà là ngay trước mắt, và nhất là việc tăng tốc giã từ năng lượng hóa thạch phải được quyết định ngay tại COP28.

Đối với không ít chính trị gia, nhà quan sát, thỏa thuận khí hậu COP28, mở đầu kỷ nguyên ‘‘giã từ năng lượng hóa thạch’’, được cho là ‘‘lịch sử’’, trên thực tế có thể là ‘‘cơ hội cuối cùng’’ với cộng đồng quốc tế, để tránh các đại thảm họa do biến đổi khí hậu. Lãnh đạo tập đoàn Adnoc dường như rất hiểu điều này.

Chủ tịch COP28 - chủ tập đoàn Adnoc, một người tự hào về nghề kỹ sư mà ông được đào tạo và ‘‘tin tưởng vào khoa học’’, cho biết ‘‘toàn bộ cuộc đời ông’’ đã được ''tổ chức trên các nguyên tắc hướng đến hiệu quả’’, và ông cũng ‘‘quản lý các doanh nghiệp như vậy’’. Đóng góp lớn nhất của chủ tịch COP28 có lẽ nằm ở chỗ ông chia sẻ nhận thức chung của cộng đồng khoa học, của giới bảo vệ môi trường, của đông đảo các quốc gia trên thế giới, mong muốn kịp thời bảo vệ Trái đất khỏi nhiệt độ gia tăng, với các hậu quả vượt tầm kiểm soát. Vấn đề tiếp theo là các hành động ‘‘hiệu quả’’ nào để thực thi mục tiêu này.

Trọng Thành

9/29/23

Nấm-rễ cộng sinh: ‘‘Bí quyết 400 triệu năm tuổi’’ có giúp nhân loại thoát đại họa khí hậu?

Nghe phần âm Thanh:
Đại thảm họa chồng chất, do Trái đất bị hâm nóng, đang cận kề. Nhiệt độ toàn cầu sắp ‘‘tăng quá 1,5°C’’ so với thời tiền công nghiệp. Sự phụ thuộc nặng nề vào năng lượng hoá thạch ‘‘đã mở cánh cửa địa ngục với nhân loại’’, như cảnh báo của Liên Hiệp Quốc. Viễn cảnh đen tối ngày một khó tránh khỏi. Tuy nhiên, cái khó làm ló cái khôn. Ít năm gần đây ‘‘nấm rễ’’ đang được hy vọng như một giải pháp chống biến đổi khí hậu hàng đầu, có thể giúp nhân loại thoát hiểm.
Nấm rừng mùa thu (ảnh minh họa)

“Nấm rễ” là gì ? Vì sao nhiều hy vọng được đặt vào “nấm rễ” ? Tạp chí của RFI tổng hợp thông tin về chủ đề này. Khách mời của Tạp chí hôm nay là giáo sư Marc-André Selosse, Viện bảo tàng Quốc gia về Lịch sử Tự nhiên (MNHN), Paris, một chuyên gia trong lĩnh vực nấm rễ cộng sinh xứ ôn đới. Ông cũng là tác giả cuốn “L’Origine du monde : une histoire naturelle du sol à l’intention de ceux qui le piétinent” (tạm dịch là “Nguồn gốc của thế giới : Một lịch sử tự nhiên của đất, dành cho những ai bước đi trên đó mà không hay’’).

“Tấc đất” còn giá trị hơn cả “tấc vàng”. Bởi đất là ‘‘nguồn gốc” của sự sống, đất “nuôi dưỡng” sự sống, “bảo vệ” sự sống. “Đất” có ý nghĩa sống còn với sự sống như vậy, nhưng bản thân cuộc sống của đất, cuộc sống trong lòng đất lại là điều còn rất ít được biết đến, và rất ít được chú ý bảo vệ. “Nấm rễ cộng sinh” - một phần căn bản làm nên sự sống của rừng – cũng chính là một giải pháp chống biến đổi khí hậu hàng đầu, theo ghi nhận của giáo sư Marc-André Selosse, chuyên gia về nấm truffle (hay “nấm cục”), một trong các loài nấm rễ cộng sinh nổi tiếng ở Pháp, và ở châu Âu. Giải pháp căn bản cho cuộc chiến chống biến đổi khí hậu nằm ngay dưới chân ta, ngay trong lòng đất.

