Showing posts with label Phiếm luận-Mạn đàm. Show all posts
Showing posts with label Phiếm luận-Mạn đàm. Show all posts

7/7/23

Giai thoại văn chương - ANH EM XƯỚNG HỌA

 

 Tô Thức  (Tử Chiêm tức Tô Đông Pha)    Tô Triệt  (Tử Do)

         Trong cổ thi, rất ít khi thấy anh em bạn bè xướng họa với nhau. Mời đọc một giai thoại về Xướng Họa giữa hai anh em Tô Đông Pha và Tô Triệt, hai trong số Đường Tống Bát Đại Gia 唐宋八大家 (Tám nhà văn học giỏi nhất đời Đường và đời Tống) như sau :

         Tô Triệt 蘇轍 tự là Tử Do 子由, em trai của Tô Đông Pha 蘇東坡, tài hoa xuất chúng. Khi mới 19 đã được bổ nhiệm làm quan Chủ Bộ của huyện Mẫn Trì, chưa kịp đáo nhậm thì trên đường đi thi đã đậu ngay Tiến Sĩ. Tô Triệt cùng anh là Tô Thức 蘇軾, tự là Tử Chiêm 子瞻, hiệu là Đông Pha Cư Sĩ 東坡居士, cùng lai kinh ứng thí, khi đi ngang qua huyện Mẫn Trì, đêm trọ lại trong một tăng xá trong chùa, cùng đề thơ tặng sư trên vách. 

         Mùa đông năm Gia Hựu thứ 6 đời nhà Tống (1061), Tô Thức được bổ nhiệm đi làm quan ở Phụng Tường Thiểm Tây, lại phải đi ngang qua huyện Mẫn Trì. Tô Triệt đưa anh đến phía ngoài cửa Tây của thành Trịnh Châu. Tô Thức đã làm một bài thơ chia tay trên ngựa cho em như sau :

                 寒燈相對記疇昔,    Hàn đăng tương đối ký trù tích,
                 夜雨何時聽蕭瑟?    Dạ vũ hà thời thính tiêu sắt ?
                 君知此意不可忘,    Quân tri thử ý bất khả vong,
                 慎勿苦愛高官職!    Thận vật khổ ái cao quan chức !
Có nghĩa :
               Đèn lạnh nhìn nhau nhớ cổ tích,
               Đêm mưa ngày nao nghe rả rích ?
               Biết em ý ấy chớ nên quên,
               Cẩn thận đừng vì ham quan chức !

        Tô Triệt cũng làm một bài thơ《Hoài Mẫn Trì ký Tử Chiêm Huynh 懷澠池寄子瞻兄》tặng cho anh trước khi chia tay về lại kinh thành. Bài thơ đó như sau :

               相攜話別鄭原上,   Tương huề thoại biệt Trịnh nguyên thượng,
               共道長途怕雪泥。   Cộng đạo trường đồ phạ tuyết NÊ.
               歸騎還尋大梁陌,   Quy kỵ hoàn tầm đại Lương mạch,
               行人已度古崤西。   Hành nhân dĩ độ cổ Hào TÊ (TÂY).
               曾為縣吏民知否?   Tằng vi huyện lại dân tri phủ ?
               舊宿僧房壁共題。   Cựu túc tăng phòng bích cộng ĐỀ.
               遙想獨遊佳味少,   Dao tưởng độc du giai vị thiểu,
               無言騅馬但鳴嘶。   Vô ngôn chuy mã đản minh TÊ.
* Có nghĩa :
      - Cùng dắt tay nhau đi và cùng nói lời tạm biệt trên thảo nguyên đất Trịnh Châu.- Cùng bảo nhau đường xa sợ nhiều tuyết bẩn (vất vả).
      - Người quay đầu ngựa trở về còn đang lẩn quẩn trong đường ruộng đại Lương; còn người đi là huynh trưởng chắc đã qua khỏi đường núi Hào tây rồi.
      - Ta đã từng làm qua chức huyện lại ở đây rồi không biết dân chúng có biết không, và trước đây đã từng ngụ ở tăng phòng nầy và đã cùng đề thơ trên vách.
      - Những nghĩ là huynh trưởng du hành đơn độc chắc là rất vô vị; Con đường trước mặt lặng lẽ im lìm chỉ có tiếng ngựa kêu hí mà thôi.


* Diễn Nôm :   Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm (Song thất lục bát)

                       
                  Ngoài Trịnh Châu vẫy tay giả biệt,
                  Ngại đường xa chi xiết tuyết lầy,
                  Đại Lương đường ruộng về đây,
                  Hào Tây núi thẳm người đi dặm ngàn.

                  Từng vì dân giữ an huyện lại,
                  Trọ tăng phòng vách lại đề thơ,
                  Đường xa lữ khách mịt mờ,
                  Dặm trường lặng lẽ ngựa khờ hí vang !

         Khi đi đến huyện Mẫn Trì, Tô Đông Pha nhớ lại chuyện 5 năm trước, khi cùng Tô Triệt lai kinh ứng thí, đêm ở trọ lại một ngôi chùa ở đây, lúc chia tay đã đề tặng một bài thơ trên vách tăng phòng của nhà sư trụ trì là Phụng Nhàn 奉閒. Nay thì nhà sư đã viên tịch, vách cũ cũng đổ nát, cảm xúc cho cái vô thường của thế sự, lại nhận được bài thơ của em trai gởi, bèn làm bài thơ họa vận để nhớ về Mẫn Trì khi cùng với Tô Triệt tá túc nơi đây. Giác ngộ về lẽ vô thường của sự vật làm cho Tô Đông Pha xem nhẹ về lợi danh được mất ở đời, cho đó là chuyện tự nhiên; hình thành phẩm cách cao cả nơi con người ông khi bắt đầu bước vào con đường hoạn lộ làm quan, với cái tinh thần tích cực yêu dân yêu nước và dám xả thân để báo quốc mà không ngại gian lao khổ nhọc. Ta hãy đọc bài thơ "HỌA TỬ DO MẪN TRÌ HOÀI CỰU 和子由澠池懷舊". Có nghĩa :"Họa với Tử Do nhớ lại chuyện cũ ở huyện Mẫn Trì" sẽ rõ : 

