7/9/14

Chuyện bên lề

Đoàn Dự
1.  Các nhà lãnh đạo TC có thể “ngu xuẩn” hay không?
Ngày  12-5-2014, Giáo sư tiến sĩ Jame Holmes, chuyên gia nghiên cứu cao cấp tại Học  viện Quân sự Hải Quân Mỹ, có đăng trên tờ The Diplomat về việc Trung Cộng đặt  giàn khoan Hải Dương-981 trên thềm lục địa Việt Nam, trong đó ông nói một câu rất đáng chú ý như sau: “Sự ngu xuẩn và tự tìm lấy thất bại là một phần trong các chiến lược của Trung Cộng”. Lãnh đạo một đất nước hùng mạnh hơn một tỉ dân, đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ mà thôi thì có thể “ngu xuẩn” như lời GS  Jame Holmes nói hay không? Không ai chứng minh được điều đó. Nhưng chẳng lẽ GS  Jame Holmes lại nói sai? GS là một chuyên viên cao cấp giảng dạy trong Học viện  Quân sự Hải Quân Mỹ chứ đâu phải vừa. Về phần Đ.Dự, tôi không nói các nhà lãnh  đạo TC là “ngu”, nhưng qua các sách vở, tài liệu lịch sử TC, tôi thấy có những  chuyện như thế này:
Dr.  James Holmes
- Chuyện thứ  nhất:Vào khoảng những  năm từ 1958 đến 1961, nhà “đại lãnh đạo” TC Mao Tse Tung, tiếng Việt kêu là Mao Trạch Đông: “Đông phương hồng! Mặt trời lên! Trung Hoa chúng ta có bác Mao Xì Tung, với muôn dân người là cứu tinh! Tính tang tình, dân ấm no người mưu hoà  bình!… “. Ấm no cái con khỉ khô! Hồi đó dân chúng Trung Cộng đói muốn chết, thậm  chí nhà văn Mạc Ngôn – tác giả Cao Lương Đỏ, Đèn Lồng Treo Cao, Báu Vật Của  Đời..vv..(sau này đoạt giải Nobel văn học năm 2012) nói rằng nhiều người đói quá  phải ăn cả lá dâu, nhiều gia đình nghèo quá, cả nhà chỉ có chung một chiếc quần, ai đi đâu thì mới mặc, còn hàng ngày cả gia đình ai cũng chỉ quấn bao bố; nhiều nơi dân chúng chết đói. Bác Mao chợt nghĩ ra rằng, đa số các loài chim đều ăn sâu bọ hoặc cá mú, sò ốc, riêng chim sẻ thì sống gần người và ăn hạt, tức ăn lúa  gạo. Nhà đại lãnh đạo Đông phương hồng tính ra, mỗi năm khắp nước TC có hàng  triệu, hàng triệu con chim sẻ, vậy thì chúng ăn hết hàng ngàn tấn lúa gạo, trong  khi đó dân chúng đói rách, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Vậy là ngài bèn họp  Bộ Chính trị Trung ương rồi tung ra đại chiến dịch … diệt chim sẻ (Đả mã tước  đại chiến dịch), ra lệnh cho dân chúng tiêu diệt chim sẻ, phá tổ chim, đập vỡ trứng. Ai diệt được nhiều chim sẻ người đó được phong danh hiệu anh hùng. Dân chúng ai có lưới dùng lưới, ai có súng dùng súng, ai không có lưới hay súng thì dùng cung tên. Ngài còn hạ lệnh cho quân đội đem cả súng đại bác ra mà bắn chim sẻ. Súng đại bác thì bắn chim sẻ làm sao được? Các vị chỉ huy quân đội lấy làm  thắc mắc lắm, nhưng lệnh là lệnh, lệnh đã ban ra thì phải tuân theo. Kết quả là chim sẻ chết rất nhiều. Các nhà khoa học trong Hàn lâm viện Khoa học Hoa Kỳ gửi văn bản cho Mao Trạch Đông, khuyến cáo rằng theo nghiên cứu của Hàn lâm viện,  chim sẻ ăn sâu bọ, côn trùng, nhất là ăn cào cào châu chấu nhiều hơn ăn thóc gạo, nếu tận diệt chim sẻ sẽ làm mất sự cân bằng sinh thái trong thiên nhiên, sẽ rất nguy hiểm. Mặc, bọn “đế quốc Mỹ” muốn nói gì thì nói, đường ta ta cứ đi, Mao  xếnh xáng không thèm nghe. Quả nhiên, đả mã tước đại chiến dịch chỉ mới phát  động được chưa đầy 3 năm – từ 1958 đến 1961 – thì sau đó, năm 1962, cả nước TC  bị nạn cào cào châu chấu (kêu là hoàng trùng đại nạn) phá hoại mùa màng không  sao cứu vãn nổi do đã tiêu diệt chim sẻ, dân chúng chết đói tới hơn 30 triệu người. Bác Mao tuyên bố: “Chiến dịch rất thành công nhưng thôi, không nói tới  nữa”.
