Showing posts with label Phật giáo. Show all posts
Showing posts with label Phật giáo. Show all posts

11/28/23

Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch

ĐỒNG NAI, Việt Nam (NV) – Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, bậc cao tăng uyên bác từng bị nhà cầm quyền CSVN kết án tử hình, đã viên tịch lúc 4 giờ chiều Thứ Sáu, ngày 24 Tháng Mười Một (nhằm ngày 12 Tháng Mười năm Quý Mão) tại Chùa Phật Ấn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, trụ thế 79 năm, hạ lạp 41 năm, Hội Đồng Hoằng Pháp thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) thông báo.

Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ húy thượng Nguyên hạ Chứng, đời thứ 44 Dòng Lâm Tế Chánh Tông và đời thứ 10 Thiền Phái Liễu Quán, là Chánh Thư Ký kiêm Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Sau một thời gian nằm bịnh viện, ông được đưa về Chùa Phật Ấn hôm Thứ Năm.

Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ tục danh Phạm Văn Thương sinh ngày 15 tháng 2 năm 1943 tại Paksé, Lào, quê tại Quảng Bình, Việt Nam, là một học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại Học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền CSVN, theo trang mạng Quảng Đức.

Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1943-2023)

Ông thông thạo tiếng Trung Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Ông được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật.

Lúc bị CSVN bắt năm 1984, ông và Thích Trí Siêu, được coi là hai nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đang soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển.

Ông qui y Phật lúc 7 tuổi, học Phật pháp trong Viện Hải Đức tại Nha Trang, rồi sau đó là tại Thiền Viện Quảng Hương Già Lam tại Sài Gòn.

Ông tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Phật Học năm 1964, Viện Đại Học Vạn Hạnh phân khoa Phật học năm 1965, được đặc cách bổ nhiệm là giáo sư thực thụ Viện Đại Học Vạn Hạnh từ năm 1970 nhờ nhiều công trình nghiên cứu và khảo luận triết học nổi tiếng. Ông là chủ bút của tạp chí Tư Tưởng do Viện Đại Học Vạn Hạnh phát hành. Ông cũng làm thơ, viết một số truyện ngắn đăng trên tạp chí Khởi Hành (1969-1972), Thời Tập (1973-1975). Ngoài ra ông cũng hiểu biết rất nhiều về triết học Tây phương. Ông là người đầu tiên thuyết trình về Michel Foucault tại Việt Nam.

Sau năm 1975 ông về lại Nha Trang, đến năm 1977 thì vào sống tại Thị Ngạn Am, chùa Già Lam ở Sài Gòn. Đầu năm 1978 ông bị tù 3 năm, đến năm 1980 thì được thả.

Ngày 1 tháng Tư năm 1984 ông bị bắt cùng với ông Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát). Tổ chức Ân Xá Quốc Tế tin rằng nguyên nhân việc bắt giữ Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu là do hai ông là thành viên của GHPGVNTN, một tổ chức tôn giáo CSVN không công nhận và thường xuyên đàn áp.

Tháng Chín năm 1988 ông và Lê Mạnh Thát bị CSVN tuyên án tử hình vì tội hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân. Tháng Mười Một năm 1988 sau một cuộc vận động quốc tế, bản án giảm xuống còn tù chung thân. Ngày 1 tháng Chín năm 1998 ông được thả về từ trại Ba Sao-Nam Hà ở miền Bắc Việt Nam. Một năm sau, vì tiếp tục hoạt động cho GHPGVNTN, ông cùng với Hòa Thượng Thích Quảng Độ lại bị đe dọa giam giữ và bị công an triệu tập tra hỏi.

Năm 1998 tổ chức Human Rights Watch tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards cho Thích Tuệ Sỹ và 7 người Việt khác gồm có Hoàng Tiến, nhà văn Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Tần, Phạm Thái Thụy, Thích Trí Siêu và hai người được giấu tên.