              人生到處知何似?    Nhân sinh đáo xứ tri hà tự ?
              應似飛鴻踏雪泥。   Ưng tự phi hồng đạp tuyết NÊ.
              泥上偶然留指爪,   Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo,
              鴻飛哪復計東西?    Hồng phi nả phục kế đông TÊ (TÂY)?
              老僧已死成新塔,   Lão tăng dĩ tử thành tân tháp,
              壞壁無由見舊題。   Hoại bích vô do kiến cựu ĐỀ.
              往日崎嶇還記否?    Vãng nhật khi khu hoàn ký phủ ?
              路長人困蹇驢嘶。   Lộ trường nhân khổn kiển lư TÊ.
* Có nghĩa :
        - Người đời phiêu bạt hết chỗ nầy đến chỗ kia, giống như là gì đây ? Tôi nghĩ giống như là chim hồng hộc ngẫu nhiên đậu xuống trên bùn trên tuyết mà thôi.
        - Trên bùn trên tuyết ngẫu nhiên lưu lại cái vết móng vuốt của chim hồng, chớ chim hồng bay sang đông hay bay sang tây đều không có tính toán trước.
        - Lão hòa thượng thì đã viên tịch rồi chỉ còn lưu lại cái tháp tro cốt mà thôi; và chúng ta cũng không có dịp đi nhìn lại tấm vách có đề thơ năm xưa giờ đã đổ nát.
        - Có còn nhớ ngày xưa trên đường đá gập ghềnh trắc trở khi đi đến đây; Đường đã xa xôi người lại mõi mệt còn lừa thì cũng bước chân khập khiểng và cất tiếng hí vang.


* Diễn Nôm :
   
                                 (Song thất lục bát)

                         Kiếp người đời hợp tan ai muốn ?
                         Tựa chim hồng đáp xuống tuyết lầy,
                         Tuyết lưu móng vuốt là đây,
                         Chim hồng bay mãi đông tây chẳng màng !

                         Lão tăng đã dặm ngàn khuất núi,
                         Vách đề thơ tàn lụi khó tìm,
                         Đường xưa núi đá gập ghềnh,
                         Xa xăm người mỏi lừa rên hí tràn !     
                                                            Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

        Cái triết lý nhân sinh đượm một chút Thiền Ý của Tô Đông Pha rất đáng cho ta suy gẫm; Vì nó thiên về chí hướng tích cực của Nho gia, chớ không buông xuôi tiêu cực như người đời thường nghĩ. Ta hãy nghe lại bài thơ "HỌA TỬ DO..." của ông sẽ rõ...
       Bốn câu đầu ông nêu lên ý : Người đời ở đâu cũng thế, giống như con chim hồng nhạn tình cờ bay đáp xuống vũng lầy bùn tuyết để lại dấu ấn rồi bay đi khắp đông tây mà không còn nhớ gì tới dấu ấn đó nữa; Dấu ấn đó còn hay mất con chim nhạn cũng không cần biết tới làm chi nữa. 

        Bốn câu sau, ông ví với việc anh em ông đề thơ trên vách tăng phòng của nhà chùa khi trọ qua đêm nơi đó; Nay thì nhà sư Phụng Nhàn đã mất, chỉ còn lại cái tháp tro cốt mà thôi; Bức vách đề thơ cũng đã sụp đổ theo mưa nắng của tháng năm. Chuyện ngủ trọ đề thơ cũng giống như chuyện chim hồng để lại dấu ấn trên bùn tuyết, là chuyện "Vô Thường của Cuộc Sống" xảy ra hằng ngày, ta phải biết châm chước mà phớt lờ NÓ đi, đừng để NÓ vướng bận mãi trong lòng làm cho cuộc sống luôn luôn phiền muộn. Chuyện "Ở trọ đề thơ" là một trong muôn ngàn chuyện của cuộc sống của con người; Phải quên NÓ đi, như con chim hồng nhạn không nhớ gì đến việc để lại vết tích trên bùn tuyết ; QUÊN để còn tích cực vui sống và làm việc giúp ích cho đời; QUÊN để còn đối phó với biết bao nhiêu sự cố sẽ lần lượt xảy ra trong cuộc sống của những tháng ngày tiếp nối.

      Đây là cái nhân sinh quan lạc quan trước vô thường của cuộc sống của Tô Đông Pha; Ông cũng khuyến khích em trai mình theo cái nhân sinh quan tích cực nầy mà đi vào cuộc sống. Chả trách hai anh em ông đều là những ông quan tốt và lại là hai thành viên nổi tiếng trong "Đường Tống Bát Đại Gia 唐宋八大家 ".

     Sau đây là hai bài thơ Xướng Họa của anh em nhà họ Tô, được diễn Nôm theo phong cách "Xướng Họa Hiện Nay" của qúy Tiền bối thân hữu trong các vườn thơ thẩn... Ai có nhã hứng thì cùng dịch cho vui (dĩ nhiên là sẽ chọn VẦN tùy thích !).

    XƯỚNG :
               HOÀI MẪN TRÌ KÝ TỬ CHIÊM HUYNH 懷澠池寄子瞻兄 

                   Vẫy tay giã biệt cửa tây Trịnh,
                   Cùng sợ đường xa lắm tuyết lầy.
                   Lẩn khuất người về đường ruộng đó,
                   Gập ghềnh kẻ vượt núi non đây.
                   Trước làm huyện lại dân nào biết,
                   Xưa ngụ đề thơ chẳng kẻ hay.
                   Đơn lẻ hành trình sầu chất ngất,
                   Người buồn ngựa mỏi hí vang vầy !