Thiếu “nấm rễ”, cây còi cọc


Giới khoa học đã phát hiện ra vai trò của nấm rễ như thế nào ? Trả lời RFI Việt ngữ, giáo sư Marc-André Selosse tóm lược:

‘‘Phát hiện về chuyện này diễn ra vào năm 1885. Vào thời điểm đó, Albert Bernhard Frank, một nhà thực vật học người Phổ (nước Đức hiện nay), được bộ trưởng Nông Nghiệp nước này đặt câu hỏi : vì sao nấm truffle luôn mọc dưới gốc cây ? Albert Bernhard Frank đã phát hiện ra rằng bộ phận tồn tại ổn định của nấm truffle nằm sâu trong lòng đất, với vô vàn các sợi có kích thước hết sức nhỏ bé. Cây nấm, bộ phận nổi trên mặt đất, trên thực tế chỉ là ‘‘cơ quan sinh sản’’, cho phép phát tán các bào tử nấm. Các bộ phận siêu nhỏ tồn tại ổn định nằm trong lòng đất nối liền với các rễ cây, nhà khoa học người Phổ gọi đây là hiện tượng ‘‘nấm rễ cộng sinh’’ (mycorhize). Không chỉ có nấm truffle, mà hàng nghìn loài nấm cũng tồn tại theo một cơ chế tương tự. Khi phát hiện nhiều “nấm rễ cộng sinh” ở cây sồi, Albert Bernhard Frank đặt câu hỏi : Phải chăng các loài nấm như vậy giúp cây phát triển ? Năm 1892, ông viết một bài báo, với nhận định : nếu cắt bỏ nấm rễ của cây thông, loại cây này sẽ phát triển không tốt… (…) Khi người phương Tây di thực các loại thông đến những vùng đất ở Nam Mỹ và châu Phi, thoạt tiên, thông không thể phát triển được nếu không có các loại nấm rễ. Đối với các loại cây thông phát triển tốt ở Nam Mỹ, đến mùa, người ta thấy trên rễ chúng cùng các loại nấm như ở châu Âu’’.

Quan hệ cộng sinh Cây và Nấm. 

Cây cung cấp ‘‘đường’’ cho nấm, nấm ‘‘đi chợ’’ giúp cây


Nấm rễ cộng sinh sống trên các mô rễ của cây chủ, sống nhờ vào cây chủ, nhưng tham gia vào thúc đẩy sự sống của cây chủ, trái ngược với các loại nấm hoại sinh, nấm phân giải chất hữu cơ sống nhờ vào các thực thể hữu cơ chết, phân huỷ, hay các loại nấm ký sinh xâm nhập vào cơ thể vật chủ, gây bệnh và thậm chí tiêu diệt vật chủ. Nấm rễ cộng sinh cụ thể như thế nào với cây? Giáo sư Marc-André Selosse giải thích :