Theo di nguyện của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ lập ngày 19 Tháng Chín năm 2023, đăng tải trên trang mạng của Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN, kim quan được quàn tại chùa Phật Ân ở Long Thành, tang lễ sẽ do Hòa Thượng Thích Minh Tâm làm trưởng ban tổ chức. Sau đó, nhục thân sẽ đưa đi hỏa táng và tro cốt rải ngoài khơi Thái Bình Dương.

Tại Hoa Kỳ, thông bạch của Hội Đồng Hoằng Pháp cho hay, sẽ có buổi lễ truy tán công hạnh và tưởng niệm Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ vào 4 giờ 30 chiều Thứ Bảy, 2 Tháng Mười Hai, 2023, tại Tu Viện Đại Bi, 13852 Newland Street, thành phố Garden Grove. (TTHN)
thaik3 st

Bài đọc thêm: 


Ai Điếu

Một giọt sương rơi
Cho hiên chùa thêm quạnh
Một vầng trăng về tây
Cho biển tối thêm sâu
Một Tăng Triệu thời nay
Giũ áo qua cầu
Tiếng thạch sùng khuya
Gió lùa tàng kinh các
Cầm đèn tuệ chênh vênh
sống một đời cao sĩ
Vóc hạc gầy mong manh
hồn chứa hết tam thiên
Chí cao vợi
cô đơn
dặm trần không tri kỷ
Phiên chợ đời phũ phàng
Sao đắt đỏ chữ duyên
Trời nam lặng một bóng người
vai gầy cõng đạo, một trời sở tri
việc xong, quẳng gậy mà đi
hổ khê áo cỏ dặm về trăng soi...

Toại Khanh

8/30/23

Hoằng Nhất Đại Sư

      


  Tống Biệt                                                       送别         
Trường đình ngoại, cổ đạo biên                    長亭外 古道邊
 Phương thảo bích liên thiên                         芳草碧連天 
 Vãn phong phất liễu địch thanh tàn             晚風拂柳笛聲殘
 Tịch dương sơn ngoại sơn                           夕陽山外山 
 Thiên chi nhai, địa chi giác                         天之涯 地之角 
 Tri giao bán linh lạc                                     知交半零落 
 Nhất biều trọc tửu tận dư hoan                    濁酒盡餘歡 
 Kim tiêu biệt mộng hàn                              今宵别夢寒

Diễn giải bài thơ:

Một túp lều nho nhỏ, khiêm tốn tọa lạc giữa bãi cỏ xanh mướt, bên cạnh một con đường mòn xinh xắn, quanh co uốn khúc đến tận chân trời, xa xa những ngọn núi chồng chất lên nhau, gió đêm nhẹ lay cành liễu vi vu, hòa cùng tiếng kêu não lòng của kẻ ở người đi. Tất cả mọi cuộc tiễn đưa đều không hẹn ngày tái ngộ, trong thời chinh chiến, mỗi một cuộc tiễn đưa là sự vĩnh biệt. Nhấp cạn chung rượu lòng ôn lại tuổi thơ hồn nhiên, vô tư; nghe lòng bồi hồi, xao xuyến để mong được một lần trở về quê xưa, ngồi bên thềm cũ cùng bạn tri giao dốc bầu tâm sự.

Lý Thúc Đồng viết bài thơ trên vào một đêm đông năm 1914, tên bài thơ là "Tổng Biệt", một tuyệt tác bất hủ với thời gian. Có người cho rằng nếu có thể viết được một bài thơ từ như vậy, thì dẫu có chết ngay đi cũng không ân hận. Đó là một sự đánh giá tột bậc đối với Lý Thúc Đồng.

Cuộc đời của Lý Thúc Đồng là một câu chuyện truyền kỳ về mặt nhập thế lẫn xuất thế. Ngài sống trọn vẹn 38 năm với duyên hồng trần; đồng thời công đức viên mãn trong sự tu tập trì giới 24 năm tại cửa Phật thanh tịnh. Nhiều người đều biết, thời niên thiếu Lý Thúc Đồng là một tài tử phong lưu thường tới lui chốn đèn hồng tửu sắc, phù phiếm xa hoa; nửa đời sau lại trở thành một vị cao tăng chân tu trong giới "Luật Tông", một tông môn trì giới nghiêm cẩn, tu hành khắc khổ nhất so với các tông môn khác trong Phật giáo.