    HỌA :
                HỌA TỬ DO MẪN TRÌ HOÀI CỰU 和子由澠池懷舊

                   Cuộc sống nhân sinh sao biết được ?
                   Tựa như hồng nhạn đáp bùn lầy,
                   Bùn lầy dấu ấn còn đây đó,
                   Trời rộng hồng bay khắp đó đây.
                   Viên tịch sư già nào kẻ biết,
                   Vách xiêu thơ đổ chẳng người hay.
                   Đường xưa khấp khểnh quên hay nhớ ?
                   Người mỏi lừa què hí mãi vầy !
                                               Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm.

        Mong rằng mọi người đều có quan niệm VÔ THƯỜNG một cách tích cực như là 
TÔ ĐÔNG PHA vậy !

      Đọc bài thơ trên của Tô Đông Pha, làm cho ta lại nhớ đến bài thơ Thiền "VÔ TÂM 無心" của Hương Hải Thiền Sư 香海禪師 (1628 - 1715) đời Hậu Lê của Việt Nam ta như sau :
     
                鴈 過 長 空,             Nhạn quá trường không,                         
                影 沉 寒 水.             Ảnh trầm hàn thủy.                     
                鴈 無 遺 跡 之 意,   Nhạn vô di tích chi ý                 
                水 無 留 影 之 心.   Thủy vô lưu ảnh chi tâm .
Có nghĩa :
         Con chim nhạn bay ngang qua bầu trời, cái bóng của nó in xuống dưới dòng nước lạnh. Con nhạn đó không có Ý để lại vết tích của mình dưới nước, mà nước cũng không có Lòng giữ lại hình bóng của chim nhạn. 
        Tất cả đều là lẽ tự nhiên của Vô Thường, Vô Tâm, của Tâm Vô Sở Trụ 心無所住 !

Diễn Nôm:
                 Nhạn bay cao vút trên không,
                 Bóng chìm đáy nước lạnh căm vô tình.
                 Nhạn không có Ý để hình,
                 Nước không Lòng giữ bóng hình nhạn đâu!                                                                                                                         Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
  

 
Đỗ Chiêu Đức                                              

6/18/23

Phiếm Luận : NHẤT là MỘT

 

 NHẤT là MỘT, Một là Nhất. NHẤT là chữ thuộc dạng Chỉ Sự đơn giản nhất, dễ viết và dễ nhớ nhất trong CHỮ NHO... DỄ HỌC. Có diễn tiến chữ viết như sau :

Ta thấy :
          Dù cho có diễn biến như thế nào thì chữ NHẤT vẫn cứ là một phệt dài, một đoạn thẳng, một nét ngang. Thế nhưng, ông bà ta lại hay nói :"Cái thằng đó nó dốt đến không biết chữ NHẤT là MỘT". Truy nguyên câu nói trên thì ta mới biết rằng : À, thì ra chữ NHẤT tuy dễ viết, dễ nhớ, dễ thuộc, chứ trong ngôn ngữ sử dụng hằng ngày, chữ NHẤT không đơn giản tí nào cả ! Vì NÓ mang đến 11 cách nói và sử dụng khác nhau như sau đây :

1. NHẤT 一 : là số đếm, đơn vị nhỏ nhất của số nguyên, có dị bản phồn thể để ghi những con số quan trong cho không thể sửa đổi được như sau : 壹.
2. NHẤT 一 : là Thuần, là Chuyên. Như "Nhất Tâm Nhất Ý 一心一意" là Một lòng một dạ,là Thuần Nhất 純一, là Chuyên Nhất 專一.
3. NHẤT 一 : là Cả, là Đầy. Như "Nhất Sinh 一生" là Cả cuộc đời; "Nhất Thế 一世" là Cả đời;
"Nhất Hồ Thủy 一湖水 là Một Hồ nước, là Đầy cả một hồ nước.
4. NHẤT 一 : là Giống nhau. Như "Nhất Dạng 一樣" là Một thứ, một kiểu;
"Màu sắc Bất Nhất 不一" là Màu sắc không giống nhau.
5. NHẤT 一 : là Ngoài Ra. Như "Phi cơ Nhất Danh Thiết Điểu 飛機一名鐵鳥" là Máy bay .Ngoài ra còn có tên là Chim sắt.
6. NHẤT 一 : Chỉ các bộ phận kết nối lại thành một tổng thể. Như "Thống Nhất 統一,
Hợp Nhất 合一, Đồng Nhất 同一".
7. NHẤT 一 : là Hoặc...Hoặc... Như "Nhất sinh Nhất Tử 一生一死" có nghĩa "Hoặc là Sống hoặc là Chết"; "Nhất Thắng Nhất Phụ 一勝一負" có nghĩa : Hoặc là ăn hoặc là thua.
8. NHẤT 一 : là Cho (đến). Như "Nhất chí vu thử 一至于此" là "Cho đến thế nầy đây; Nếu phía sau thêm dấu hỏi(?) thì có nghĩa : Cho đến thế nầy sao ?
9. NHẤT 一 : là Một lần, Một cái...là Thăm dò. Như "Toán Nhất Toán 算一算" là "Tính thử một cái xem sao"; "Thí Nhất Thí 試一試" là "Thử một cái xem sao"...
10. NHẤT 一 : là Ký âm của một "nốt" nhạc. Theo nhạc lý Trung Hoa, Ngày xưa là âm "Si", ngày nay là âm "Đô".
11. NHẤT 一 : là Mới, là Lần Đầu. Như "Nhất Kiến Như Cố 一見如故" là "Lần đầu gặp nhau mà như đã quen nhau lâu rồi; "Nhất Kiến Khuynh Tâm 一見傾心" là "Mới gặp nhau thì đã phải lòng nhau liền".