‘Trong thế kỷ 20, nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy nấm rễ nhận được từ cây chất đường, chắc chắn là các loại vitamin, và trong nhiều trường hợp cả các axit béo, tức các sản phẩm có được nhờ ở tiến trình quang hợp của cây. Ngược lại, nấm làm việc công việc ‘‘đi chợ’’ trong lòng đất, hay nói cách khác lấy từ đất các chất azot, photphat, potasium, các chất vi lượng, nước… để tự nuôi nó, nhưng cũng để nuôi cây (…) Trong lòng đất có rất nhiều chất, nhưng tồn tại rất tản mát. Nấm rễ nhỏ li ti làm công việc hút lấy các nguồn dưỡng chất, với hiệu suất cao hơn nhiều so với các rễ cây to. Nấm rễ cũng làm cả công việc bảo vệ rễ cây. Khi quan sát rễ cây ở các vùng ôn đới, cả Nam bán cầu cũng như Bắc bán cầu, và một số nơi ở xứ nhiệt đới, nấm rễ làm nên một thứ vỏ bọc bao xung quanh rễ cây. Có một số loại thông hay bạch đàn không thể mọc được trên đất đá vôi chẳng hạn, nếu không có nấm cộng sinh bao bọc rễ. Nấm rễ giúp cây trong việc tiếp nhận calcium, điều hoà lượng nước tiếp nhận, và cả chống lại các vi sinh vật có hại tấn công rễ. Và có một điều tinh vi, quan trọng khác mới được phát hiện gần đây, đó là nấm rễ giúp cả việc tăng cường hệ miễn dịch của cây, đối với toàn bộ cây, không chỉ với rễ cây. Tóm lại, nấm rễ bảo vệ cây, và và hoạt động tương trợ này diễn ra có tổ chức, bởi khi bảo vệ cây, nấm cũng bảo vệ chính kho thực phẩm của mình’’.

Không có “nấm” thì không có rừng

Nấm rễ cộng sinh mang lại sự sống cho đại đa số các hệ sinh thái trên mặt đất là điều mà giới khoa học, và một số định chế quốc tế ghi nhận từ khá lâu nay. Hội Đồng Toàn Châu Âu (Council of Europe), trong một văn bản năm 2001, liên quan đến nấm, làm rõ Phụ lục 1 Công ước Bern (tức Công ước Bảo tồn Thiên nhiên hoang dã ở châu Âu, có hiệu lực từ năm 1982), nhấn mạnh: “Các loài nấm rễ tham gia vào nhiều quan hệ cộng sinh : khoảng 85% cây thân gỗ có cơ chế cộng sinh nấm rễ, và đây là điều quan trọng nhất trong các chức năng sinh thái của chúng – không có nấm rễ thì sẽ không có rừng, và không có các hệ sinh thái tự nhiên có tổ chức khác’’.

Châu Âu có hai tổ chức toàn châu lục bảo vệ nấm rễ : Hội đồng châu Âu Bảo tồn Nấm (The European Council for the Conservation of Fungi - ECCF), thành lập từ năm 1985, và Hiệp hội chuyên về Nấm rễ châu Âu (European Mycological Association - EMA), thành lập năm 2003. Không kể các hiệp hội quốc gia nhiều nước tồn tại từ lâu đời. Hiệp hội nấm rễ Pháp (Société mycologique de France) xuất hiện từ năm 1884, cùng thời với phát hiện của nhà nghiên cứu người Phổ.


Từ rừng bị hâm nóng...

Tuy nhiên, tại châu Âu và với quốc tế nói chung, trong một thời gian dài nấm rễ về cơ bản vẫn chỉ được nhìn nhận về phương diện đa dạng sinh học, không trực tiếp liên quan đến chuyện biến đổi khí hậu. Cuộc chiến bảo vệ đa dạng sinh học diễn ra gần như độc lập với cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh mẽ đến sinh giới. Đa dạng sinh học ngày càng trở thành nạn nhân của việc trái đất bị hâm nóng. Rừng bị biến đổi khí hậu làm cho suy yếu đến mức mà nhiều nơi rừng trở thành nguồn phát thải khí CO2, thay vì là nơi hấp thụ. Vai trò của nấm rễ với biến đổi khí hậu ngày càng trở thành chuyện được quan tâm hàng đầu trong các nghiên cứu về rừng. Nấm rễ được hy vọng như một cứu tinh .