Thế  đấy, cổ nhân có câu: “Bậc thượng trí thì người ta chưa nói đã hiểu. Bậc trung trí, người ta vừa mới nói đã hiểu. Còn hạng hạ trí, người ta nói như chòi vào lỗ  tai thì cũng chẳng hiểu”. Nhà đại lãnh đạo Trung Cộng Mao Trạch Đông nghe các nhà khoa học Hoa Kỳ nói nhưng không hiểu, làm chết tới 30 triệu dân, vậy ông ta thuộc hạng hạ trí, nói nôm na ra là… đồ ngu xuẩn. Tôi nghĩ rằng thầy nào tớ nấy, các nhà lãnh đạo TC hiện nay cũng ngu xuẩn như thầy của họ là Mao Trạch  Đông.
– Chuyện thứ  hai: Về đời nhà Tần bên Tàu (từ 221 đến 206 trước Tây lịch), sau khi Tần Thuỷ Hoàng gồm thâu lục quốc, dựng nên nhà Tần rồi lên làm hoàng đế. 9 năm sau, ông ta đi kinh lý và chết đột ngột trên đường về, đứa con thứ hai tên là Hồ Hợi, lúc ấy mới 20 tuổi, toa rập với thừa tướng Lý Tư và bí thư lang Triệu Cao (người giữ ấn tín, giấy tờ cho Tần Thuỷ Hoàng), lập mưu làm giả chiếu chỉ của Tần Thuỷ Hoàng, ra lệnh cho anh ruột  là Thái tử Phù Tô phải tự tử chết, nếu không vợ con sẽ bị giết hết, rồi Hồ Hợi lên làm vua, đó là Tần Nhị Thế.
Tần  Nhị Thế tuy còn trẻ tuổi nhưng cũng độc tài, khát máu và ngu dốt như nhà “đại lãnh đạo” miệng còn hôi sữa Kim Jong Un nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên bây giờ. Triệu Cao xúi giết Lý Tư (để Cao lên thay làm thừa tướng), Nhị Thế  cũng giết. Sau khi đã lên làm thừa tướng rồi, Triệu Cao xúi giết hết các anh em ruột thịt đi kẻo họ cướp ngôi, Nhị Thế cũng giết. Triều đình xanh mặt, ai cũng  lo sợ rằng với nhà “đại lãnh đạo” ngu xuẩn như thế, cái đầu của mình không biết  lúc nào sẽ rời khỏi cổ.