Các bạn thấy sao ? Qua các nghĩa trên của chữ NHẤT, khiến cho câu nói "Dốt đến không biết chữ Nhất một" không còn là cách Nói Nhấn nữa, mà là một thực tế phải học hỏi. Nên chi quyển sách Huấn Mông Tam Tự Kinh 訓蒙三字經 ngày xưa, trong các bài đầu đã dạy ngay cho trẻ em chữ NHẤT và các số đếm :

一而十,十而百, NHẤT nhi thập, Thập nhi bách,
百而千,千而萬。 Bách nhi thiên, Thiên nhi vạn.
Có nghĩa :
Một rồi mười, Mười rồi trăm,
Trăm rồi ngàn, Ngàn rồi vạn.
* VẠN 萬 : Ta gọi là một Muôn = Mười ngàn.

NHẤT 一 là số mở đầu cho các số đếm căn bản từ Một đến Mười. Mời đọc bài thơ "Sơn Thôn Vịnh Hoài 山村咏懷" của Thiệu Ung 邵雍 đời Tống. Bài thơ nầy cũng được dùng để dạy cho các trẻ em ngày xưa như sau :

一去二三里, Nhất khứ nhị tam lý,
烟村四五家。 Yên thôn tứ ngũ gia.
亭台六七座, Đình đài lục thất tọa,
八九十枝花。 Bát cửu thập chi hoa.
Có nghĩa :
Một đi hai ba dặm,
Xóm nhỏ bốn năm nhà.
Đình đài sáu bảy cái,
Tám chín mười cành hoa !
Lục bát :
Một hai ba dặm đường làng,
Bốn năm nhà nhỏ mơ màng khói sương.
Đình đài sáu bảy bên đường,
Tám chín mười đóa hoa hương đầy đồng !

Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm


       Đọc bài thơ trên lại làm cho nhớ đến bài ca dao "Mười Thương" của ta :

               MỘT thương tóc xõa đuôi gà,
               Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
               Ba thương má lúm đồng tiền,
               Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.
               Năm thương cổ yếm đeo bùa,
               Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.
               Bảy thương nết ở khôn ngoan,
               Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
               Chín thương cô ở một mình,
               Mười thương con mắt hữu tình với ai.
        
      NHẤT 一 là Một, nhưng lại cũng có nghĩa là Bao Trùm tất cả như câu đối Tết mà ta thường đọc thấy trong các ngày xuân :

                一元復始,   NHẤT nguyên phục Thủy,
                萬象更新。   Vạn tượng canh tân.
Có nghĩa :
           Cả một bầu nguyên khí của trời đất trở lại lúc ban đầu, và...
           Muôn vạn hiện tượng đều thay da đổi thịt cho mới mẻ lại.

      NHẤT 一 là Một Giềng Mối như câu nói trong chương Lý Nhân của Luận Ngữ《論語. 里仁》: Tử Viết :"Sâm hồ, Ngô đạo NHẤT dĩ quán chi. 子曰:“参乎,吾道一以貫之" Có nghĩa : Khổng Tử dạy rằng : Sâm này, Đạo của ta chỉ có Một Giềng Mối mà bao gồm tất cả !". Do câu nói nầy mà cụ ĐÀO TRINH NHẤT, một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu của ta đã lấy hiệu là QUÁN CHI là vì thế. 

             
          
            NHẤT 一 là Một, NHẤT PHIẾN BĂNG TÂM 一片冰心 là một tấm lòng trong sáng như băng tuyết, như hai câu thơ nổi tiếng trong bài "Phù Dung Lâu Tống Tân Tiệm 芙蓉樓送辛漸" của Vương Xương Linh đời Đường :

               洛陽親友如相問,   Lạc Dương thân hữu như tương vấn,
               一片冰心在玉壺.    NHẤT PHIẾN BĂNG TÂM tại ngọc hồ.
 Có nghĩa :
               Bè bạn Lạc Dương như có hỏi,
               Bình ngọc tuyết băng một tấm lòng ! 

       Bài thơ trên còn là nguồn cảm hứng cho soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà soạn ra tuồng cải lương "Áo Cưới Trước Cổng Chùa", là chùa Phù Dung Tự 芙蓉寺 ở Kiên Giang với sư cô trụ trì đầu tiên là Xuân Tự. Câu thơ "NHẤT PHIẾN BĂNG TÂM tại ngọc hồ" được nhắc đi nhắc lại khi Xuân Tự bị nhốt vào trong cái lu. 

       NHẤT 一 là Một, Nhưng NHẤT NHẤT 一 一 không phải là "Một Một" mà có nghĩa là : Bất cứ cái gì đó, bất cứ việc gì đó. Ví dụ như : Trong công ty, NHẤT NHẤT đều phải do Giám đốc quyết định, chớ không được tự tiện làm ngang. 
       
        Chữ MỘT trong tiếng Nôm ta cũng thế, ngoài nghĩa là số 1 ra, MỘT còn được dùng để liệt kê. Như trong Truyện Kiều, khi biết Thúc Sinh chuộc Kiều từ lầu xanh về làm vợ lẻ, Thúc Ông đã "Sốt gan ông mới cáo qùy cửa công", và Quan phủ sau khi thẩm án đã "xử" rằng :
          
                  MỘT là, cứ phép gia hình,
                MỘT là, lại cứ lầu xanh phó về !

       MỘT LÀ chữ Nho là NHẤT VI 一為, như trong bài thơ "Dữ Sử Lang Trung khâm thính Hoàng Hạc Lâu thượng xuy địch 與史郎中欽聽黃鶴樓上吹笛" rất nổi tiếng của Thi Tiên Lý Bạch như sau :

                一為遷客去長沙,  NHẤT VI thuyên khách khứ Trường Sa,
                西望長安不見家。  Tây vọng Trường An bất kiến gia.
            黃鶴樓中吹玉笛,  Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch,
                江城五月落梅花。  Giang thành ngũ nguyệt Lạc Mai Hoa !
 Có nghĩa :
            MỘT LÀ bị biếm đến Trường Sa,
            Trông ngóng Trường An chẳng thấy nhà,
            Hoàng Hạc véo von vang sáo ngọc,
            Tháng năm còn thổi Lạc Mai Hoa !