Nhìn chung ‘‘nấm rễ’’ có vai trò như thế nào trong việc hấp thu khí thải CO2 ? Về vấn đề này, giáo sư Selosse lấy trường hợp rừng ở khu vực ôn đới làm ví dụ giải thích:

‘‘Nấm rễ có hai vai trò trong việc hấp thu khí thải CO2. Vai trò gián tiếp và vai trò trực tiếp. Vai trò gián tiếp khi nấm rễ giúp cây phát triển. Khi cây hút khí thải CO2 chính là nhờ sự trợ giúp của nấm rễ. Vai trò thứ hai là trực tiếp hấp thụ cac-bon. Các nấm rễ ở xứ ôn đới rất phàm ăn cac-bon. Nấm rễ tiếp thu đến 40% lượng cac-bon được cây hấp thu trong quá trình quang hợp. Đây là một con số cực lớn. Đặc điểm thứ hai là nấm rễ xứ ôn đới chậm chuyển hoá : trước hết do nấm rễ sống lâu hơn và khi chết, xác của chúng cũng phân huỷ rất chậm’’.

... đến thừa nhận ‘‘vai trò then chốt với khí hậu’’ của nấm rễ

Năm 2019 lần đầu tiên giới khoa học tiến hành một nghiên cứu quy mô về đa dạng sinh học toàn cầu, với tổng cộng 55 triệu cây, hơn 32.000 giống loài, đại diện cho 97% diện tích trái đất, với sự tham gia của khoảng 250 nhà khoa học từ 50 quốc gia. Nghiên cứu Global Forest Biodiversity Initiative (GFBI), với sự tham gia của Viện nghiên cứu nông học vì phát triển Pháp (Cirad) trong ban điều hành, khẳng định ‘‘vai trò then chốt trong việc điều chỉnh khí hậu’’ của quan hệ cộng sinh nấm rễ với cây nói riêng và giữa các vi sinh vật với cây nói chung.

Vai trò to lớn của quan hệ nấm rễ cộng sinh với ‘‘điều chỉnh khí hậu’’ được nhìn nhận cùng lúc với việc giới nghiên cứu chỉ ra quan hệ cộng sinh nấm rễ này lại đang bị chính biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ. Chưa kể tác động của việc rừng bị phá huỷ, bị khai thác theo lối công nghiệp hóa, đất đai bị can thiệp của con người làm suy thoái với phân bón, thuốc trừ sâu, đô thị hóa… Theo điều tra nói trên của GFBI, khoảng 10% nấm “ngoại cộng sinh” (ectomycorrhizal fungi), tức loại nấm rễ sống bao quanh rễ cây (sống chủ yếu ở xứ ôn đới), như giáo sư Selosse nêu trên, có nguy cơ biến mất trước năm 2070. Mà đây lại chính là họ nấm rễ có vai trò then chốt hơn cả đối với việc hấp thu khí thải gây hiệu ứng nhà kính.

Rừng bị khai thác theo lối công nghiệp (coupe à blanc/ Clearcutting) : Cây chết, các mạng nấm rễ trong lòng đất cũng bị tiêu diệt

Thế giới nấm, ‘‘điểm quyết đấu'’ của cuộc chiến Khí hậu-Đa dạng sinh học

Biến đổi khí hậu và các hoạt động của con người đe dọa các hệ sinh thái, đảo lộn đa dạng sinh học toàn cầu ngay trong lòng đất - nền tảng của đời sống sinh giới. Tuy nhiên cũng chính biến đổi khí hậu và các biến động ghê gớm khác cũng làm nổi bật tầm quan trọng hàng đầu của các hệ vi sinh vật nhỏ bé, mong manh trong đất đối với sự ổn định của khí hậu. Việc nhận diện đầy đủ sự tồn tại đa dạng và vô cùng tinh vi của chúng, cùng nỗ lực bảo vệ chúng đang dần dần trở thành một ‘‘điểm quyết đấu’’ mới của cuộc chiến kép - bảo vệ khí hậu, bảo vệ đa dạng sinh học .

Nấm rễ và thế giới các vi sinh vật nói chung lâu nay nằm ở vị trí chiếu dưới trong cuộc chiến bảo vệ đa dạng sinh học. Trong danh sách đỏ năm 2022 của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), chỉ có 640 loài nấm, trong lúc có hơn 62.000 động vật và hơn 60.000 thực vật (iucnredlist.org).Cho đến nay, các nhà khoa học mới chỉ xác định được khoảng vài chục nghìn loài nấm rễ, trong lúc số chủng loại nấm rễ toàn cầu có thể có đến hàng trăm nghìn loài, thậm chí hàng triệu. Quan hệ cộng sinh rễ - nấm không phải chỉ là giữa một loại nấm với một cây mà nhiều nấm cộng sinh với cùng một cây, và các nấm rễ lại có quan hệ liên thông tạo thành một mạng lưới liên kết rộng lớn, cây cối liên hệ với nhau thông qua nấm rễ.

