6/22/23

4 PHONG VỊ BÁNH BÁ TRẠNG, MÓN ĂN NGÀY TẾT ĐOAN NGỌ CỦA NGƯỜI HOA CHỢ LỚN

Bánh ú bá trạng là loại bánh nổi tiếng của người Hoa ở Chợ Lớn. Loại bánh này chỉ được gói bán vào dịp Tết Đoan Ngọ hàng năm. Ý nghĩa của loại bánh này cũng giống như món bánh ú tro của người Việt . Bánh bá trạng có nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau nhưng thường sẽ có hình tam giác tương tự như bánh ú tro và được gói bằng lá tre.


Bánh ú bá trạng - tinh hoa ẩm thực người Hoa vào dịp Tết Đoan Ngọ. Nhưng không phải cùng khẩu vị đâu nhé, họ sẽ chia ra theo từng vùng địa lý để chiếc bánh đúng với xực phàn của mình.

Có thể khác nhau về hình dạng nhưng bánh ú bá trạng đều được làm từ nếp dẻo và đậu phộng bên ngoài, trong nhân có trứng muối, đậu xanh, hạt điều, thịt heo và một số nguyên liệu khác.

Nhân bánh ú bá trạng rất đa dạng và ngày càng được biến tấu với nhiều nguyên liệu khác nhau tùy theo sở thích.

Vỏ ngoài của bánh sẽ là nếp và đậu được tuyển chọn từng hạt căng tròn. Nếp và đậu đều được ngâm qua một đêm cùng với các vị thảo dược cho ngấm và mềm trước khi làm bánh. Khi ăn, ngoài vị bùi của đậu bạn còn cảm nhận được vị mặn của thuốc bắc và mùi thơm thảo dược.

Người Hoa ở Chợ Lớn - Sài Gòn sẽ thường ăn bánh bá trạng theo khẩu vị của vùng: Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam, Phước Kiến, Nyonya, Kee.

Khẩu vị bánh bá trạng Quảng Đông



Bánh bá trạng của người gốc Hoa Quảng Đông ở Chợ Lớn nguyên liệu thường có đậu xanh cả hạt hoặc đậu xanh nghiền. Cách gói thường là dạng gói dài ít hình chóp nón như bánh ú.

Phần nhân bao gồm nếp (nêm muối, dầu tỏi), mỡ heo, thịt nạc, đậu xanh, lạp xưởng. Hương vị của bánh này thơm ngon và nếp tơi không dính. Bánh bá trạng của người Quảng Đông theo truyền thống chiếc bánh được gói đều 5 góc. Nhưng người gốc Quảng ở Chợ Lớn bây giờ họ thường gói gần giống hình vuông theo kiểu bánh chưng của người Việt.

Bánh bá trạng Phước Kiến


Bánh bá trạng của người Phước Kiến nhân và bánh có màu thẫm do ngũ vị hương, nước tương. Bánh có vị thơm ngon đậm đà.

Bánh bá trạng của người Phước Kiến thường có thêm bào ngư. Tất cả từ nhân đến nếp đều được xào lên trước khi luộc, hấp bánh.

Phần nhân bao gồm: Nếp rang sơ với ngũ vị hương và nước tương, thịt bụng heo, hạt dẻ, lòng đỏ trứng muối, tôm khô, không có đậu xanh và đậu phộng như bánh của người Quảng Đông. Hương vị của bánh bá trạng Phước Kiến thơm ngon riêng biệt, vị ngọt của nấm, hạt, cùng vị thơm của ngũ vị hương, nước tương.

Bánh bá trạng Tiều Châu


Đặc trưng của bánh bá trạng người Tiều là nhân bánh có cả mặn, ngọt hòa vào nhau. Bánh ú của người Tiều Châu và Phước Kiến thường được gói theo hình dạng 4 góc.

Nhân bao gồm: Nếp, nấm đông cô, thịt bụng, tôm khô, đậu đỏ hoặc hạt sen, mỡ chài, khoai môn. Hương vị bánh thơm ngon do sự pha trộn giữa nhân mặn, ngọt khiến bánh mềm và bùi hơn.

Bánh bá trạng Hải Nam


Bánh bá trạng Hải Nam với đặc trưng bề ngoài là loại bánh to nhất trong các loại bánh bá trạng.

Nhân bánh bao gồm: Nếp xào với tiêu đen, nước tương, thịt bụng, mỡ, hạt dẻ, nấm. Mỗi vùng có đặc điểm về văn hóa cũng như ẩm thực khác nhau nên cách gói bánh cũng khác nhau, nhưng tựu chung lại nguyên liệu chính vẫn là nếp, nấm đông cô, thịt heo hoặc mỡ heo.
Hương vị của bánh bá trạng Hải Nam thơm, ngọt hơn khi dùng với đường cọ.

Ở TP.HCM, nếu bạn muốn ăn bánh bá trạng size nhỏ làm nóng sẵn thì có thể ghé các cửa hàng bánh của người Hoa trên các con đường: 575 Nguyễn Trãi, Q.5 với hương vị Phước Kiến, 1133/44A đường Ba Tháng Hai, Q.11 theo kiểu truyền thống Triều Châu, NH Dim Tu Tac, NH Ngân Đình, NH Li Bai - theo phong vị Quảng Đông...

Ảnh: Quang Minh, Đại Phát, Tatlerasia
Theo: Thời Trang Trẻ
Nguồn :  Blog Lưu Khâm Hưng


Tài Liệu đọc thêm: Bánh Ú
Video Clip: Bánh Bá Trạng

Ca dao dân gian:
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc bán bông,
Tháng một, tháng chạp nên công hoàn toàn.

6/21/23

Giai Thoại văn Chương : Tết Đoan Ngọ

Cũng Tại Cái Ông KHUẤT NGUYÊN của nước Sở!

    Mùng 5 tháng 5 là TIẾT ĐOAN NGỌ 端午節, theo Ngũ hành Bát quái, vì số 5 thuộc dương, nên Tiết Đoan Ngọ còn gọi là Tiết ĐOAN DƯƠNG 端陽. ĐOAN: là Đầu mối, là mở đầu; NGỌ: là giờ Ngọ, là giữa trưa; còn DƯƠNG là mặt trời, là khí dương, ĐOAN DƯƠNG có nghĩa là bắt đầu lúc khí dương đang thịnh. Còn ĐOAN NGỌ là bắt đầu lúc giữa trưa. Theo truyền thuyết Trung Hoa...

     KHUẤT NGUYÊN 屈原 (340-278 TCN) : Vào cuối thời Chiến Quốc, có một vị đại thần nước Sở là Khuất Nguyên. Ông chẳng những là vị trung thần của nước Sở mà còn là nhà thơ, nhà văn hoá nổi tiếng của Trung Hoa. Ông là tác giả hai bài thơ bất hủ là LY TAO 離騷 và SỞ TỪ 楚辭, nổi tiếng trong văn hóa Trung Hoa cổ đại, thể hiện tâm trạng buồn vì đất nước suy vong. Do can ngăn Sở Hoài Vương không được, lại bị gian thần hãm hại, ông đã uất ức gieo mình xuống sông Mịch La tự trầm ngày mùng 5 tháng 5. Dân chúng nơi đó đã mang thuyền đến giữa dòng sông để cố gắng cứu vớt nhưng không thành. Để cho các loại cá và linh hồn của các yêu ma quỷ quái không lại gần được thi thể của ông họ đã đánh trống và vẩy nước bằng các mái chèo của họ. Sau đó để tưởng nhớ, tiếc thương cho một người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày mùng 5 tháng 5, dân Trung Hoa xưa lại làm bánh ú gói nhân thịt mỡ, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống để cúng Khuất Nguyên. Do đó, hình thành hai tập tục trong ngày lễ Đoan Ngọ cho đến hiên nay là : Đua thuyền rồng và Ăn bánh ú.