      NHẤT còn có nghĩa là : HỄ...như trong thành ngữ "Nhất Kiến Chung Tình 一見鍾情". Có nghĩa : HỄ gặp một cái là chung tình liền; cũng có nghĩa là : HỄ vừa gặp mặt là yêu nhau ngay. Trong tiếng Việt ta gọi là "Tiếng sét ái tình", vì ta nói theo Tây là "Un coup de foudre", còn như nói theo Mỹ là "Love at first sight" là "Yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên !".

     NHẤT là HỄ... "Hễ mỗi lần lên trên hương đài là đài thắp hương để nhìn chiều xuống, là ta sẽ thấy ngay ánh nắng chiều như còn lưu luyến trên tàn cây đơn độc của xóm cát xa xa, và chẳng thấy được bóng dáng của nhà sư ra khỏi núi xanh, mà chỉ nghe có tiếng chuông chùa văng vẳng như để tiễn chân khách ra về... " Đó là nội dung của một bài thơ tứ tuyệt rất hay là "Sơn Trung Biệt Hữu 山中别友" của Cao Khải, một thi sĩ đời nhà Minh như sau :

               一上香台看落暉,    Nhất thướng hương đài khán lạc huy, 
               沙村孤树晚依依.    Sa thôn cô thọ vãn  y  y . 
               老僧不出青山寺,    Lão tăng bất xuất thanh sơn tự,
               祗有锺聲送客歸.    Chỉ hữu chung thinh tống khách quy.
Có nghĩa :
               Lên tận hương đài ngắm tịch dương,
               Cây trơ xóm cát nắng chiều vương.
               Sư ông nhập định không rời núi,
               Vẳng tiếng chuông đưa khách dặm trường !
   Lục bát :
               Nắng chiều lên tận hương đài,
               Xóm xa bóng ngã cho dài hoàng hôn.
               Sư ông nhập định thả hồn,
               Ngân nga chuông tiễn khách dồn bước chân.

        
                        

       Và trong bài "Hàm Dương Thành Đông Lâu 咸陽城東樓" của Hứa Hồn cũng mở đầu bằng hai câu thơ rất hay là :

              一上高城萬里愁, NHẤT THƯỚNG cao thành vạn lý sầu,
              蒹葭楊柳似汀洲, Kiêm hà dương liễu tự Thinh Châu, 
Có nghĩa :
              Vòi vọi thành cao vạn dặm sầu,
              Lau xanh liễu rũ ngỡ Thinh Châu.

     Bài thơ được Hứa Hồn 許渾 làm để nối theo âm vận hơi hám của bài Hoàng Hạc Lâu bất hủ của Thôi Hiệu với dư âm...

              黃鶴一去不復返, Hoàng hạc NHẤT KHỨ bất phục phản,
     là...
              Hạc Vàng MỘT ĐI không trở lại...
     "MỘT ĐI không trở lại" có nghĩa là : HỄ... đi rồi thì không trở lại bao giờ ! Câu thơ nầy lại làm cho ta nhớ đến câu :

               一醉解千愁    NHẤT TÚY giải thiên sầu
Có nghĩa :
              HỄ Say một cái là có thể giải tỏa được ngàn mối sầu ! 
     Chả trách, hễ có chuyện buồn, lo, sầu, não gì là người ta cứ đổ xô đi nhậu ! Ngày xưa, thì chỉ thấy cánh "nình ông" là bợm nhậu; còn ngày nay, do sự tiến hóa của xã hội, đòi hỏi nam nữ bình đẳng, nên có cả những tay bợm nhậu là cánh "nình bà" uống rượu cũng không thua cánh "nình ông" chút nào cả ! Viết đến đây lại làm cho tôi nhớ đến câu thiệu trọng nam khinh nữ của thời phong kiến là :

              一男曰有,    NHẤT nam viết hữu,
              十女曰無。    Thập nữ viết vô.
Có nghĩa :
        - Có MÔT đứa con trai là kể có MỘT đứa con; còn...
        - Có mười đứa con gái, thì kể là Không Có đứa con nào cả !
     Tại sao ?!
         Vì các ông bà xưa nghĩ rằng : Con gái lấy chồng sinh con sẽ mang họ của nhà chồng, nên dù cho có đến 10 đứa con gái cũng không có ai mang họ của cha để thừa tự và cúng tế ông bà tiên tổ. Ông bà ta còn phán một câu nghe rất đau lòng và bạc bẽo là :"Ối, thứ cái đồ con gái ăn cơm nguội ở nhà ngoài !. Có biết đâu rằng, ngày nay rất nhiều gia đình cha mẹ đều nhờ cậy vào con gái cả !

     NHẤT còn là Hạng Nhất, dùng để chỉ người nào đó, cái gì đó tốt, đẹp, giỏi, ngon... Hạng Nhất. Như con gà trên bàn nhậu là "Nhất phao câu, nhì đầu cánh" vậy ! Trong ca dao dân gian ta thì có các câu sau đây :

                        Đẹp NHẤT con gái làng Tranh,
                   Chua ngoa làng Nhót, ba vành kẻ Ôm.
    
     Nói đến núi non thì :

                         NHẤT cao là núi Ba Vì,
                   Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.
           

     Còn nói về thanh lịch thì :

                          NHẤT cao là núi Ba Vì,
                 NHẤT lịch NHẤT sắc kinh kỳ Thăng Long.

     Để tỏ rõ chí lớn phiêu bạt giang hồ thì :

                       NHẤT cao là núi Chóp Chài,
                   NHẤT rộng là bể, NHẤT dài là sông.
                      NHẤT giang hồ là kẻ đàn ông,
                 Bồng bềnh một chiếc thuyền giong hải hà !