Một  lần, Tần Nhị Thế được thừa tướng Triệu Cao phò đi coi Vạn lý trường thành. Nhị Thế rất lấy làm đắc ý vì thấy bức trường thành oai hùng quá, vĩ đại quá, thật là một công trình ngàn năm có một. Về, Tần Nhị Thế bèn ra lệnh… sơn Vạn lý trường thành cho đẹp! Các quan đưa mắt nhìn nhau, không ai dám nói một tiếng nào cả.  Lúc ấy các đạo quân nổi dậy của Lưu Bang, Hạng Võ đã tiến gần tới kinh đô Hàm Dương, khắp nơi loạn lạc, Nhị Thế u mê không biết gì hết, ra lệnh sơn Vạn lý  trường thành chỉ càng làm cho dân chúng khốn khổ. Anh chàng kép hát tên Ưu Chiên  – một “nghệ sĩ hài” trong cung đình, lúc nào cũng được đi theo Nhị Thế để giúp vui – thấy các “Ủy viên Trung ương đảng” trong triều đình nhát quá, nên bèn quỳ tâu: “Khởi tấu đấng chí tôn, sơn Vạn lý trường thành thì đẹp lắm, dễ lắm nhưng …  không lấy cái gì đủ lớn để trùm lên, che trường thành cho sơn khô được, mà không che thì sẽ bị bụi và mưa gió!”. Sơn thời đó chưa “tiến bộ” như bây giờ nên rất  lâu khô. Tần Nhị Thế nghe lời, bèn bãi bỏ lệnh bắt dân chúng sơn Vạn lý trường  thành, các quan thở phào nhẹ nhõm. Xem ra, cả triều đình còn thua một anh kép  hát!
Hồ  Hợi làm vua được 3 năm (từ 210 đến 207 trước Tây lịch) thì bị Triệu Cao giết, đưa người cháu gọi Hồ Hợi bằng chú là Tử Anh lên ngôi. Tử Anh lập mưu giết Triệu Cao trước khi các cánh quân của Hạng Võ và Lưu Bang tiến vào Hàm Dương. Tử Anh  đầu hàng nhưng bị Hạng Võ giết đồng thời đốt cháy cung A Phòng 3 tháng lửa mới  tắt. Bạo Tần hoàn toàn sụp đổ. Nhà Tần tính từ Tần Thuỷ Hoàng tới Tử Anh, làm  hoàng đế được 15 năm (từ 221 đến 206 trước Tây lịch).
Các  chế độ độc tài thì đều như thế cả, rất mau sụp đổ.
2.  Các “nhà lãnh đạo” có thể bán nước hay không?
Tôi  xin thưa rằng có đấy quý bạn ạ. Bạn đừng nghĩ đã làm lớn như thượng thư, tể  tướng chẳng hạn, vinh hoa phú quý tuyệt đỉnh thì người ta không bán nước. Sự thật không phải như thế, những kẻ tham lam không bao giờ bằng lòng với địa vị  của mình. Được một chúng muốn mười, được mười chúng muốn một trăm, chẳng bao giờ  thoả mãn. Ngoài ra, những kẻ càng làm lớn bao nhiêu thì đối phương càng muốn mua  chuộc bấy nhiêu, một ông tể tướng bán nước sẽ có ích lợi cho chúng gấp nhiều lần  so với những ông “quan” cấp nhỏ. Sau đây xin mời quý bạn xem xét câu chuyện bán  nước có một không hai trên đời của Tần Cối, một vị tể tướng “đại gian tế” thuộc  đời nhà Tống bên Tàu. – Tại sao Đ.Dự tôi cứ thích nói chuyện bên Tàu?
Không phải  tôi “thích” đâu mà là tại tôi lớn tuổi rồi, hay bị bệnh “rét”. Thời cuộc đảo  điên “thế chiến quốc, thế xuân thu, thời thế thế, thế thời phải thế” , tôi ngại  “ủ tờ” lắm – nói lái theo kiểu Bắc kêu là “tủ ờ” – cứ đem ba cái chuyện bên Tàu  từ đời nảo đời nào ra mà luận cổ suy kim thì chắc ăn hơn cả. Đây, xin mời quý  bạn coi qua cho biết…
TIỂU  SỬ ĐẠI “TỐNG GIAN” TẦN CỐI
Tần  Cối sinh năm 1090 tại Kim Lăng (nay là thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, Trung Cộng), ngay từ thuở nhỏ đã thông minh tuyệt đỉnh, năm 25 tuổi thi đậu tiến sĩ đệ nhất đẳng tức Trạng nguyên, xuất thân gia đình quan lại, cha từng làm tới chức  thất phẩm huyện lệnh.