    Trong văn học, tác phẩm LY TAO của Khuất Nguyên hình thành những từ như : Tao Nhân Mặc Khách, Tao Đàn ... Trong thơ ca Trung Hoa còn ghi nhận SỞ TỪ là nguồn gốc của thơ Thất ngôn sau nầy. Sau đây là hai bài thơ Thất ngôn Tứ tuyệt có liên quan đến Tết Đoan Ngọ ở đời Đường. 
 
        同州端午             ĐỒNG CHÂU ĐOAN NGỌ

     鶴髮垂肩尺許長,    Hạc phát thùy kiên xích hứa trường,
     離家三十五端陽。    Ly gia tam thập ngũ Đoan Dương.
     兒童見說深驚訝,    Nhi đồng kiến thuyết thâm kinh nhạ,
     卻問何方是故鄉。    Khước vấn hà phương thị cố hương ?
             殷堯藩                                         Ân Nghiêu Phồn


Có nghĩa :
              Tóc bạc qúa vai cả thước thường,
              Xa nhà ba mươi lăm Đoan Dương.
              Trẻ con nghe nói đều kinh ngạc,
              Cùng hỏi nơi nào là cố hương ?
 
        Tết giữa năm cũng khiến cho người lữ khách nhớ nhà như là Tết Nguyên Đán vậy ! Đọc bài thơ trên làm cho ta lại nhớ đến bài "Hồi Hương Ngẫu Thư" của Hạ Tri Chương... Ta đọc thêm một bài thơ về Đoan Ngọ nữa nhé !
 
         端午                  ĐOAN NGỌ

     節分端午自誰言,    Tiết phân Đoan Ngọ tự thùy ngôn,
     萬古傳聞為屈原。    Vạn cổ truyền văn vị Khuất Nguyên.
     堪笑楚江空渺渺,    Kham tiếu Sở giang không diểu diểu,
     不能洗得直臣冤。    Bất năng tẩy đắc trực thần oan !
                文秀                                                  Văn Tú

Có Nghĩa :
              Đoan Ngọ ai chia Tết tháng năm,
              Khuất Nguyên từ vạn cổ xa xăm.
              Nực cười sông Sở trôi trôi mãi...
              Rửa chẳng sạch oan đấng nghĩa thần !

      Sông Mịch La của nước Sở, nơi Khuất Nguyên nhảy xuống để tự trầm, mấy ngàn năm vẫn không thể rửa hết oan khiên cho đấng bề tôi trung nghĩa. Bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến một "Giai thoại văn chương Việt Nam thời vua Tự Đức", ông vua rất giỏi văn thơ của Việt nam ta ...
              
      Trong "Giai thoại văn chương Việt Nam" của Thái Bạch có kể về tài ứng đối của Đinh Nhật Thận như sau : Đinh Nhật Thận sinh năm Ất Hợi (1815) tại làng Thanh Lạo, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đỗ cử nhân khoa Đinh Dậu (1837), đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1838) được bổ làm Tri phủ. Ông thường giao du với Cao Bá Quát và Nguyễn Hàm Ninh. Sau Cao Bá Quát dấy binh chống lại triều đình, Đinh Nhật Thận bị tình nghi, bắt giải về kinh giam lại, sau lại được thả ra. ("Quốc Triều Hương Khoa Lục" chép về Đinh Nhật Thận: “ Vì là bạn cũ của tên giặc Cao Bá Quát nên bị bắt giam, sau được thả”.


    Vì mến tài ông, vua Tự Đức lưu ông lại ở kinh đô để dạy cho con em trong hoàng tộc và cũng để dễ bề kiềm chế ông. Tục truyền khi ở kinh đô, một hôm Đinh Nhật Thận cùng các quan đại đại thần theo thuyền ngự đi ngoạn cảnh trên sông Hương. Nhân bàn luận về Nho giáo, ông nhắc đến câu: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” và cho đó là một câu chí lý. Nghe xong, vua Tự Đức phán :
     - Vậy trẫm truyền cho khanh nhảy xuống sông này chết đi, khanh có dám làm không ?
     Nghe vua phán vậy, các quan trên thuyền đều lo sợ thay cho ông, vì không nhảy xuống sông thì không trung với vua, mà nhảy xuống thì chết là cái chắc. Ấy vậy mà ông vẫn bình tĩnh lạy nhà vua ba lạy xong đâu vào đấy, rồi lao mình nhảy tỏm xuống dòng sông. Mọi người đều bàng hoàng, tưởng đây là nơi an nghỉ ngàn thu của ông rồi. Nhưng chỉ trong giây lát, ông ngoi đầu lên khỏi mặt nước và vói tay bám vào mạn thuyền ngự. Vua Tự Đức hỏi: 
    - Sao khanh không ở dưới đó luôn mà còn trở lên đây chi vậy ?
      Ông bình tĩnh đáp rằng :
    - Chỉ tại cái ông Khuất Nguyên của nước Sở. Nhà vua ngạc nhiên hỏi :
    - Tại sao lại Khuất Nguyên ?. Ông chậm rãi kể :
    - Thần định ở luôn dưới đó, nhưng khi vừa xuống đến đáy sông thì thần gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần rằng : 

             Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn,     我逢黯主含冤忍,
             Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà ?          爾遇明君溺死何?

   Có nghĩa :
          Ta gặp phải chúa hắc ám, nên phải chịu oan đã đành,
          Còn ngươi gặp được minh quân sao lại phải nhảy xuống đây trầm mình tự tử vậy ?

  ... hạ thần nghe ông ấy mắng quá đúng cho nên phải ngoi lên đây để tâu cùng bệ hạ rõ!

      Vua Tự Đức cả cười, sai thị vệ kéo ông lên thuyền ngự, lấy quần áo cho ông thay rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng cho cái tài ứng đối mẫn tiệp, mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt.


Giai thoại trên nghe thì rất lý thú, nhưng chỉ để kể cho nhau nghe chơi khi trà dư tửu hậu mà thôi. Nay nhân Tết Đoan Ngọ, ở nơi xứ lạ quê người nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn, nên kể hầu chư vị cho vui với một ngày Lễ chỉ có ở vùng của các nước Đông Nam Châu Á mà thôi.

Đỗ Chiêu Đức 

6/20/23

CỐ TIN CHUYỆN KHÔNG THỂ TIN NỔI - Một Nụ Cười

 


Vào dịp cuối năm 1984, một buổi họp mặt các cựu tù nhân chính trị được tổ chức ở San Diego.

Xướng ngôn viên của buổi lễ cho biết :
“Khi tôi xướng tên trại nào, nếu quý anh là trại viên của trại đó, xin đứng dậy và tự giới thiệu tên của mình để các anh em khác được biết”.

Nhiều trại cải tạo ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Báy”, “Vĩnh Phú”, “Thanh Cẩm”, “Lý Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v Trại nào cũng có năm bảy anh đứng dậy và giới thiệu tên của mình.

Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và có thêm bốn anh nữa , trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của mình là Lê Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo…sao tên nghe quen quá, hình như anh ấy ở chung đội với tôi thì phải. Khi phần giới thiệu các anh em trại Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nhìn kỹ anh ấy. Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi trìu mến.
Tôi thì thầm bên tai Đạo
“Em còn nhớ anh không? ”
Đạo trả lời ngay:
“Anh Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh. Em trông chờ ngày này đã lâu lắm rồi!”

Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một Thiếu Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường, không biết làm Trưởng G hay H gì đó..mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc.Anh còn quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi rất quý mến anh. Đạo chưa lập gia đình. Anh chỉ còn một mẹ già đang sống ở Vĩnh long. Vì vậy, từ ngày bị đưa ra Bắc, Đạo chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân từ trong Nam gởi cho anh. Anh sống hiền hòa, vui tính, nên anh em trong đội ai cũng mến anh. Đạo xem tôi như một người anh trong gia đình.

Anh tâm sự với tôi :
“Đời em chẳng còn gì nữa, chỉ có một người mẹ, mà từ ngày bị đày ra Bắc, đã trên 5 năm rồi em chẳng có tin tức gì của mẹ em. Không biết bà còn sống hay đã ra người thiên cổ”

Đạo nắm tay tôi và cảm động nói:
“Giờ đây em chỉ có anh là người duy nhất thương mến em, cho em chút an ủi để sống qua ngày!”
Như có một động lực nào thúc đẩy, Đạo tâm sự với tôi :
“Anh ạ, mình phải sống chứ anh, mà muốn sống, dù là cuộc sống thấp nhất, cũng phải có một ước mơ gì đó để mà mộng tưởng, để tiếp sức cho mình. Các anh em ở đây , dĩ nhiên ai cũng mơ ước sớm được trở về với gia đình. Ngoài xã hội thì kẻ này mơ trúng số, kẻ kia mơ nhà cửa , ruộng vườn v.v. Nhưng sống nơi địa ngục trần gian này, anh em mình mơ ước điều gì đây?

Tất cả đều nằm ngoài tầm tay của mình. Em chợt nhớ lại một câu chuyện cổ tích của Pháp, tựa đề là “Un Peu De Soleil Dans L’eau Froide” kể lại câu chuyện một ông lão nghèo khổ, sống cô đơn một mình trong căn lều nhỏ bé, trống trước, trống sau. Bổng một bà tiên hiện ra và cho ông một điều ước. Bà tiên cứ nghĩ, thế nào ông lão nghèo nàn này cũng sẽ ao ước có một căn nhà, hoặc ao ước có nhiều tiền bạc..v..v. Nhưng bà tiên vô cùng ngạc nhiên, khi ông lão nghèo khổ ấy chỉ xin “Một Nụ Cười”

Đạo như chợt tỉnh, ông lão bất hạnh trong câu chuyện cổ tích, đã chỉ cho Đạo một mơ ước, mà dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể đạt được, đó là một nụ cười. Không cần phải là nụ cười của giai nhân, mà chỉ cần một nụ cười thân ái của ai đó, chân thành trao cho anh, vì yêu mến anh, có thế thôi.

Cuộc sống tù đày cứ kéo dài triền miên trong đói khổ, vô vọng. Nhưng khi nghĩ đến một nụ cười, Đạo thấy tâm hồn mình có chút an ủi, nhẹ nhàng. Hằng ngày , Đạo ước mơ nhận được nụ cười. Đêm đêm Đạo cũng ước mong trong giấc mơ, anh sẽ gặp được một nụ cười. Nhưng buồn thay, những giấc mơ đến với Đạo chỉ là những cơn ác mộng mà thôi.
Nhưng thật kỳ diệu, từ ngày Đạo ôm ấp ước mơ có được một nụ cười, anh thấy cuộc đời của anh có chút ý nghĩa, vì dù sao anh cũng có một ước mơ, để mà thương, mà nhớ, mà mong chờ.

Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua cổng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nhìn lướt qua, Đạo chợt thấy một nữ cán bộ nhìn anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt mình, anh nghĩ rằng có thể cô ta cười vu vơ gì đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nhìn một lần nữa, vẫn thấy cô ta nhìn anh và mỉm cười.

Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh. Vì vậy khi đi lao động, Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của mình, có một chút gì thi vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối tình mắt nhìn mắt và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.

Không những Đạo nhớ đến nụ cười, anh còn nhớ đến đôi mắt như muốn nói với anh muôn ngàn lời, anh nhớ đến người con gái ấy. Ban đầu anh nghĩ rằng cứ giã bộ vui vẻ cho qua ngày. Nhưng trong tâm trí anh, luôn luôn nhớ đến cô gái ấy và anh nhận ra rằng anh đã yêu cô ta. Đạo nhớ lại ngày xưa Elvis Presley đã hát một bài hát nỗi tiếng là bài Don’t Gamble With Love nay thật đúng như trường hợp của Đạo. Bây giờ Đạo không còncho rằng lao động là khổ sai nữa, mà anh trông chờ mỗi buổi sáng được đi ngang qua cỗng cơ quan, để đón nhận nụ cười của người nữ cán bộ.

Một buổi chiều khi đi lao động về,nghe các anh em Công Giáo tập hát bài “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, Đạo mới biết, đêm nay là đêm Noel. Khi cửa phòng giam đóng lại, anh em Công Giáo vội vã thiết trí một ngôi sao Giáng Sinh và hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh” ở vách tường cuối phòng. Họ nắm tay nhau ca hát, đọc kinh, cầu nguyện. Đạo nằm mơ màng, lơ đãng nhìn về cuối phòng, chung quanh hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh”, Đạo tưởng tượng như có những bóng đèn màu chớp sáng. Anh mơ hồ nghe như có tiếng nhạc bài Silent Night dịu dàng thoảng đi trong gió…Anh thiếp đi trong giấc ngủ yên lành.
Vào một buổi sáng chúa nhật, chúng tôi được gọi ra sân để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường thì 80 đến 90 phần trăm anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo thì chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng ngạc nhiên và mừng cho Đạo. Anh nhận một gói quà bình thường, nhưng cách gói quà , khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sững sốt nhận gói quà, đem về phòng, cẩn thận mở ra. Một mãnh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc vội hàng chữ :
“Trìu mến gửi anh Đạo
– Em : Kim Chi”.
Với mấy chữ ngắn gọn đó, Đạo biết ai gởi cho anh món quà tình nghĩa này. Anh ôm gói quà vào lòng. Anh không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh phúc mà từ lâu anh không hề có.

Trại Nam hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào buổi chiều, sau khi ăn cơm xong , chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nhìn người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài hàng rào, rồi thình lình quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy gởi gì đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi gì cho anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để xem cô Chi đã gởi gì cho anh: đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm. Đối với tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, thì gói xôi gà này là cao lương mỹ vị bậc nhất trên thế gian này. Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả 32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.

Đạo thấy thương Chi quá, vì yêu anh, nàng đã gan liều làm những việc như vậy, vì nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng thương Chi khi nghĩ đến tương lai : một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát ngụy..thì đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài !
Vào một sáng chúa nhật, một anh trật tự đến phòng chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, vì từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho Đạo, nói gì đến chuyện thăm nuôi.Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà gì của thân nhân đem đến.

Nhưng chúng tôi chờ mãi…đã ba , bốn giờ chiều rồi, vẫn chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng 15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà , Đạo ra nhà thăm nuôi đã hơn bốn, năm tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện gì đã xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không còn biết tin tức gì về Đạo nữa.
Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:

“ Anh nhớ không, ngày chúa nhật hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng ngạc nhiên vì em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em.
Bước vào nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông Thượng Tá công an ngồi ở đó.
Chi vội vã đứng lên giới thiệu :
“Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái Bình, em nhờ cậu ấy đến thăm anh.”
Đạo bối rối nhìn Chi, nhìn ánh mắt, nụ cười của Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo quân hàm Thiếu Úy.
Chi biết Đạo ngỡ ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay :
“Anh đừng lo, em bảo anh làm gì thì cứ làm theo, chớ có hỏi han gì hết”.

Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi, nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an đã để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác miền Nam. Tôi như trên trời rớt xuống, nhưng không có thì giờ để hỏi Chi, việc gì đang xảy đến cho tôi. Khi tôi đã mặc xong bộ đồ công an, Chi nhìn tôi mỉm cươì , rồi kéo tôi ra ngỏ, bảo tôi leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở đó....,và chạy ra ga xe lửa Phủ Lý.

Chi bảo tôi cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe lửa đi về Sàigòn. Khi đưa tôi lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn:
“Không nên về nhà, cũng đừng liên lạc với mẹ, mà tìm một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú ngụ vài ngày, rồi tìm đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngã Campuchia”.
Chi đưa cho tôi một gói giấy và nói:
“Đây là ít tiền để anh tiêu dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”.
Chi cầm tay tôi và chân thành nói :
“Em là vợ của anh, anh đừng quên em!”.
Tôi ôm Chi vào lòng, nước mắt ràn rụa. Chi cũng khóc trên vai tôi. Xe lửa từ từ lăn bánh, hình ảnh Chi cô đơn đứng một mình trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần.. Tôi thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt. Trong tim tôi, mối tình mà Chi dành cho tôi quá sâu đậm, đã chiếm trọn cuộc đời tôi.
Tôi vỗ vỗ vào trái tim của mình :
“Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn đáp nghĩa cho Chi nghe chưa”
Khi xe lửa dừng lại ở ga Bình triệu, Sàigòn, tôi không về nhà tôi ở Vĩnh Long, mà đến nhà dì tôi ở Cần Thơ xin trú ngụ.
Chồng của dì tôi là một Đại úy Công Binh Việt nam Cộng Hòa, trước năm 1975, ông phục vụ ở Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến tạo, mới được trả tự do. Gia đình dì, dượng tôi đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. Dì, dượng tôi vui vẻ chấp thuận cho tôi cùng đi theo. Tôi đã đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho dì tôi để bà tiêu dùng.

Mở gói ra xem, dì bảo tôi :
“Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?”
Tôi trả lời ngay :
“Của vợ con cho đó!”

Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cữa biển Đại Ngãi, vì tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu của chúng tôi đã đến hải phận Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi tôi rất ít. Tôi nghĩ là họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi tôi là làm Trưởng G hay Trưởng H, tôi trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra một tấm ảnh, anh nhìn tôi rồi gật đầu.Thế là tôi vượt qua cuộc thanh lọc. Mấy tháng sau, họ chuyển tôi qua trại Pulau Bidong ở Mã Lai, để chờ chuyến bay đi định cư ở Mỹ.

Tôi mau chóng gởi thư cho má tôi ở Vĩnh Long, báo tin tôi đã bình yên đến trại Pulau Bidong ở Mã Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, tôi vui mừng nhận được thư hồi âm của má tôi, và một bất ngờ thú vị đến với tôi là có cả thư của Chi nữa!
Má tôi đã viết cho tôi :
“Đạo con, má rất vui mừng nhận được tin con đã đến nơi bình yên. Má cho con biết là Chi đang ở đây với má. Chi đã kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con”
Đạo run run mở thư của Chi ra đọc:
“ Anh Đạo yêu quí của em, nghe anh đã đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an. Em đã về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm ! “


Với lời lẽ chân tình, mộc mạc, tôi uống từng chữ, từng lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, tôi áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.

Năm 1982, tôi được đi định cư ở Mỹ. Khi có thẻ xanh, tôi đã làm hồ sơ bảo lãnh Chi. Trong thời gian ở với má tôi ở Vĩnh Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lãnh ở đâu mà nàng ra Thái Bình, nhờ người cậu Thượng Tá Công An của nàng, làm một giấy hôn thú của tôi và Chi, có đầy đủ chữ ký và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương.

Năm 1987 khi tôi được nhập quốc tịch Mỹ, tôi đã bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Chi đã nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lãnh vợ tương đối dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.
Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, tôi và vài bạn bè thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Tôi ôm Chi vào lòng, vì quá cảm động, tôi chỉ thốt lên được một tiếng “Em!” Chi cũng vậy, nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em”, nhưng đã gói trọn cuộc tình mà chúng tôi nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất !
Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh anh, và giới thiệu với tôi : “Thưa anh, đây là Chi, vợ em” Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ cười đã đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.

Tôi đã được nghe, được biết nhiều mối tình ly kỳ, éo le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối tình thật lãng mạn, mà người con gái đã dám hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng mình cho người yêu, thì không thể không nói đến mối tình của nàng Kim Chi và chàng Trung Đạo.

Wednesday, January 6, 2021
MỘT NỤ CƯỜI (BỬU UYỂN )

Nghe đọc truyện : Một Nụ Cười

6/18/23

Phiếm Luận : NHẤT là MỘT

 

 NHẤT là MỘT, Một là Nhất. NHẤT là chữ thuộc dạng Chỉ Sự đơn giản nhất, dễ viết và dễ nhớ nhất trong CHỮ NHO... DỄ HỌC. Có diễn tiến chữ viết như sau :

Ta thấy :
          Dù cho có diễn biến như thế nào thì chữ NHẤT vẫn cứ là một phệt dài, một đoạn thẳng, một nét ngang. Thế nhưng, ông bà ta lại hay nói :"Cái thằng đó nó dốt đến không biết chữ NHẤT là MỘT". Truy nguyên câu nói trên thì ta mới biết rằng : À, thì ra chữ NHẤT tuy dễ viết, dễ nhớ, dễ thuộc, chứ trong ngôn ngữ sử dụng hằng ngày, chữ NHẤT không đơn giản tí nào cả ! Vì NÓ mang đến 11 cách nói và sử dụng khác nhau như sau đây :

1. NHẤT 一 : là số đếm, đơn vị nhỏ nhất của số nguyên, có dị bản phồn thể để ghi những con số quan trong cho không thể sửa đổi được như sau : 壹.
2. NHẤT 一 : là Thuần, là Chuyên. Như "Nhất Tâm Nhất Ý 一心一意" là Một lòng một dạ,là Thuần Nhất 純一, là Chuyên Nhất 專一.
3. NHẤT 一 : là Cả, là Đầy. Như "Nhất Sinh 一生" là Cả cuộc đời; "Nhất Thế 一世" là Cả đời;
"Nhất Hồ Thủy 一湖水 là Một Hồ nước, là Đầy cả một hồ nước.
4. NHẤT 一 : là Giống nhau. Như "Nhất Dạng 一樣" là Một thứ, một kiểu;
"Màu sắc Bất Nhất 不一" là Màu sắc không giống nhau.
5. NHẤT 一 : là Ngoài Ra. Như "Phi cơ Nhất Danh Thiết Điểu 飛機一名鐵鳥" là Máy bay .Ngoài ra còn có tên là Chim sắt.
6. NHẤT 一 : Chỉ các bộ phận kết nối lại thành một tổng thể. Như "Thống Nhất 統一,
Hợp Nhất 合一, Đồng Nhất 同一".
7. NHẤT 一 : là Hoặc...Hoặc... Như "Nhất sinh Nhất Tử 一生一死" có nghĩa "Hoặc là Sống hoặc là Chết"; "Nhất Thắng Nhất Phụ 一勝一負" có nghĩa : Hoặc là ăn hoặc là thua.
8. NHẤT 一 : là Cho (đến). Như "Nhất chí vu thử 一至于此" là "Cho đến thế nầy đây; Nếu phía sau thêm dấu hỏi(?) thì có nghĩa : Cho đến thế nầy sao ?
9. NHẤT 一 : là Một lần, Một cái...là Thăm dò. Như "Toán Nhất Toán 算一算" là "Tính thử một cái xem sao"; "Thí Nhất Thí 試一試" là "Thử một cái xem sao"...
10. NHẤT 一 : là Ký âm của một "nốt" nhạc. Theo nhạc lý Trung Hoa, Ngày xưa là âm "Si", ngày nay là âm "Đô".
11. NHẤT 一 : là Mới, là Lần Đầu. Như "Nhất Kiến Như Cố 一見如故" là "Lần đầu gặp nhau mà như đã quen nhau lâu rồi; "Nhất Kiến Khuynh Tâm 一見傾心" là "Mới gặp nhau thì đã phải lòng nhau liền".