     Còn muốn tỏ tình với cô gái xóm đông thì kể lể :

                        NHẤT chờ, nhì đợi, tam mong,
             Tứ thương, ngũ nhớ, lục thất bát mong, cửu thập tìm !

     "Ga-lăng" hơn, ve vãn cả những nàng góa phụ trẻ trung :

                         Cô kia khăn trắng tang ai ?
                  NHẤT tang cha mẹ, thứ hai tang chồng.
                      Tang chồng thì vứt khăn đi,
                  Tang cha tang mẹ ta thì tang chung !

 ... Và thực tế hơn trong cuộc sống hằng ngày với lời khuyên chí thành :

                     NHẤT nghệ tinh, NHẤT thân vinh, 一藝精,一身榮,
                    Ai ơi phải qúy nghề mình mới nên.
                     Hoặc buôn bán hoặc thợ thuyền,
                   Nghề gì cũng sẽ làm nên sang giàu !

                      



      Ta thấy câu trên có 2 từ NHẤT với nghĩa rất khác nhau :
         - NHẤT NGHỆ 一藝 là Một nghề, chỉ BẤT CỨ một nghề nào đó.
         - NHẤT THÂN 一身 là Một thân, chỉ SUỐT CẢ một đời của thân mình. Tương đương với từ NHẤT SINH 一生 là Suốt cả cuộc sống của mình, là Suốt Đời, và NHẤT THẾ 一世 là Một Đời, chỉ Cả đời sống của mình. Ngoài ra, ta còn có từ :
        - NHẤT THÌ 一時 là Một thuở, chỉ trong một lúc nào đó. Ta có thành ngữ THIÊN TẢI NHẤT THÌ 千載一時 là Ngàn năm một thuở, như lời nói của Thúy Kiều đã nói với sư Giác Duyên khuyên bà hãy nán lại chơi để hàn huyên tâm sự :

                     Nàng rằng THIÊN TẢI NHẤT THÌ,
                    Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
                     Rồi đây bèo hợp mây tan,
                  Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu !?

      Ngoài ra, "NHẤT THÌ... NHẤT THÌ" còn dùng để chỉ :(cái nầy) MỘT LÚC...(cái kia) MỘT LÚC. Như khi Vương Ông khuyên Thúy Kiều hãy từ giả sư Giác Duyên để cùng về nhà đoàn tụ với gia đình :

                    Ông rằng :"BỈ THỬ NHẤT THÌ,
                Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.
                    Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
                 Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây !?

      BỈ THỬ NHẤT THÌ 彼此一時 có xuất xứ từ Chương Công Tôn Sửu hạ trong sách Mạnh Tử《孟子·公孫丑下》: Bỉ nhất thời, thử nhất thời dã 彼一時,此一時也. Có nghĩa : Cái kia một lúc thì cái nầy một lúc, phải thay đổi tùy theo hoàn cảnh thời thế, chớ không thể cứng ngắt mãi được.

     Còn ĐỆ NHẤT 第一 là Lớp học cao nhất của chương trình Trung học ngày trước; Học xong lớp Đệ Nhất sẽ thi lấy bằng Tú Tài Đôi và mới vào Đại Học được. Nhưng nghĩa thông thường của ĐỆ NHẤT là Điều thứ nhất, mà cũng có nghĩa là HẠNG NHẤT nữa, như ta thường nghe nói :

         - Đệ Nhất Mỹ nhân     - Đệ Nhất Dũng sĩ
         - Đệ Nhất Danh y       - Đệ Nhất Sát thủ
         - Đệ Nhất Danh ca     - Đệ Nhất Danh hài...

  ... Và cả Nho-Việt-Anh đề huề như cái anh chàng Việt Thảo, người dẫn chương trình của Chương trình Ca nhạc Hải Ngoại VÂN SƠN ngày trước, đã tự xưng mình là :

                ĐỆ NHẤT "EM-SI" (MC)  Hải Ngoại  第一 海外 MC.

           


        Với truyền thống "Tôn Sư Trọng Đạo", người Việt Nam ta luôn luôn rất kính trọng đối với Thầy học với câu nói "NHẤT TỰ VI SƯ, BÁN TỰ VI SƯ 一字為師,半字為師. Có nghĩa :"Dạy cho ta MỘT chữ cũng là thầy; Dạy cho ta NỬA chữ cũng là thầy của ta". Mời xem hai giai thoại về câu nói trên như sau :

               Theo sách " Đường Tài Tử Truyện"《唐才子傳》ghi chép:

    *   Nhà sư thi sĩ TỀ KỶ 齊己 (863—937), tục danh là Hồ Đắc Sinh 胡得生, có biệt hiệu là Hành Nhạc Sa Môn 衡岳沙門, là người đất Ninh Hương, thuộc huyện Trường Sa tỉnh Hồ Nam hiện nay. Ông sống ở cuối đời  Đường, và xuyên suốt qua ba triều đầu đời Ngũ Đại. Lúc nhỏ gia đình nghèo khó, 6 tuổi đã phải đi chăn trâu độ nhật. Nhưng lại có chí cầu học, mỗi ngày đều đọc sách và làm thơ trên lưng trâu. Sư Cụ trong chùa Đồng Độ Tự thương tình cho vào chùa tu để có thời gian học hành và nghiên cứu kinh Phật. Từ đó, Tề Kỷ học hành tấn tới và làm thơ rất nhanh rất giỏi.
       Một hôm gần cuối năm, như thường lệ, Tề Kỷ thức sớm cúng Phật và làm công phu buổi sáng trong khi đêm qua tuyết rơi rất lớn. Mở cửa ra sân nhìn về thôn xóm xa xa, chợt thấy trong nền tuyết trắng bao la lấm tấm có mấy cành mai đà hé nở ! Cảm cho cái tinh thần bất khuất trước tuyết đông giá lạnh, cái sức sống mạnh mẽ ngạo nghễ vươn lên giữa biển tuyết mênh mông của hoa mai, Tề Kỷ về phòng làm ngay bài thơ " TẢO MAI 早 梅 " để tán thưởng cho việc hoa mai nở sớm. Trong bài thơ có 2 câu rất hay là : 

                  Tiền thôn thâm tuyết lý,    前村深雪裏
                  Tạc dạ SỔ chi khai.           昨夜數枝開。
Có nghĩa :
               - Trong rừng tuyết của xóm phía trước xa xa...
               - Tối đêm qua đã có VÀI cành mai đà hé nở !