Năm  Tĩnh Khang thứ nhất, tức tháng 11 năm 1126, quân Kim từ phía bắc đánh xuống tới  Biện Kinh là kinh đô của nhà Tống. Thái thượng hoàng Tống Huy Tông Triệu Cát và con là Hoàng đế Tống Khâm Tông Triệu Hoàn cùng các cung phi, hoàng hậu, phò mã, công chúa, các quan và mọi người khác trong tôn thất đều bị bắt làm tù binh, rồi  bị quân Kim áp giải về Kim quốc của chúng ở phía bắc, trong số các quan bị bắt  đó có Tần Cối.
Ở  trong ngục, Tần Cối được Huy Tông uỷ thác việc viết thư cầu hòa với Hoàng đế Kim (kêu là Trung Hiến vương Niêm Hãn). Nước Kim tức bộ tộc Nữ Chân ngày trước, từ xưa đến nay chưa từng có chữ viết, phải mượn chữ viết của nước Liêu tức bộ tộc  Khiết Đan cũng ở phía bắc ngay sát phía dưới mà dùng. Tần Cối đã đậu trạng  nguyên, thông minh từ nhỏ nên biết nhiều thứ tiếng, viết thư bằng tiếng nước Liêu với lời lẽ cực kỳ khúm núm. Vua Kim rất mừng vì có người biết tiếng Liêu, bèn thưởng cho Tần Cối một vạn quan tiền, một vạn tấm lụa, rồi đem Tần Cối tặng  cho người em trai của mình là Hoàn Nhan Thát Lại, và bảo Thát Lại: ”Ta đã nghĩ  đến việc này từ ba năm nay rồi. Muốn chiếm được toàn bộ Trung nguyên thì phải có người làm nội ứng. Ngươi hãy đối xử với người này thật tử tế, coi như ruột thịt  để hắn trở thành người của ta, sau này sẽ có việc  dùng”.
Năm 1130, tức 4 năm sau kể từ ngày bị bắt, Tần Cối được lệnh của Hoàn Nhan Thát Lại,  giả làm kẻ đào thoát, trở về Trung nguyên, vượt sông Hoàng Hà, xuống miền Nam nước Tống, nhưng thực chất đó là gian tế của nước Kim.
Lại  kể chuyện về miền Nam. Sau khi Thái thượng hoàng  Huy Tông và hoàng đế Khâm Tông bị giặc bắt, một vị hoàng tử tên là Triệu Cấu, con  của Huy Tông, em ruột Khâm Tông, lúc ấy đang đi xem xét quân tình ở miền Nam nên  thoát nạn, bèn lập triều đình và lên làm vua, đó là vua Cao Tông, và nhà Tống  lúc này chỉ còn lại một nứa phía nam nên gọi là nhà Nam Tống.
Tần Cối “đào thoát” trở về, tể tướng Nam Tống là Phạm Tông Doãn và Khu mật viện Lý Hồi cùng các vị quan khác mừng lắm, bèn tâu với Cao Tông, bảo đảm về lòng trung  thành của Tần Cối. Mặt khác, Cao Tông thấy Tần Cối bị bắt cùng với cha và anh mình, bây giờ trốn về được, điều đó chứng tỏ khí tiết của vị trạng nguyên này  nên rất tin dùng, lập tức phong cho Tần Cối làm thượng thư bộ  Lễ.
Càng  ngày càng được Cao Tông sủng ái, dần dần Tần Cối dồn ép người đã từng tiến cử  mình là tể tướng Phạm Tông Doãn phải cáo lão, “về hưu non” để mình thay chức. Sau khi nắm được quyền bính trong tay, Tần Cối bắt đầu tính đến chuyện cầu hòa, chính thức dâng một nửa giang sơn phía Bắc cho quân Kim, nộp tiến cống, đồng thời bắt đầu tiêu diệt những kẻ chủ chiến. Bởi vậy dân chúng trong thành Lâm An  miền Nam nghi ngờ và có lời đồn đại:“Tể tướng Tần  Cối là gian tế của giặc”.