Các bạn thấy sao ? Qua các nghĩa trên của chữ NHẤT, khiến cho câu nói "Dốt đến không biết chữ Nhất một" không còn là cách Nói Nhấn nữa, mà là một thực tế phải học hỏi. Nên chi quyển sách Huấn Mông Tam Tự Kinh 訓蒙三字經 ngày xưa, trong các bài đầu đã dạy ngay cho trẻ em chữ NHẤT và các số đếm :

一而十,十而百, NHẤT nhi thập, Thập nhi bách,
百而千,千而萬。 Bách nhi thiên, Thiên nhi vạn.
Có nghĩa :
Một rồi mười, Mười rồi trăm,
Trăm rồi ngàn, Ngàn rồi vạn.
* VẠN 萬 : Ta gọi là một Muôn = Mười ngàn.

NHẤT 一 là số mở đầu cho các số đếm căn bản từ Một đến Mười. Mời đọc bài thơ "Sơn Thôn Vịnh Hoài 山村咏懷" của Thiệu Ung 邵雍 đời Tống. Bài thơ nầy cũng được dùng để dạy cho các trẻ em ngày xưa như sau :

一去二三里, Nhất khứ nhị tam lý,
烟村四五家。 Yên thôn tứ ngũ gia.
亭台六七座, Đình đài lục thất tọa,
八九十枝花。 Bát cửu thập chi hoa.
Có nghĩa :
Một đi hai ba dặm,
Xóm nhỏ bốn năm nhà.
Đình đài sáu bảy cái,
Tám chín mười cành hoa !
Lục bát :
Một hai ba dặm đường làng,
Bốn năm nhà nhỏ mơ màng khói sương.
Đình đài sáu bảy bên đường,
Tám chín mười đóa hoa hương đầy đồng !

Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm


       Đọc bài thơ trên lại làm cho nhớ đến bài ca dao "Mười Thương" của ta :

               MỘT thương tóc xõa đuôi gà,
               Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
               Ba thương má lúm đồng tiền,
               Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.
               Năm thương cổ yếm đeo bùa,
               Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.
               Bảy thương nết ở khôn ngoan,
               Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
               Chín thương cô ở một mình,
               Mười thương con mắt hữu tình với ai.
        
      NHẤT 一 là Một, nhưng lại cũng có nghĩa là Bao Trùm tất cả như câu đối Tết mà ta thường đọc thấy trong các ngày xuân :

                一元復始,   NHẤT nguyên phục Thủy,
                萬象更新。   Vạn tượng canh tân.
Có nghĩa :
           Cả một bầu nguyên khí của trời đất trở lại lúc ban đầu, và...
           Muôn vạn hiện tượng đều thay da đổi thịt cho mới mẻ lại.

      NHẤT 一 là Một Giềng Mối như câu nói trong chương Lý Nhân của Luận Ngữ《論語. 里仁》: Tử Viết :"Sâm hồ, Ngô đạo NHẤT dĩ quán chi. 子曰:“参乎,吾道一以貫之" Có nghĩa : Khổng Tử dạy rằng : Sâm này, Đạo của ta chỉ có Một Giềng Mối mà bao gồm tất cả !". Do câu nói nầy mà cụ ĐÀO TRINH NHẤT, một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu của ta đã lấy hiệu là QUÁN CHI là vì thế. 

             
          
            NHẤT 一 là Một, NHẤT PHIẾN BĂNG TÂM 一片冰心 là một tấm lòng trong sáng như băng tuyết, như hai câu thơ nổi tiếng trong bài "Phù Dung Lâu Tống Tân Tiệm 芙蓉樓送辛漸" của Vương Xương Linh đời Đường :

               洛陽親友如相問,   Lạc Dương thân hữu như tương vấn,
               一片冰心在玉壺.    NHẤT PHIẾN BĂNG TÂM tại ngọc hồ.
 Có nghĩa :
               Bè bạn Lạc Dương như có hỏi,
               Bình ngọc tuyết băng một tấm lòng ! 

       Bài thơ trên còn là nguồn cảm hứng cho soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà soạn ra tuồng cải lương "Áo Cưới Trước Cổng Chùa", là chùa Phù Dung Tự 芙蓉寺 ở Kiên Giang với sư cô trụ trì đầu tiên là Xuân Tự. Câu thơ "NHẤT PHIẾN BĂNG TÂM tại ngọc hồ" được nhắc đi nhắc lại khi Xuân Tự bị nhốt vào trong cái lu. 

       NHẤT 一 là Một, Nhưng NHẤT NHẤT 一 一 không phải là "Một Một" mà có nghĩa là : Bất cứ cái gì đó, bất cứ việc gì đó. Ví dụ như : Trong công ty, NHẤT NHẤT đều phải do Giám đốc quyết định, chớ không được tự tiện làm ngang. 
       
        Chữ MỘT trong tiếng Nôm ta cũng thế, ngoài nghĩa là số 1 ra, MỘT còn được dùng để liệt kê. Như trong Truyện Kiều, khi biết Thúc Sinh chuộc Kiều từ lầu xanh về làm vợ lẻ, Thúc Ông đã "Sốt gan ông mới cáo qùy cửa công", và Quan phủ sau khi thẩm án đã "xử" rằng :
          
                  MỘT là, cứ phép gia hình,
                MỘT là, lại cứ lầu xanh phó về !

       MỘT LÀ chữ Nho là NHẤT VI 一為, như trong bài thơ "Dữ Sử Lang Trung khâm thính Hoàng Hạc Lâu thượng xuy địch 與史郎中欽聽黃鶴樓上吹笛" rất nổi tiếng của Thi Tiên Lý Bạch như sau :

                一為遷客去長沙,  NHẤT VI thuyên khách khứ Trường Sa,
                西望長安不見家。  Tây vọng Trường An bất kiến gia.
            黃鶴樓中吹玉笛,  Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch,
                江城五月落梅花。  Giang thành ngũ nguyệt Lạc Mai Hoa !
 Có nghĩa :
            MỘT LÀ bị biếm đến Trường Sa,
            Trông ngóng Trường An chẳng thấy nhà,
            Hoàng Hạc véo von vang sáo ngọc,
            Tháng năm còn thổi Lạc Mai Hoa !

      NHẤT còn có nghĩa là : HỄ...như trong thành ngữ "Nhất Kiến Chung Tình 一見鍾情". Có nghĩa : HỄ gặp một cái là chung tình liền; cũng có nghĩa là : HỄ vừa gặp mặt là yêu nhau ngay. Trong tiếng Việt ta gọi là "Tiếng sét ái tình", vì ta nói theo Tây là "Un coup de foudre", còn như nói theo Mỹ là "Love at first sight" là "Yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên !".