        Tề Kỷ rất đắc ý với 2 câu thơ nầy, nên mới đem khoe với Trịnh Cốc 鄭谷 (849-911), một thi sĩ đương thời. Trịnh Cốc đọc xong phê rằng : " SỔ Chi Khai 數枝開 " là VÀI cành mai đà nở, chưa thấy được cái " TẢO 早 " là SỚM của Mai, nên đổi lại là " NHẤT CHI KHAI 一枝開 " để nêu bật được cái SỚM của MỘT cành Mai nở trong tuyết lạnh ! Tề Kỷ nghe xong, phục sát đất, bèn sửa lại thành :

                 Tiền thôn thâm tuyết lý,    前村深雪裏
                 Tạc dạ NHẤT chi khai.       昨夜一枝開。
            

... và từ đó về sau gọi Trịnh Cốc là " NHẤT TỰ SƯ  一字师 ", vừa có nghĩa là " Ông Thầy dạy cho MỘT chữ ", lại vừa có nghĩa là " Ông Thầy dạy cho chữ NHẤT " !

      Còn "Bán Tự Vi Sư 半字為師" thì theo tích sau đây :

   **   CAO THÍCH 高適 (706-765), tự là Đạt Phu 達夫, người Bột Hải đất Thương Châu (nay là Cảnh Huyện tỉnh Hà Bắc). Ông là nhà thơ biên tái với lời lẽ mộc mạc chất phác nhưng mạnh mẽ, nổi tiếng ngang hàng với Sầm Tham, được người đời xưng tụng chung là CAO SẦM. Ông từng là Quan Sát Sứ của đất Lưỡng Chiết. Truyện kể...

       Một hôm, Cao Thích đi ngang qua Thanh Phong Lãnh của đất Hàng Châu, đêm ngủ lại một ngôi chùa cổ trên núi, nhìn thấy cảnh trời cao lồng lộng không một bóng mây, ánh trăng thu sáng vằng vặc chiếu xuống dưới dòng sông đang gợn sóng lăn tăn với thuỷ triều đang xuống trông vô cùng gợi cảm... bất chợt gợi hứng hồn thơ, bèn đề một bài thất ngôn tứ tuyệt lên trên vách chùa :

                



               絕嶺秋風已自涼,  Tuyệt lãnh thu phong dĩ tự lương,
               鶴翻鬆露濕衣裳。  Hạc phiên tông lộ thấp y thường.
               前村月落一江水,  Tiền thôn nguyệt lạc nhất giang thủy,
               僧在翠微閒竹房。  Tăng tại thúy vi nhàn trúc phòng.  
Có nghĩa :
                   Đỉnh núi gió thu lạnh mát người,
                   Áo tơi hạc lượn ướt sương rơi.
                   Trước thôn trăng lặn đầy dòng nước,
                   Phòng trúc tăng thiền vẻ thảnh thơi.
   
        Sáng hôm sau khi từ giả lên đường, Cao Thích đi thuyền trên sông Tiền Đường mới thấy rằng, khi trăng lặn cũng là lúc thủy triều xuống nước ròng sát thì dòng sông Tiền Đường nhỏ lại chỉ còn bằng một nửa lúc nước đầy, nên câu thơ "前村月落一江水, Tiền thôn nguyệt lạc nhất giang thủy" không ổn chút nào cả. Vì "NHẤT GIANG THỦY là Một dòng nước đầy", nên khi Nguyệt Lạc (trăng lặn) thì nước sông chỉ còn có "BÁN GIANG THỦY 半江水 là Nửa dòng nước" mà thôi. Ông trăn trở mãi vì câu thơ có chữ "NHẤT" đó. Cho đến một hôm khi có việc đi ngang qua Hàng Châu, ông bèn lên núi tìm đến ngôi chùa trước kia định sửa chữ NHẤT 一 thành chữ BÁN 半. Nhưng khi đến nơi thì thấy chữ NHẤT 一 trong câu thơ đã được ai đó thêm vào chữ THẬP 十 và HAI CHẤM 丷 hai bên thành chữ BÁN 半 rồi ! Cao Thích vừa ngạc nhiên vừa thích thú, mới hỏi thăm sư trong chùa xem ai đã sửa chữ NHẤT của ông thành chữ BÁN vậy ?
       Một nhà sư trẻ mới nói cho ông biết là khi ông vừa đi chẳng bao lâu, thì có một người khách khác đến, đọc bài thơ xong bèn mượn bút mực của chùa mà sửa chữ, và vì người khách nầy có tiếng tăm rất lớn nên nhà chùa không dám cản. Cao Thích hỏi ra thì mới biết người khách đó chính là Lạc Tân Vương 駱賓王, một trong TỨ KIỆT của buổi sơ Đường, bèn chắc lưỡi tán thán rằng : " Qủa là bậc thầy trong chữ nghĩa !". Và cũng vì thế mà người đời kháo nhau rằng : Lạc Tân Vương 駱賓王 chính là BÁN TỰ SƯ 半字師 (ông thầy chữ BÁN) của Cao Thích 高適. Và vì BÁN TỰ 半字 cũng có nghĩa là NỬA CHỮ, nên BÁN TỰ SƯ cũng có nghĩa : Nửa chữ cũng là Thầy !

         BÁN TỰ VI SƯ 半字為師 "Nữa chữ cũng là Thầy" có xuất xứ nên thơ như thế đó ! 
       