MỘT  NGÀY 12 ĐẠO KIM BÀI!
Đã  phải cắt một nửa giang sơn nhưng rợ Kim còn đòi mỗi năm Nam Tống phải tiến cống  25 vạn lạng bạc, 25 vạn tấm lụa và vua Tống phải xưng thần thì mới cho hoà. Tần  Cối xúi Cao Tông chấp nhận song dân chúng rất phẫn uất. Hoà ước đã ký kết và  nhận được tiến cống, Kim đế cho phép đem quan tài Huy Tông, Hoàng thái hậu cùng  những người đã chết về.
Sau  lần nghị hòa này, nhiều đại thần trong triều phản đối. Quan Đông các đại học sĩ  Hồ Thuyên – một người rất có danh tiếng – dâng biểu xin xử trảm Tần Cối và đồng  bọn như Vương Luân, Tôn Cận để tạ tội với thiên hạ. Biểu chương đã làm chấn động  triều đình nhưng Cao Tông không nghe theo. Tần Cối vẫn giữ vững địa vị tể tướng  và đầy Hồ Thuyên cùng nhiều người khác đi biệt xứ .
Năm  Thiệu Hưng thứ 10, người Kim bội ước, tấn công xuống chiếm các tỉnh Hà Nam, Thiểm Tây..vv.. Quân đội Nam Tống dưới quyền  chỉ huy của nguyên soái Nhạc Phi cùng những vị đại tướng tài ba khác như Hàn Thế Trung, Dương Kỳ Trung, Trương Tuấn, Lưu Kỳ… đem quân chống lại và thắng lớn, chẳng những chiếm lại các tỉnh mới bị giặc xâm lấn như Hà Nam, Thiểm Tây, Yến  Thành..vv.. mà còn đánh lên miền Bắc, tiến sát tới tận cố đô Khai Phong. Tin vui  thắng trận báo về, Cao Tông mừng rỡ, thăng nguyên soái Nhạc Phi lên đại nguyên  soái và ra lệnh cho các tướng Hàn Thế Trung, Dương Kỳ Trung, Trương Tuấn, Lưu  Kỳ…hợp quân với đại nguyên soái Nhạc Phi, hẹn ngày chiếm lại kinh đô Biện Lương,  lấy lại miền Bắc rồi sẽ đánh thẳng lên Kim quốc.
Về  phần chủ soái của phía quân địch là Ngột Truật, thấy quân mình thiệt hại nặng nề, đã định bỏ miền bắc Trung Cộng, lui về để giữ Kim quốc nhưng sau đó “cầu  may” bằng cách bí mật ra lệnh cho Tần Cối: “Ngươi ngày đêm giữ việc hòa hoãn song Nhạc Phi và các tướng của y không nghe theo, quyết chiến, đánh lên Hà Bắc, giết hại con rể của ta, lại còn định chiếm Biện kinh và tiến tới tận thiên triều nữa. Ngươi phải tìm cách giết Nhạc Phi và lui quân các tướng, nếu không ta sẽ  công khai những chuyện ngươi đã liên lạc với thiên triều từ trước tới nay”.
Tần Cối rất lo sợ, bèn dùng kế “rút củi đáy nồi” bằng cách ra lệnh cho các tướng Hàn Thế Trung, Dương Kỳ Trung, Lưu Kỳ ..vv.. lui quân về giữ Nam Tống kẻo … bị Ngột Truật đánh úp (?), để mặc cho quân Nhạc Phi đơn độc không thể đánh lên Biện kinh  được. Với miệng lưỡi khéo léo của một bậc trạng nguyên thông minh từ nhỏ, Tần Cối cũng thuyết phục Cao Tông triệu hồi Nhạc Phi về kinh. Nhạc Phi đang đà thắng  lợi, không về. Trong cùng một ngày, với quyền lực tể tướng của mình, Tần Cối  phát ra 12 đạo kim bài (tức 12 tấm thẻ bài bằng vàng, lệnh của nhà vua), thúc  giục Nhạc Phi trở về. Bắt buộc Nhạc Phi phải về, nếu không toàn gia tộc tại kinh  đô sẽ bị giết.