Đời sống của Lý Thúc Đồng như truyện thần thoại truyền kỳ đã làm rung động biết bao lòng người kim cổ. Nhiều người vẫn chưa hiểu rõ tại sao Lý Thúc Đồng đang sống trong cảnh giàu sang phú quý lại đột nhiên độn tích Không Môn, dứt khoát đoạn tuyệt với hồng trần, thậm chí người vợ dẫn hai con thơ, nước mắt đầm đìa quỳ trước cổng chùa suốt 3 ngày đêm, Ngài cũng đứt ruột xé gan để dòng nước mắt xóa mờ đi mọi cảnh tượng bên ngoài, nhất quyết không rời phòng thiền để gặp vợ con. Ngài nhất định cắt đứt mọi sự vấn vương với hồng trần tục lụy. Đó là lạnh nhạt bạc bẽo hay là từ bi buông xả. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu câu chuyện của Hoằng Nhất đại sư, sau đó mỗi người sẽ tìm được đáp án của riêng mình.

Hoằng Nhất đại sư tục danh Lý Thúc Đồng, sanh ngày 23-09-1880 trong một gia đình quý phái ở Thiên Tân, một trong bốn thành phố lớn nhất của Trung Quốc. Gia đình buôn bán muối, muối là nhu yếu phẩm hàng đầu dưới sự quản thúc của nhà nước vào thời Mãn Thanh Trung Quốc. Thương gia về nghiệp vụ muối phải là quan lớn hoặc dòng dõi quý tộc. Về sau thân phụ của Lý Thúc Đồng còn kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng, tài sản kếch xù, là gia đình giàu nhất tại Thiên Tân. Lý Thúc Đồng là công tử giàu có bậc nhất đương thời, ngay từ khi ra đời đã sống trong nhung lụa. Lý Thúc Đồng thông minh xuất chúng học rất giỏi, sáu tuổi đọc được tuyển tập thơ văn cổ ngữ, tám tuổi đọc tứ thư ngũ kinh, mười ba tuổi thông thạo thư pháp trong lĩnh vực nghệ thuật và văn hóa Trung Quốc.

Sau khi thân phụ qua đời, Lý Thúc Đồng cùng mẹ đến định cư Thượng Hải. Thượng Hải là thành phố phồn thịnh xa hoa bậc nhất của Trung Quốc. Nếp sống hoa lệ muôn hồng nghìn tía khiến con người quay cuồng trong cơn lốc xa hoa và vòng xoáy của thời đại. Thời trẻ của Lý Thúc Đồng cũng không ngoại lệ, với tố chất thông minh, học giỏi, giàu có, điển trai, đa tài đa nghệ... nên khi vừa đặt chân đến Thượng Hải, Lý Thúc Đồng đã tạo nên một cơn địa chấn, từ phòng trà ca nhạc đến sân khấu kịch nghệ, chàng giao du mật thiết với các nữ nghệ sĩ xinh xắn, đắm chìm trong mê đồ của chốn phồn hoa náo thị. Với con người hào hoa phóng khoáng như vậy, thường dễ đọa lạc vào một nếp sống hoan lạc vô độ. Nhưng với Lý Thúc Đồng thì không hẳn như vậy, lương tri cho chàng cảm thấy sự hoang đàng vô độ trong cuộc vui chơi rượu chè trác táng; ý thức được sự trống vắng thê lương sau khi người tản tiệc tan. Trong cái thân xác vật dục bề ngoài luôn ẩn tàng một linh hồn khao khát tìm về chân lý của cuộc sống. Thế nên, lúc 15 tuổi, Lý Thúc Đồng viết nên hai câu thơ:

Nhân sinh do tựa tây sơn nhật, phú quý chung như thảo thượng sương (人生猶似西山日,富貴終如草上霜.) Đời người ngắn ngủi như mặt trời đang khuất dần vào hướng tây, phú quý mỏng manh tựa giọt sương mai trên ngọn cỏ. 