Nhà sinh học Toby Skiers (giáo sư Đại học Vrije Universiteit Amsterdam, Hà Lan) ví các mạng lưới nấm rễ như “bộ xương của đất”. Nhờ mạng lưới sợi nấm, đất trở nên thông thoáng hơn, ít bị nén chặt hơn, ổn định hơn. Xói mòn ít hơn và giữ nước tốt hơn. Nấm rễ là cả một thế giới mênh mông. Dưới lòng đất, các sợi nấm mỏng manh, vô hình, nhưng có tổng số chiều dài ghê gớm : hàng cây số sợi nấm ẩn trong một centimet khối đất, và nếu tính trên diện tích toàn thế giới, chiều dài tổng cộng của các mạng sợi nấm của 10cm đất đầu tiên dưới lòng đất tương đương với 450 x 1024 km, tức bằng khoảng một nửa chiều rộng của dải Ngân Hà của chúng ta.

Tại nhiều khu vực, nấm rễ có thể chiếm đến 50% tổng trọng lượng sinh khối. Nhà nấm rễ học Stephan Declerck, phụ trách kho lưu trữ nấm rễ lớn nhất thế giới (Đại họcUCLouvain, Bỉ), cho biết cơ thể sống lớn nhất thế giới hiện nay chính là nấm. Một ‘‘con’’ nấm thuộc loài Armillaria Ostoyae, ở công viên quốc gia Oregon (miền tây nước Mỹ), nặng khoảng 600 tấn, trải rộng trên diện tích 8,9 km² trong lòng đất, có tuổi đời từ ít nhất 2.400 năm đến 8.000 năm. Cả một thế giới kỳ lạ, phi thường nằm ngay dưới bàn chân ta.

SPUN thám hiểm ‘‘vũ trụ’’ các mạng lưới “nấm rễ” toàn cầu

Thực tế nấm rễ cộng sinh chính là “điểm mù của cuộc chiến chống biến đổi khí hậu’’, như nhận định của các nhà khoa học nhóm SPUN (Society for the Protection of Underground Network), do khoa học gia Hà Lan Toby Skiers và một số đồng nghiệp chủ trì. Chương trình lập bản đồ toàn cầu đầu tiên về thế giới chuyên về các loài nấm trong lòng đất, khởi sự từ 2021. SPUN hy vọng tìm thấy chính trong “điểm mù” tri thức đó các bí quyết giúp nhân loại thoát hiểm đại thảm họa khí hậu. Dự án SPUN chủ trương lập bản đồ chi tiết đầy đủ về nấm rễ toàn cầu, tìm hiểu về khả năng cất giữ CO2 khổng lồ của loài sinh vật đặc biệt này, bảo vệ các mạng lưới nấm rễ bị đe dọa.

Kế thừa cơ sở dữ liệu khổng lồ GlobalFungi (tập hợp các thành tựu về nghiên cứu nấm rễ toàn cầu trong 20 năm qua), nhờ ở một phần ở trí thông minh nhân tạo và kỹ thuật mô hình hoá (của các chuyên gia Crowther Lab - Đại học Bách khoa quốc gia Zurich), chương trình lập bản đồ nấm rễ toàn cầu 150 triệu km² (của SPUN) về cơ bản có thể “về đích trong hơn 5 năm tới”, theo chuyên gia Pháp Francis Martin, thành viên Hội đồng khoa học của SPUN.