     NHẤT là HỄ... "Hễ mỗi lần lên trên hương đài là đài thắp hương để nhìn chiều xuống, là ta sẽ thấy ngay ánh nắng chiều như còn lưu luyến trên tàn cây đơn độc của xóm cát xa xa, và chẳng thấy được bóng dáng của nhà sư ra khỏi núi xanh, mà chỉ nghe có tiếng chuông chùa văng vẳng như để tiễn chân khách ra về... " Đó là nội dung của một bài thơ tứ tuyệt rất hay là "Sơn Trung Biệt Hữu 山中别友" của Cao Khải, một thi sĩ đời nhà Minh như sau :

               一上香台看落暉,    Nhất thướng hương đài khán lạc huy, 
               沙村孤树晚依依.    Sa thôn cô thọ vãn  y  y . 
               老僧不出青山寺,    Lão tăng bất xuất thanh sơn tự,
               祗有锺聲送客歸.    Chỉ hữu chung thinh tống khách quy.
Có nghĩa :
               Lên tận hương đài ngắm tịch dương,
               Cây trơ xóm cát nắng chiều vương.
               Sư ông nhập định không rời núi,
               Vẳng tiếng chuông đưa khách dặm trường !
   Lục bát :
               Nắng chiều lên tận hương đài,
               Xóm xa bóng ngã cho dài hoàng hôn.
               Sư ông nhập định thả hồn,
               Ngân nga chuông tiễn khách dồn bước chân.

        
                        

       Và trong bài "Hàm Dương Thành Đông Lâu 咸陽城東樓" của Hứa Hồn cũng mở đầu bằng hai câu thơ rất hay là :

              一上高城萬里愁, NHẤT THƯỚNG cao thành vạn lý sầu,
              蒹葭楊柳似汀洲, Kiêm hà dương liễu tự Thinh Châu, 
Có nghĩa :
              Vòi vọi thành cao vạn dặm sầu,
              Lau xanh liễu rũ ngỡ Thinh Châu.

     Bài thơ được Hứa Hồn 許渾 làm để nối theo âm vận hơi hám của bài Hoàng Hạc Lâu bất hủ của Thôi Hiệu với dư âm...

              黃鶴一去不復返, Hoàng hạc NHẤT KHỨ bất phục phản,
     là...
              Hạc Vàng MỘT ĐI không trở lại...
     "MỘT ĐI không trở lại" có nghĩa là : HỄ... đi rồi thì không trở lại bao giờ ! Câu thơ nầy lại làm cho ta nhớ đến câu :

               一醉解千愁    NHẤT TÚY giải thiên sầu
Có nghĩa :
              HỄ Say một cái là có thể giải tỏa được ngàn mối sầu ! 
     Chả trách, hễ có chuyện buồn, lo, sầu, não gì là người ta cứ đổ xô đi nhậu ! Ngày xưa, thì chỉ thấy cánh "nình ông" là bợm nhậu; còn ngày nay, do sự tiến hóa của xã hội, đòi hỏi nam nữ bình đẳng, nên có cả những tay bợm nhậu là cánh "nình bà" uống rượu cũng không thua cánh "nình ông" chút nào cả ! Viết đến đây lại làm cho tôi nhớ đến câu thiệu trọng nam khinh nữ của thời phong kiến là :

              一男曰有,    NHẤT nam viết hữu,
              十女曰無。    Thập nữ viết vô.
Có nghĩa :
        - Có MÔT đứa con trai là kể có MỘT đứa con; còn...
        - Có mười đứa con gái, thì kể là Không Có đứa con nào cả !
     Tại sao ?!
         Vì các ông bà xưa nghĩ rằng : Con gái lấy chồng sinh con sẽ mang họ của nhà chồng, nên dù cho có đến 10 đứa con gái cũng không có ai mang họ của cha để thừa tự và cúng tế ông bà tiên tổ. Ông bà ta còn phán một câu nghe rất đau lòng và bạc bẽo là :"Ối, thứ cái đồ con gái ăn cơm nguội ở nhà ngoài !. Có biết đâu rằng, ngày nay rất nhiều gia đình cha mẹ đều nhờ cậy vào con gái cả !

     NHẤT còn là Hạng Nhất, dùng để chỉ người nào đó, cái gì đó tốt, đẹp, giỏi, ngon... Hạng Nhất. Như con gà trên bàn nhậu là "Nhất phao câu, nhì đầu cánh" vậy ! Trong ca dao dân gian ta thì có các câu sau đây :

                        Đẹp NHẤT con gái làng Tranh,
                   Chua ngoa làng Nhót, ba vành kẻ Ôm.
    
     Nói đến núi non thì :

                         NHẤT cao là núi Ba Vì,
                   Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.
           

     Còn nói về thanh lịch thì :

                          NHẤT cao là núi Ba Vì,
                 NHẤT lịch NHẤT sắc kinh kỳ Thăng Long.

     Để tỏ rõ chí lớn phiêu bạt giang hồ thì :

                       NHẤT cao là núi Chóp Chài,
                   NHẤT rộng là bể, NHẤT dài là sông.
                      NHẤT giang hồ là kẻ đàn ông,
                 Bồng bềnh một chiếc thuyền giong hải hà !

     Còn muốn tỏ tình với cô gái xóm đông thì kể lể :

                        NHẤT chờ, nhì đợi, tam mong,
             Tứ thương, ngũ nhớ, lục thất bát mong, cửu thập tìm !

     "Ga-lăng" hơn, ve vãn cả những nàng góa phụ trẻ trung :

                         Cô kia khăn trắng tang ai ?
                  NHẤT tang cha mẹ, thứ hai tang chồng.
                      Tang chồng thì vứt khăn đi,
                  Tang cha tang mẹ ta thì tang chung !

 ... Và thực tế hơn trong cuộc sống hằng ngày với lời khuyên chí thành :

                     NHẤT nghệ tinh, NHẤT thân vinh, 一藝精,一身榮,
                    Ai ơi phải qúy nghề mình mới nên.
                     Hoặc buôn bán hoặc thợ thuyền,
                   Nghề gì cũng sẽ làm nên sang giàu !

                      



      Ta thấy câu trên có 2 từ NHẤT với nghĩa rất khác nhau :
         - NHẤT NGHỆ 一藝 là Một nghề, chỉ BẤT CỨ một nghề nào đó.
         - NHẤT THÂN 一身 là Một thân, chỉ SUỐT CẢ một đời của thân mình. Tương đương với từ NHẤT SINH 一生 là Suốt cả cuộc sống của mình, là Suốt Đời, và NHẤT THẾ 一世 là Một Đời, chỉ Cả đời sống của mình. Ngoài ra, ta còn có từ :
        - NHẤT THÌ 一時 là Một thuở, chỉ trong một lúc nào đó. Ta có thành ngữ THIÊN TẢI NHẤT THÌ 千載一時 là Ngàn năm một thuở, như lời nói của Thúy Kiều đã nói với sư Giác Duyên khuyên bà hãy nán lại chơi để hàn huyên tâm sự :

                     Nàng rằng THIÊN TẢI NHẤT THÌ,
                    Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
                     Rồi đây bèo hợp mây tan,
                  Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu !?

      Ngoài ra, "NHẤT THÌ... NHẤT THÌ" còn dùng để chỉ :(cái nầy) MỘT LÚC...(cái kia) MỘT LÚC. Như khi Vương Ông khuyên Thúy Kiều hãy từ giả sư Giác Duyên để cùng về nhà đoàn tụ với gia đình :

                    Ông rằng :"BỈ THỬ NHẤT THÌ,
                Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.
                    Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
                 Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây !?