Người ta thường nói, “thiếu niên bất thức sầu tư vị” (少年不識愁滋味), tuổi trẻ đâu biết vị khổ sầu. Đúng ra 15 tuổi là tuổi mộng mơ, là tuổi chắp cánh dần vào giấc mộng hồng. Tuy nhiên Lý Thúc Đồng lại có tư tưởng ngược với tuổi đời của ông, tựa như ông đã chuẩn bị sẵn hành trang cho một cuộc quật khởi trong tương lai để giã từ với phú quý phồn hoa khi ông vừa ở tuổi 15.

Lúc Lý Thúc Đồng 26 tuổi, được tin mẹ ra đi không một lời giã từ, đau như xé lòng, Lý Thúc Đồng tự đổi tên mình thành Lý Ai (李哀,) Ai là bi ai, để tỏ lòng đau xót của một người con trước sự mất mát quá lớn lao như vậy.

"Còn mẹ nhiều kẻ yêu vì,
Một mai mẹ khuất ai thì thương con."

Qua một cú sốc lớn mất mẹ hiền, và sau khi chu tất việc an tán mẹ năm 26 tuổi, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời của Lý Thúc Đồng. Từ giã quê hương, Lý Thúc Đồng tìm đường du học sang Nhật Bản, mở rộng tầm mắt học hỏi thêm những tư tưởng trào lưu tân tiến. Ông chuyên tâm về các môn học nghệ thuật văn hóa và trình diễn, đồng thời cũng bắt đầu truy cầu cuộc sống về thế giới nội tâm, ông đem hết tất cả tình cảm, tâm huyết và nỗi sầu nhớ mẹ ký thác vào sự học hành tại chốn xứ lạ quê người.

Năm năm miệt mài trong nghệ thuật hội họa và âm nhạc phương Tây tại Trường Đại Học nghệ thuật Đông Kinh “Tokyo”, đạt được một số thành quả và tiếng vang. Năm 1910, Lý Thúc Đồng trở về nước để khai triển sự nghiệp của mình, cũng trong lúc ấy, việc kinh doanh của gia đình đi vào ngõ cùng, gia đình khánh tận. Kiếp đời mê mang 30 năm, đây chính là lúc Lý Thúc Đồng tỏ rõ tài năng và chí lực của mình để tự tạo cho mình một chỗ đứng vững vàng mà mọi người phải công nhận.

Ông giữ chức dạy học tại Trường Cao đẳng Công nghiệp Thiên Tân và Trường Nghệ thuật âm nhạc Thượng Hải, đồng thời cũng là chủ bút nhật báo Thái Bình Dương. Người là một nhạc gia nổi tiếng, là một tay thư pháp có hạng, thông thạo về thơ văn, từ phú. Người cống hiến rất nhiều và có thành tựu rực rỡ trong ngành nghệ thuật Trung Quốc. Người ảnh hưởng và đào tạo nhiều nghệ thuật gia nổi tiếng như họa sĩ Phong Tử Khải, âm nhạc gia Lưu Chất Bình, nhà thư pháp Tiền Quân Đào, Đại sư tranh thủy mặc Phan Thiên Thọ… Có thể nói rằng Lý Thúc Đồng đã lên đến tột bậc trong mọi lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật. Tâm lý con người thường cảm thấy bơ vơ cô độc khi đi đến điểm cao nhất của cuộc sống, như chiếc thuyền nan lênh đênh chân trời mặt biển tìm không ra bến bờ.