Cây cối trên cạn: Hậu duệ của ‘‘cuộc kết hôn giữa nấm và tảo biển’’

Trong một kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí Current Biology, trên quy mô toàn cầu, nấm rễ có thể hấp thu đến 13,2 tỷ tấn CO2, chiếm khoảng một phần ba lượng khí thải toàn cầu. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết thực vật có liên quan đến nấm rễ cộng sinh có thể hấp thụ lượng cac-bon nhiều gấp 8 lần so với thực vật không có liên hệ với nấm. Hiện tại, những dự báo về khả năng hấp thu CO2 to lớn của nấm rễ vẫn chỉ là ước tính, với độ sai số ắt là khá cao, bởi vũ trụ các mạng lưới nấm rễ trong lòng đất là điều còn rất ít được biết đến.

Dù sao có một điều chắc chắn, được giới chuyên môn đồng thuận, đó là ‘‘cơ chế cộng sinh nấm rễ’’ chính là điều đã giúp cho sự sống nở rộ trên đất liền. Cơ chế cộng sinh này đã từng cho phép “hình thành các hệ sinh thái trên cạn”. Nhờ đó mà các loài tảo biển có thể di cư thành công lên mặt đất cách nay từ 485 triệu đến 443 triệu năm, giai đoạn mà các nhà cổ sinh vật học gọi là kỷ ‘‘Ordovic’’ .

Khác hẳn với đại dương, nơi tảo cùng lúc có được ánh sáng, nước, cac-bon, khoáng chất. Đất liền khác hẳn. Ánh sáng và cac-bon có trong không khí, trong lúc nước và khoáng chất nằm trong lòng đất. Để thành công trong cuộc di thực này, tảo biển đã “ký kết một thoả ước hôn nhân lâu dài” với nấm. Tảo cấp cho nấm đường và các axit béo, nấm cấp cho tảo các khoảng chất nhờ các hệ thống sợi mỏng manh với khối lượng nhỏ hơn rễ đến hàng trăm lần, nhưng vươn xa. Đây chính là lý do khiến quan hệ cộng sinh nấm rễ liên quan đến đại đa số cây cối. Cây cối trên mặt đất là các hậu duệ của cuộc hôn nhân quyết định này.

Đối với nhà sinh học tiến hoá Toby Skiers, ‘‘phá hủy quan hệ đối tác lâu đời hàng trăm triệu năm này cũng chính là tự huỷ hoại thực sự khả năng của con người ngăn chặn biến đối khí hậu”.

“Hệ thống internet trong rừng'' và những Cây Mẹ linh thiêng

Những hiểu biết sâu hơn về đời sống các vi sinh vật trong lòng đất ngày càng làm lộ rõ sự kỳ diệu khôn cùng của các hệ sinh thái. Nhà sinh thái học kỳ cựu về rừng, bà Suzanne Simard, người Canada, từ rất sớm, vào năm 1997, đã từng ví các mạng lưới nấm rễ cộng sinh như một “hệ thống internet” ngầm trong lòng đất, liên kết cả một rừng cây. Cây cối nhờ vào hệ thống này mà có thể “tương trợ” nhau, “các cây mẹ” hỗ trợ đàn cây con. Đây là điều gây cảm hứng lớn cho đạo diễn James Cameron khi làm bộ phim Avatar, ca ngợi sự huyền nhiệm của rừng, mối quan hệ tâm linh nối kết cộng đồng thổ dân với Mẹ Cây linh thiêng (xem thêm phần ''Cây cối hợp tác qua mạng lưới nấm rễ:‘‘Trực giác khoa học’’, ‘‘Niềm tin tâm linh’’ hay ‘‘Khái quát hóa vội vã’’ ?'').



Bí quyết diệu kỳ của “nấm-rễ” : Loài người có kịp rút các bài học?