        Trong "Tăng Quảng Hiền Văn" có một nhóm câu ngạn ngữ bắt đầu đều bằng chữ NHẤT rất hay như sau đây :

               一年之計在於春,  NHẤT niên chi kế tại ư Xuân,
               一日之計在於寅;  NHẤT nhật chi kế tại ư Dần;
               一家之計在於和,  NHẤT gia chi kế tại ư Hòa,
               一生之計在於勤!  NHẤT sinh chi kế tại ư Cần !
                

Có nghĩa :
    -  Những kế sách hoạch định cho một năm phải bắt đầu từ mùa XUÂN,
    -  Những tính toán dự định trong một ngày phải bắt đầu từ giờ DẦN (từ 3 đến 5 giờ sáng). 
   - Những kế hoạch để xây dựng gia đình cho êm ấm là chỉ ở một chữ HÒA.
   - Những hoạch định tính toán dự trù cho cả một đời người là chỉ ở một chữ CẦN mà thôi ! Nếu chịu khó siêng năng cần cù, thì trong cuộc đời dù không thành công lớn, cũng thành công nhỏ và có tệ nhất thì cũng... đủ ăn đủ mặc, chớ không đến nỗi phải đói rách lang thang.

      "Thiên hữu tứ thời XUÂN tại thủ 天有四時春在首". Trời có 4 mùa thì mùa XUÂN là mùa đầu tiên, tiết trời đã ấm áp trở lại sau mùa đông giá rét , cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, vạn vật đều tái sinh, khí thế đang lên, nên các kế sách dự định trong năm cũng nên bắt đầu ở thời điểm nầy... hơn nữa, nếu có gì trục trặc thì cũng có đủ thời gian để... điều chỉnh lại ! Kế hoạch trong năm bắt đầu ngay được từ mùa Xuân, thì xem như đã thành công một nửa rồi !
      "Thiên quang DẦN, nhật xuất MÃO 天光寅,日出卯". Trời sáng ở giờ Dần, mặt trời mọc ở giờ Mão, nên công việc dự định trong ngày phải bắt đầu ngay từ giờ DẦN. Ngay cả nông dân làm ruộng cũng thế, muốn gieo mạ, cấy lúa, gặt lúa...đều phải thức giấc lúc giờ Dần để bắt đầu cho công việc đồng áng. Ngày xưa, phương tiện giao thông khó khăn, nên định đi đâu để làm gì thì cũng phải thức giấc lúc giờ DẦN.
      "HÒA khí sanh tài 和氣生財" . Có Hòa Thuận để làm ăn thì mới phát sinh tài lộc được, gia đình xào xáo, mỗi người một ý , thì làm ăn làm sao lên cho được ! Ông bà cũng đã dạy "Gia HÒA thì Vạn sự Hanh 亨". Có nghĩa : Gia đình Hòa Thuận thì muôn việc đều hanh thông suôn sẻ. Câu nầy thường bị đọc lệch đi là "Gia Hòa vạn sự HƯNG 興 (Hưng là Hưng Vượng 興旺) , ý nghĩa cũng tương tự mà thôi.
      Cuối quyển Tam Tự Kinh có câu : "CẦN hữu công, Hí vô ích " 勤有功,戲無益. Nghĩa đã rõ : Chơi bời lêu lổng không đem lại lợi ích gì cả, còn siêng năng cần cù thì sẽ gặt hái được thành công trong mọi mặt, nên trong cuộc đời của một người, yếu tố "CẦN" là "Siêng Năng" không thể thiếu trong việc tạo dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho gia đình được !
           
       NHẤT NHẬT 一日 là Một ngày, NHẤT ĐÁN 一旦 cũng là Một Ngày, nhưng lại có nghĩa phiếm chỉ là :"Một Ngày Nào Đó", ngày đó có thể có, cũng có thể không, như trong câu :

                百年成之不足,  Bách niên thành chi bất túc,
                一旦壞之有餘。  NHẤT ĐÁN hoại chi hữu dư !
Có nghĩa :
         - Sự gầy dựng để được thành công trong một trăm năm thấy như vẫn còn chưa đủ; Nhưng...
         - Sự hủy hoại phá tán chỉ cần trong một ngày (nào đó) là đã có thừa rồi !
Ý là :
         Cơ nghiệp gầy dựng cả trăm năm của ông cha để lại, nếu con cháu không biết trân trọng, thì chỉ cần ăn chơi trác táng, cờ bạc trong một ngày một buổi là đã thua sạch cả rồi ! Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu :

               莫將容易得;   Mạc tương dung dị đắc,
               便作等閒看。   Tiện tác đẳng nhàn khan.
Có nghĩa :
          - Đừng thấy những gì dễ dàng có được quá, dễ dàng thành công quá; bèn...
            - Lấy đó mà ỷ y xem thường; (sẽ gặp thất bại và vấp ngã về sau đó !).

       Mong rằng tất cả mọi người đều phải biết trân trọng những cái mà ta có được trước mắt, đừng đứng núi nầy trông núi nọ, đừng mơ ước những cái xa vời ngoài tầm tay của mình... để rồi quên đi thực tại, đánh mất hay phá tán những cơ bản vốn có trước mắt một cách không thương tiếc, rồi để lại sự nuối tiếc và mối hận khó mà hàn gắn được về sau !

              

       NHẤT NHẤT đều phải nên cẩn trọng, "Tam tư nhi hành, Tái tư khả hỉ 三思而行,再思可矣!". Suy nghĩ ba lần rồi hãy làm; Trước khi làm còn có thể suy nghĩ lại thêm một lần nữa !(Cho chắc ăn !) Để khỏi phải :

                          一失足成千古恨!   NHẤT thất túc thành thiên cổ hận !
Đừng để đến đổi...
                          Một lần xẩy chân đưa đến mối hận sầu thiên cổ !

       Mong lắm thay !

Đỗ Chiêu Đức