Một cơ hội ngẫu nhiên khi ở tuổi 39, Lý Thúc Đồng nội trú trong chùa Định Huệ Hàng Châu 17 ngày đêm và tập pháp "đoạn thực"(nhịn ăn một thời gian đặc biệt nào đó trong việc tu hành) để giữ thân tâm thanh tịnh. Trong thời gian này, dưới sự huân tập của tiếng mộc ngư chuông chùa, Lý Thúc Đồng cảm thấy bình yên thanh tịnh và tâm trí như chợt lóe sáng. Nếp sống đạm bạc và trang nghiêm của người xuất gia như thể thức tỉnh tâm hồn đang mê đắm nơi bể khổ trở về cõi yên lành. Người ý chừng thấy được một lối thoát cho sinh mạng vô thường của cõi đời; tìm được một cách sống để thân tâm được an trú trong hồng trần tục lụy.

Ngày 15/01/1918, Lúc 39 tuổi, Lý Thúc Đồng chính thức xuống tóc xuất gia tại chùa Hổ Bào Định Huệ (虎跑定慧寺), quy y Điểu Ngộ pháp sư, được ban pháp danh Diễn Âm, hiệu Hoằng Nhất.

Nửa đời phú quý nửa đời tăng, từ nay không còn Lý Thúc Đồng. Kể từ đó, trên thế gian đã không còn tài tử tuyệt thế Lý Thúc Đồng biết làm thơ, tinh thông âm nhạc, hội họa, thư pháp, hí kịch, triện khắc kia nữa, mà chỉ có Hoằng Nhất đại sư, một trong tứ đại cao tăng nổi tiếng đương thời.

Sau khi quy y cửa Phật, người vợ Nhật dẫn theo đứa con thơ, nghìn dặm xa xôi đến Hàng Châu, ôm theo một tia hy vọng sau cùng, mong chồng đừng bỏ rơi mình mà xuất gia.

Một buổi sớm mai trên mặt nước Tây Hồ sương mù dày đặc, hai chiếc thuyền đi về phía nhau.


Người vợ gọi to: “Thúc Đồng…”

Lý Thúc Đồng: “Xin hãy gọi tôi là Hoằng Nhất”.

“Hoằng Nhất đại sư, xin hãy cho tôi biết yêu là gì?”

“Yêu, chính là từ bi.”

Cuối cùng, người vợ vặn hỏi trong đau đớn: Đại sư có thể từ bi với tất cả người đời, Tại sao lại chỉ khiến tôi đau khổ?”

Hoằng Nhất đại sư im lặng khá lâu rồi quay mũi thuyền rời đi. Người vợ nhìn chiếc thuyền nhỏ xa dần ôm mặt khóc nức nở.

Đạo đời hai lối, mê giác chỉ là nhất niệm.

Có giác ngộ mới sinh ra lòng từ bi, Đạo Phật chủ trương yêu thương gắn liền với sự giác ngộ. Yêu quý một ai đó thì nên dẫn dắt người ấy hướng về chánh đạo, giúp đỡ người ấy ngày càng hoàn thiện và chín chắn hơn. Trong cuộc sống chúng ta luôn gặp phải những tình huống khó khăn trong sự lựa chọn một giải pháp thích đáng để vẹn toàn cả đạo và đời. Phàm phu thì sống theo duyên nghiệp, trí giả thì tìm giải pháp cho sự cứu cánh của cuộc sống.

Thế gian an đắc song toàn pháp, bất phụ Như Lai bất phụ khanh (世間安得全法,不負如來不負卿). Thế gian làm gì có chuyện mọi thứ đều như ý vừa không phụ lòng chư Phật vừa không phụ lòng giai nhân?

Câu chuyện xuất gia của Hoằng Nhất đại sư khiến tôi nghĩ đến Đức Phật Thích Ca.