Trong cái rủi có thể có cái may. Cuộc đại khủng hoảng về môi trường, khí hậu cũng có thể là cơ hội để nhân loại đương đại trở lại với những bài học căn cốt của thiên nhiên. Tạp chí xin khép lại với một nhận định của giáo sư Marc-André Selosse. Trong cuốn ‘‘Jamais seul. Ces microbes qui construisent les plantes, les animaux et les civilisations’’ (tạm dịch là‘‘Không bao giờ cô độc. Các vi sinh vật kiến tạo nên các loài thực vật, động vật và các nền văn minh’’) (2017), nhà sinh học, chuyên gia nấm rễ Viện bảo tàng Quốc gia về Lịch sử Tự nhiên Pháp, kêu gọi chúng ta thứ tạm thời rời bỏ cách nhìn khô cứng coi mỗi ‘‘thực thể’’ là một tồn tại biệt lập (The Conversation.com).

Trong thế giới các vi sinh vật, mọi thứ ‘‘trước hết là tương tác’’, liên tục trong tương tác. Ranh giới giữa thực thể này và thực thể khác rất khó xác định. Trong thế giới ‘‘nấm rễ cộng sinh’’, khó có thể nói chắc đâu là cây, đâu là nấm. Đường biên hết sức co giãn. Nấm rễ thông qua các protein nhỏ bé ‘‘làm biến đổi sự vận hành của các tế bào cây, tác động đến quá trình hoạt hóa thông tin di truyền chứa trong gien (hay ‘‘biểu hiện gien’’)’’ . Một ‘‘thực thể cây’’, thông qua các mạng lưới sợi nấm, trao đổi dinh dưỡng và cả thông tin với các cây hàng xóm, và quá trình cứ thế tiếp tục. ''Thực thể cây mở rộng'' kiểu như vậy có thể liên quan đến toàn bộ một khu rừng, hay một đồng cỏ. Trong thế giới đó, ‘‘mỗi vi sinh vật là một giao điểm trong cả một mạng lưới tương tác khổng lồ’’, mênh mông như ‘‘đại dương’’.

Cái thế giới nhỏ bé vô cùng ấy cũng là một thế giới mang trong mình một sứ mạng khổng lồ : duy trì sự cân bằng sinh thái, sự ổn định của khí hậu trên hành tinh. Cuộc đại khủng hoảng khí hậu – môi sinh cận kề buộc nhân loại phải trở lại với cái thế giới ấy, để tìm học những bí quyết diệu kỳ, đã từng kiến tạo nên sự sống trên mặt đất từ hàng trăm triệu năm nay - các điều kiện sống đã cho phép ra đời nền văn minh của con người. Liệu nhân loại còn đủ thời gian để lãnh nhận trước khi những đại khủng hoảng dồn dập ập tới?

Trọng Thành




Bài đọc thêm:

4/12/21

Tiền ảo Bitcoin có thể khiến Bắc Kinh thất bại trong cuộc chiến khí hậu

RFI - Trọng Thành
Tiền ảo Bitcoin mang lại các khoản lợi nhuận không ngờ, nhưng cũng gây tổn hại trầm trọng khi môi trường, do sử dụng nhiều điện. Bitcoin có thể khiến Bắc Kinh thất bại trong các cam kết khí hậu : Ảnh minh họa REUTERS - DADO RUVIC

Tiền ảo Bitcoin gây ô nhiễm nghiêm trọng tại Trung Quốc, do tiêu thụ rất nhiều điện, đặc biệt là điện than, theo nghiên cứu mới của một nhóm khoa học gia Trung Quốc. Phát triển tiền ảo đe dọa mục tiêu cắt giảm khí thải để hãm lại đà hâm nóng khí hậu, mà chính quyền Tập Cập Bình hứa hẹn với quốc tế. 

« Đào tiền ảo Bitcoin » : Tốn điện ngang với Ý

Đồng tiền ảo Bitcoin gây nhiều thèm muốn, cũng như lo sợ. Bitcoin được coi là mang lại những món lợi trời cho với khá nhiều người này, trên thực tế, gây rất nhiều tổn hại cho môi trường. Theo một nghiên cứu, vừa được công bố trên tạp chí Nature Communications, ngày 06/04/2021, đồng tiền ảo này tốn rất nhiều điện, đặc biệt là điện than, sẽ có thể làm Bắc Kinh thất bại trong mục tiêu cắt giảm khí thải đúng hạn. Hiện tại, điện cho Bitcoin đã chiếm 0,6% điện tiêu thụ toàn cầu. Theo nghiên cứu này, nếu không có biện pháp, từ đây đến 2024, ngành công nghiệp Bitcoin sẽ tạo thêm mỗi năm hơn 130 triệu mét khối khí thải CO2, ngang với điện tiêu thụ của Ý, một cường quốc công nghiệp. Đặc phái viên thường trú của RFI Stéphane Lagarde cho biết thêm :