Khi  đại nguyên soái Nhạc Phi đã về, liền bị Tần Cối tống ngay vào ngục để sẽ xử tội. Tướng quân Hàn Thế Trung cùng các tướng khác lúc đó cũng đã bị triệu hồi, chất vấn Tần Cối: “Xử tội đại nguyên soái Nhạc Phi, thế bằng chứng đâu?”. Tần Cối trả  lời: “Không có bằng chứng. Nhưng cũng không cần có”. Ba tiếng “Không cần có”  (Mạc tu hữu) sau này được sử sách chép liền với tên tuổi Nhạc Phi để chỉ những  lời buộc tội ngụy tạo.
Tần Cối còn đang do dự, giết Nhạc Phi thì bị dân chúng phản đối mà không giết sẽ bị Ngột Truật công bố chuyện bán nước, người vợ của Tần Cối là Vương Thị nói:  “Tướng công phải hiểu, bắt cọp thì dễ, thả cọp về rừng rất khó bắt lại, giết đi  là xong “. Tần Cối nghe theo, bèn sai người giết Nhạc Phi. Vào một đêm tháng 1  năm 1142, Nhạc Phi và con trai của mình là Nhạc Vân bị hành quyết bằng cách thắt  cổ chết trong ngục.
BỊ HẬU THẾ COI LÀ KẺ BÁN NƯỚC
Người  Hán sau đó xem Tần Cối là đại gian tế, phục vụ kẻ địch. Cho đến ngày nay, món  bánh “giò cháo quẩy” (Yau ja gwai, Du tạc quỷ, nghĩa là quỷ sứ bị bỏ vạc dầu)  của người Hoa được làm bằng bột chiên trong dầu, luôn luôn làm từng cặp dính  nhau, đó là tượng trưng cho vợ chồng Tần Cối bị trói với nhau và ném vào vạc dầu  hành tội.
Sau  khi Tống Cao Tông mất, Nhạc Phi mới được giải oan, người ta đem hài cốt Nhạc Phi chôn cất trên đồi bên bờ Tây Hồ tại Hàng Châu, phong cảnh rất đẹp. Về sau lại  dựng Nhạc Miếu ở phía đông ngôi mộ, tượng Nhạc Phi trong bộ nhung giáp ngồi ở chính giữa, phía trên có một bức hoành phi với bốn chữ “Hoàn ngã sơn hà” (Lấy lại giang sơn của ta) do chính bút tích của Nhạc Phi. xinsrc_1121002241426978309312
Tượng Tần Cối được đúc  bằng gang, cùng vợ là Vương Thị bị còng tay quỳ trước mộ để người đi qua nhổ  nước bọt vào mặt. Trước mộ Nhạc Phi có hai vế câu  đối:
Thanh sơn hữu hạnh mai trung cốt
Bạch thiết vô cô chú nịnh thần

青山有幸埋忠骨,白鐵無辜鑄佞臣.

(Núi  xanh may mắn được làm nơi chôn cất xương cốt bậc trung liệt. 
Sắt trắng uổng thay bị đúc làm tượng kẻ nịnh thần)
Một  người họ Tần, sau triều Tống đến thăm mộ Nhạc Phi, làm hai câu  đối:
Nhân tòng Tống hậu hãn danh Cối
Ngã  đáo phần tiền, hối tính Tần.

 人從宋後名桧,我到墳前愧姓秦.

(Từ  sau đời Tống, ít ai tên là Cối. 