      BỈ THỬ NHẤT THÌ 彼此一時 có xuất xứ từ Chương Công Tôn Sửu hạ trong sách Mạnh Tử《孟子·公孫丑下》: Bỉ nhất thời, thử nhất thời dã 彼一時,此一時也. Có nghĩa : Cái kia một lúc thì cái nầy một lúc, phải thay đổi tùy theo hoàn cảnh thời thế, chớ không thể cứng ngắt mãi được.

     Còn ĐỆ NHẤT 第一 là Lớp học cao nhất của chương trình Trung học ngày trước; Học xong lớp Đệ Nhất sẽ thi lấy bằng Tú Tài Đôi và mới vào Đại Học được. Nhưng nghĩa thông thường của ĐỆ NHẤT là Điều thứ nhất, mà cũng có nghĩa là HẠNG NHẤT nữa, như ta thường nghe nói :

         - Đệ Nhất Mỹ nhân     - Đệ Nhất Dũng sĩ
         - Đệ Nhất Danh y       - Đệ Nhất Sát thủ
         - Đệ Nhất Danh ca     - Đệ Nhất Danh hài...

  ... Và cả Nho-Việt-Anh đề huề như cái anh chàng Việt Thảo, người dẫn chương trình của Chương trình Ca nhạc Hải Ngoại VÂN SƠN ngày trước, đã tự xưng mình là :

                ĐỆ NHẤT "EM-SI" (MC)  Hải Ngoại  第一 海外 MC.

           


        Với truyền thống "Tôn Sư Trọng Đạo", người Việt Nam ta luôn luôn rất kính trọng đối với Thầy học với câu nói "NHẤT TỰ VI SƯ, BÁN TỰ VI SƯ 一字為師,半字為師. Có nghĩa :"Dạy cho ta MỘT chữ cũng là thầy; Dạy cho ta NỬA chữ cũng là thầy của ta". Mời xem hai giai thoại về câu nói trên như sau :

               Theo sách " Đường Tài Tử Truyện"《唐才子傳》ghi chép:

    *   Nhà sư thi sĩ TỀ KỶ 齊己 (863—937), tục danh là Hồ Đắc Sinh 胡得生, có biệt hiệu là Hành Nhạc Sa Môn 衡岳沙門, là người đất Ninh Hương, thuộc huyện Trường Sa tỉnh Hồ Nam hiện nay. Ông sống ở cuối đời  Đường, và xuyên suốt qua ba triều đầu đời Ngũ Đại. Lúc nhỏ gia đình nghèo khó, 6 tuổi đã phải đi chăn trâu độ nhật. Nhưng lại có chí cầu học, mỗi ngày đều đọc sách và làm thơ trên lưng trâu. Sư Cụ trong chùa Đồng Độ Tự thương tình cho vào chùa tu để có thời gian học hành và nghiên cứu kinh Phật. Từ đó, Tề Kỷ học hành tấn tới và làm thơ rất nhanh rất giỏi.
       Một hôm gần cuối năm, như thường lệ, Tề Kỷ thức sớm cúng Phật và làm công phu buổi sáng trong khi đêm qua tuyết rơi rất lớn. Mở cửa ra sân nhìn về thôn xóm xa xa, chợt thấy trong nền tuyết trắng bao la lấm tấm có mấy cành mai đà hé nở ! Cảm cho cái tinh thần bất khuất trước tuyết đông giá lạnh, cái sức sống mạnh mẽ ngạo nghễ vươn lên giữa biển tuyết mênh mông của hoa mai, Tề Kỷ về phòng làm ngay bài thơ " TẢO MAI 早 梅 " để tán thưởng cho việc hoa mai nở sớm. Trong bài thơ có 2 câu rất hay là : 

                  Tiền thôn thâm tuyết lý,    前村深雪裏
                  Tạc dạ SỔ chi khai.           昨夜數枝開。
Có nghĩa :
               - Trong rừng tuyết của xóm phía trước xa xa...
               - Tối đêm qua đã có VÀI cành mai đà hé nở !

        Tề Kỷ rất đắc ý với 2 câu thơ nầy, nên mới đem khoe với Trịnh Cốc 鄭谷 (849-911), một thi sĩ đương thời. Trịnh Cốc đọc xong phê rằng : " SỔ Chi Khai 數枝開 " là VÀI cành mai đà nở, chưa thấy được cái " TẢO 早 " là SỚM của Mai, nên đổi lại là " NHẤT CHI KHAI 一枝開 " để nêu bật được cái SỚM của MỘT cành Mai nở trong tuyết lạnh ! Tề Kỷ nghe xong, phục sát đất, bèn sửa lại thành :

                 Tiền thôn thâm tuyết lý,    前村深雪裏
                 Tạc dạ NHẤT chi khai.       昨夜一枝開。
            

... và từ đó về sau gọi Trịnh Cốc là " NHẤT TỰ SƯ  一字师 ", vừa có nghĩa là " Ông Thầy dạy cho MỘT chữ ", lại vừa có nghĩa là " Ông Thầy dạy cho chữ NHẤT " !

      Còn "Bán Tự Vi Sư 半字為師" thì theo tích sau đây :

   **   CAO THÍCH 高適 (706-765), tự là Đạt Phu 達夫, người Bột Hải đất Thương Châu (nay là Cảnh Huyện tỉnh Hà Bắc). Ông là nhà thơ biên tái với lời lẽ mộc mạc chất phác nhưng mạnh mẽ, nổi tiếng ngang hàng với Sầm Tham, được người đời xưng tụng chung là CAO SẦM. Ông từng là Quan Sát Sứ của đất Lưỡng Chiết. Truyện kể...

       Một hôm, Cao Thích đi ngang qua Thanh Phong Lãnh của đất Hàng Châu, đêm ngủ lại một ngôi chùa cổ trên núi, nhìn thấy cảnh trời cao lồng lộng không một bóng mây, ánh trăng thu sáng vằng vặc chiếu xuống dưới dòng sông đang gợn sóng lăn tăn với thuỷ triều đang xuống trông vô cùng gợi cảm... bất chợt gợi hứng hồn thơ, bèn đề một bài thất ngôn tứ tuyệt lên trên vách chùa :

                



               絕嶺秋風已自涼,  Tuyệt lãnh thu phong dĩ tự lương,
               鶴翻鬆露濕衣裳。  Hạc phiên tông lộ thấp y thường.
               前村月落一江水,  Tiền thôn nguyệt lạc nhất giang thủy,
               僧在翠微閒竹房。  Tăng tại thúy vi nhàn trúc phòng.  
Có nghĩa :
                   Đỉnh núi gió thu lạnh mát người,
                   Áo tơi hạc lượn ướt sương rơi.
                   Trước thôn trăng lặn đầy dòng nước,
                   Phòng trúc tăng thiền vẻ thảnh thơi.
   