11/20/20

Nhà vệ sinh: Những cuộc cách mạng làm thay đổi đời sống hàng tỉ người

Trong ảnh : tại một công viên giải trí về Nhà vệ sinh tại Hàn Quốc. Frédéric Ojardias/RFI

Đại tiểu tiện là nhu cầu hàng ngày của mỗi người. Tuy nhiên câu chuyện xưa như Trái đất này lại không hề đơn giản với hàng tỉ con người. Gần một phần ba nhân loại không có điều kiện sử dụng nhà vệ sinh. Chưa kể vấn đề nhà vệ sinh không sạch, không an toàn. Kể từ năm 2013, Liên Hiệp Quốc chính thức coi ngày 19/11 hàng năm là Ngày Nhà vệ sinh Quốc tế. Mục tiêu của LHQ là tới 2030 toàn nhân loại đều được hưởng quyền sử dụng nhà vệ sinh sạch hàng ngày.

Bồn cầu giật nước – cuộc « cách mạng » đầu tiên

Từ hàng nghìn năm nay, mỗi nền văn minh trong quá trình phát triển đều tìm kiếm các phương thức xử lý chất thải đại tiểu tiện, đặc biệt đối với các khu vực tập trung dân cư đông đúc. Tuy nhiên, cho đến kỷ nguyên công nghiệp hóa, việc đi đại tiện trong môi trường thiên nhiên là điều phổ biến. Ngay tại châu Âu, cho đến tận cuối thế kỷ XIX, không hiếm khách bộ hành thỏa mãn nhu cầu ngay trên đường phố. Trong gia đình, giới quý tộc, thị dân sử dụng bô để đi vệ sinh. Kể từ khi kỹ sư người Anh Joseph Bramah phát minh ra bồn cầu water-closets (WC) vào cuối thế kỷ XVIII, phương tiện này đã bắt đầu được nhân rộng khắp nơi. Trong thế kỷ XX, tại các đô thị lớn, người ta xây dựng các hệ thống cống ngầm để đưa chất thải bài tiết ra xa khỏi các khu vực trung tâm. Hiện tại, đối với hàng tỉ người tại các nước phát triển, tầng lớp trung lưu ở các nước đang phát triển, bồn cầu, hố xí giật nước đã trở thành tiện nghi tối thiểu, không thể thiếu.

....

Nghe phần âm thanh:

3/1/16

Báo cáo Khrushchev bảo vệ chế độ toàn trị Xô Viết

Trọng Thành (RFI)
 Đăng ngày 29-02-2016 Sửa đổi ngày 29-02-2016 19:1

Cách nay 60 năm, lãnh đạo Liên Xô vào thời kỳ đó, ông Khrushchev, đã công bố một bản báo cáo lên án lãnh đạo tiền nhiệm Stalin, như là một đao phủ, gây bao thảm họa tại Liên Xô. Bản báo cáo được công bố đúng ngày cuối cùng  Đại hội XX của đảng này, thời điểm mà nhiều đoàn lãnh đạo các nước cộng sản Đông Âu hay Trung Quốc, Việt Nam đang có mặt tại thủ đô nước Nga. Báo cáo được coi là đã dẫn đến sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản toàn trị, tuy nhiên, ngày càng nhiều có nghiên cứu cho thấy ban lãnh đạo Khrushchev đã sử dụng văn bản này để chia tay an toàn với thời kỳ Stalin, với mục tiêu bảo tồn nguyên vẹn vị thế lãnh đạo của giới cầm quyền cộng sản.