Ta đến trước mộ, tự thẹn mình mang họ Tần)
Sau  khi Nhạc Phi chết và các tướng giỏi Hàn Thế Trung, Dương Kỳ Trung, Lưu Kỳ, Trương Tuấn ..vv.. đã bị Tần Cối cách chức, Nam Tống bị Kim đô hộ dưới hình thức một xứ tự trị, các vua Nam Tống phải gọi vua Kim bằng thúc phụ (chú) và hàng năm  phải tiến cống 10 vạn lạng bạc, 10 vạn tấm lụa. Vì Kim dân ít, không đủ người cai trị cả nước Trung Cộng nên không trực tiếp chiếm Nam Tống như đã chiếm Bắc Tống, cứ để như thế thu thuế thì dễ hơn.
Tình  trạng Kim cho Nam Tống “tự trị” như vậy kéo dài 120 năm, rồi cả Kim lẫn Tống đều suy trong khi Mông Cổ mạnh lên. Thiết Mộc Chân tức Thành Cát Tư Hãn đem quân  đánh chiếm cả Kim lẫn Tống, lập nên nhà Nguyên. Dân chúng Trung Cộng lại bị làm  nô lệ cho “chủ mới”.
3.  Kết luận của “Những chuyện bên lề”.
Thưa  quý bạn, ngày 1-5-2014, Trung Cộng đưa giàn khoan Hải Dương- 981 đến hạ đặt tại  thềm lục địa Việt Nam. Các nhà khoa học Việt Nam cho biết, vùng này không có dầu  hoặc có rất ít không đáng kể, Trung Cộng cũng biết như thế nhưng đây là một “cục  gạch” do chúng đặt “bước đầu” trên thềm lục địa Việt Nam để sẽ chiếm hết lãnh hải VN theo đường lưỡi bò chúng đã tự ý vạch ra. Sau khi chiếm biển, chúng sẽ  chiếm tới đất, biến Việt Nam thành một tỉnh tự trị của chúng và đặt tên là Âu Lạc (cái tên này đã có từ đời An Dương Vương Thục Phán, tức thế kỷ thứ 3 trước  Tây lịch).
Dân  tộc Việt Nam có truyền thống bất khuất, không chịu  làm nô lệ. Nhưng có hai vấn đề, thứ nhất là nước nào cũng vậy, luôn luôn có  những “ông lớn” Tần Cối đầy tham vọng, tự hiến mình làm tay sai cho giặc; thứ  hai là TC rất mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự so với Việt Nam, ta khó đánh lại  được với chúng.
Mỹ  sẽ giúp thôi với một vài điều kiện do Mỹ đưa ra như về nhân quyền hoặc thể chế chẳng hạn. Đây là cuộc đấu lớn giữa phe Nhạc Phi và phe Tần Cối trong nội bộ nước VN. Nhạc Phi có thế mạnh của Nhạc Phi nhưng Tần Cối cũng có thế mạnh của  Tần Cối, chưa bên nào chịu thua bên nào. Dù muốn dù không, bắt buộc Mỹ phải giúp  phe Nhạc Phi để giữ VN, bởi vì nếu TC chiếm được VN sẽ ảnh hưởng tới các nước  Đông Nam Á khác, và khi ấy, TC sẽ sẵn sàng ném ra từ 20 tới 30 tỷ đô la để đào  con kênh Kra dài 100 km tại Thái Lan, ăn thông giữa vịnh Thái Lan tức Thái Bình  Dương với Ấn Độ Dương.
Tất  cả các tầu bè sẽ đi lại qua con kênh này, mỗi ngày khoảng chừng 400 chiếc và…  nộp thuế cho TC thay vì đi xa hơn 1000 km qua vịnh Malacca đầy hải tặc như hiện  nay. 20 hay 30 tỷ đô la đối với TC không phải chuyện lớn. Mỹ đã vô hiệu hoá được  anh em Thaksin Shinawatra, không để họ bắt tay cho phép TC đào con kênh đó ngay  từ bây giờ thì trong tương lai, cũng phải đề phòng nếu “lỡ” sơ xẩy, để TC chiếm  được VN chứ. Giữa hai siêu cường Mỹ và TC, anh nào cũng muốn đào con kênh Kra và  đó chính là lý do khiến Mỹ phải giúp VN.
Đoàn  Dự






No comments:

Post a Comment