        Sáng hôm sau khi từ giả lên đường, Cao Thích đi thuyền trên sông Tiền Đường mới thấy rằng, khi trăng lặn cũng là lúc thủy triều xuống nước ròng sát thì dòng sông Tiền Đường nhỏ lại chỉ còn bằng một nửa lúc nước đầy, nên câu thơ "前村月落一江水, Tiền thôn nguyệt lạc nhất giang thủy" không ổn chút nào cả. Vì "NHẤT GIANG THỦY là Một dòng nước đầy", nên khi Nguyệt Lạc (trăng lặn) thì nước sông chỉ còn có "BÁN GIANG THỦY 半江水 là Nửa dòng nước" mà thôi. Ông trăn trở mãi vì câu thơ có chữ "NHẤT" đó. Cho đến một hôm khi có việc đi ngang qua Hàng Châu, ông bèn lên núi tìm đến ngôi chùa trước kia định sửa chữ NHẤT 一 thành chữ BÁN 半. Nhưng khi đến nơi thì thấy chữ NHẤT 一 trong câu thơ đã được ai đó thêm vào chữ THẬP 十 và HAI CHẤM 丷 hai bên thành chữ BÁN 半 rồi ! Cao Thích vừa ngạc nhiên vừa thích thú, mới hỏi thăm sư trong chùa xem ai đã sửa chữ NHẤT của ông thành chữ BÁN vậy ?
       Một nhà sư trẻ mới nói cho ông biết là khi ông vừa đi chẳng bao lâu, thì có một người khách khác đến, đọc bài thơ xong bèn mượn bút mực của chùa mà sửa chữ, và vì người khách nầy có tiếng tăm rất lớn nên nhà chùa không dám cản. Cao Thích hỏi ra thì mới biết người khách đó chính là Lạc Tân Vương 駱賓王, một trong TỨ KIỆT của buổi sơ Đường, bèn chắc lưỡi tán thán rằng : " Qủa là bậc thầy trong chữ nghĩa !". Và cũng vì thế mà người đời kháo nhau rằng : Lạc Tân Vương 駱賓王 chính là BÁN TỰ SƯ 半字師 (ông thầy chữ BÁN) của Cao Thích 高適. Và vì BÁN TỰ 半字 cũng có nghĩa là NỬA CHỮ, nên BÁN TỰ SƯ cũng có nghĩa : Nửa chữ cũng là Thầy !

         BÁN TỰ VI SƯ 半字為師 "Nữa chữ cũng là Thầy" có xuất xứ nên thơ như thế đó ! 
       
        Trong "Tăng Quảng Hiền Văn" có một nhóm câu ngạn ngữ bắt đầu đều bằng chữ NHẤT rất hay như sau đây :

               一年之計在於春,  NHẤT niên chi kế tại ư Xuân,
               一日之計在於寅;  NHẤT nhật chi kế tại ư Dần;
               一家之計在於和,  NHẤT gia chi kế tại ư Hòa,
               一生之計在於勤!  NHẤT sinh chi kế tại ư Cần !
                

Có nghĩa :
    -  Những kế sách hoạch định cho một năm phải bắt đầu từ mùa XUÂN,
    -  Những tính toán dự định trong một ngày phải bắt đầu từ giờ DẦN (từ 3 đến 5 giờ sáng). 
   - Những kế hoạch để xây dựng gia đình cho êm ấm là chỉ ở một chữ HÒA.
   - Những hoạch định tính toán dự trù cho cả một đời người là chỉ ở một chữ CẦN mà thôi ! Nếu chịu khó siêng năng cần cù, thì trong cuộc đời dù không thành công lớn, cũng thành công nhỏ và có tệ nhất thì cũng... đủ ăn đủ mặc, chớ không đến nỗi phải đói rách lang thang.

      "Thiên hữu tứ thời XUÂN tại thủ 天有四時春在首". Trời có 4 mùa thì mùa XUÂN là mùa đầu tiên, tiết trời đã ấm áp trở lại sau mùa đông giá rét , cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, vạn vật đều tái sinh, khí thế đang lên, nên các kế sách dự định trong năm cũng nên bắt đầu ở thời điểm nầy... hơn nữa, nếu có gì trục trặc thì cũng có đủ thời gian để... điều chỉnh lại ! Kế hoạch trong năm bắt đầu ngay được từ mùa Xuân, thì xem như đã thành công một nửa rồi !
      "Thiên quang DẦN, nhật xuất MÃO 天光寅,日出卯". Trời sáng ở giờ Dần, mặt trời mọc ở giờ Mão, nên công việc dự định trong ngày phải bắt đầu ngay từ giờ DẦN. Ngay cả nông dân làm ruộng cũng thế, muốn gieo mạ, cấy lúa, gặt lúa...đều phải thức giấc lúc giờ Dần để bắt đầu cho công việc đồng áng. Ngày xưa, phương tiện giao thông khó khăn, nên định đi đâu để làm gì thì cũng phải thức giấc lúc giờ DẦN.
      "HÒA khí sanh tài 和氣生財" . Có Hòa Thuận để làm ăn thì mới phát sinh tài lộc được, gia đình xào xáo, mỗi người một ý , thì làm ăn làm sao lên cho được ! Ông bà cũng đã dạy "Gia HÒA thì Vạn sự Hanh 亨". Có nghĩa : Gia đình Hòa Thuận thì muôn việc đều hanh thông suôn sẻ. Câu nầy thường bị đọc lệch đi là "Gia Hòa vạn sự HƯNG 興 (Hưng là Hưng Vượng 興旺) , ý nghĩa cũng tương tự mà thôi.
      Cuối quyển Tam Tự Kinh có câu : "CẦN hữu công, Hí vô ích " 勤有功,戲無益. Nghĩa đã rõ : Chơi bời lêu lổng không đem lại lợi ích gì cả, còn siêng năng cần cù thì sẽ gặt hái được thành công trong mọi mặt, nên trong cuộc đời của một người, yếu tố "CẦN" là "Siêng Năng" không thể thiếu trong việc tạo dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho gia đình được !
           
       NHẤT NHẬT 一日 là Một ngày, NHẤT ĐÁN 一旦 cũng là Một Ngày, nhưng lại có nghĩa phiếm chỉ là :"Một Ngày Nào Đó", ngày đó có thể có, cũng có thể không, như trong câu :

                百年成之不足,  Bách niên thành chi bất túc,
                一旦壞之有餘。  NHẤT ĐÁN hoại chi hữu dư !
Có nghĩa :
         - Sự gầy dựng để được thành công trong một trăm năm thấy như vẫn còn chưa đủ; Nhưng...
         - Sự hủy hoại phá tán chỉ cần trong một ngày (nào đó) là đã có thừa rồi !
Ý là :
         Cơ nghiệp gầy dựng cả trăm năm của ông cha để lại, nếu con cháu không biết trân trọng, thì chỉ cần ăn chơi trác táng, cờ bạc trong một ngày một buổi là đã thua sạch cả rồi ! Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu :

               莫將容易得;   Mạc tương dung dị đắc,
               便作等閒看。   Tiện tác đẳng nhàn khan.
Có nghĩa :
          - Đừng thấy những gì dễ dàng có được quá, dễ dàng thành công quá; bèn...
            - Lấy đó mà ỷ y xem thường; (sẽ gặp thất bại và vấp ngã về sau đó !).

       Mong rằng tất cả mọi người đều phải biết trân trọng những cái mà ta có được trước mắt, đừng đứng núi nầy trông núi nọ, đừng mơ ước những cái xa vời ngoài tầm tay của mình... để rồi quên đi thực tại, đánh mất hay phá tán những cơ bản vốn có trước mắt một cách không thương tiếc, rồi để lại sự nuối tiếc và mối hận khó mà hàn gắn được về sau !

              

       NHẤT NHẤT đều phải nên cẩn trọng, "Tam tư nhi hành, Tái tư khả hỉ 三思而行,再思可矣!". Suy nghĩ ba lần rồi hãy làm; Trước khi làm còn có thể suy nghĩ lại thêm một lần nữa !(Cho chắc ăn !) Để khỏi phải :

                          一失足成千古恨!   NHẤT thất túc thành thiên cổ hận !
Đừng để đến đổi...
                          Một lần xẩy chân đưa đến mối hận sầu thiên cổ !

       Mong lắm thay !

Đỗ Chiêu Đức