Ngài là thái tử của một tiểu vương quốc tại Ấn Độ. Qua trải nghiệm thực tế về sinh lão bệnh tử, Ngài giác ngộ sự vô thường trong cõi đời, sau một thời gian suy ngẫm, Ngài nhất quyết từ bỏ tất cả sự vấn vương của tục lụy: phụ vương, ngôi vàng, vợ con, cuộc sống vinh hoa phú quý và hạnh phúc của một hoàng tử, khoác lên mình chiếc áo vàng của người tu sĩ, từ đó bắt đầu cuộc sống tu hành của người xuất gia cầu đạo. Khi đó Ngài mới 19 tuổi.

Hoằng Nhất đại sư xuất thân tại một gia đình quyền quý ở Thiên Tân, là công tử giàu sang bậc nhất đương thời. Từ nhỏ sống trong hoàn cảnh phú quý nhung lụa, nhưng những biến thiên và tụ tán trong đời sống thăng trầm khiến Ngài ý thức được sự vô thường tạm bợ của cuộc đời. Qua một thời gian suy ngẫm và truy tầm chân lý. Ngài quyết định xuống tóc xuất gia, giã từ tất cả sự phú quý phồn hoa của hồng trần, trở nên một vị chân tu trong giới Luật tông, một tông môn khó tu nhất trong Phật giáo. Khi đó Ngài 39 tuổi.

Theo quan niệm cá nhân của tôi, nhân duyên xuất gia của Phật Đà và Hoàng Nhất đại sư rất giống nhau, cả hai Ngài đều sớm nhìn thấu sự hư ảo của cõi đời và truy tầm sự cứu cánh của cuộc sống. Sau cùng công đức viên mãn, Phật Đà được tôn là Bổn Sư Thích Ca, Hoàng Nhất đại sư trở nên Tổ thứ mười một của Luật Tông Nam Sơn.

Tuy nhiên, một số người vẫn cho rằng sự xuất gia của Phật Đà mang sắc thái từ bi; còn sự xuất gia của Hoằng Nhất đại sư xem chừng như có tính cách nhẫn tâm vì bỏ ngang vợ con.

“Đừng lấy tiêu chuẩn của người khác ra hoạch định cuộc đời mình; đừng lấy tiêu chuẩn của chính mình để phán đoán người khác.”

Thực ra, cuộc sống vốn là một chuỗi dài của sự giã từ, giã từ tuổi xuân, giã từ người thân, giã từ bạn bè, giã từ lợi danh... Tất cả mọi sự gặp gỡ cuối cùng cũng là giã từ, khác biệt chỉ là cách thức của sự giã từ mà thôi. Thực vậy, Chúng ta chẳng biết làm gì hơn là đành chịu khi đối mặt với những sự hợp tan của nhân duyên trong cuộc đời.

Mãi cho đến hiện nay, nhiều người vẫn chưa am tường sự lựa chọn của Hoằng Nhất đại sư, tại sao có thể đang từ chốn xa hoa nhất rồi bước vào cuộc sống nghiêm ngặt nhất. Đối với mọi thắc mắc của người đời, Hoằng Nhất đại sư giữ thái độ im lặng, cúi đầu niệm Phật. Một cánh cửa Thiền chia ra hai thế giới giác mê. Thực ra, cảnh giới của Hoằng Nhất đại sư quá cao, phàm phu tục tử làm sao thấu hiểu, mà cũng không cách nào thấu hiểu.

Trong khi đó, học trò của Hoằng Nhất đại sư là Phong Tử khải có lối phân tích rất hữu lý và cho rằng sự xuất gia của thầy mình là chuyện đương nhiên. Vì nhân sinh của con người, có thể phân thành ba tầng: Một là đời sống vật chất, hai là đời sống tinh thần, ba là đời sống tâm linh. Đời sống vật chất là cái ăn cái mặc, đời sống tinh thần là văn nghệ học thuật, đời sống tâm linh là tôn giáo vậy.

Hoằng Nhất đại sư xuất thân từ gia đình quý phái, không thiếu thốn gì về vật chất, cho nên Ngài tìm đến tầng kế tiếp, Hoằng Nhất đại sư xuất sắc cả về phương diện học thuật, nghệ thuật và mỹ thuật. Tâm hồn của con người sẽ rất cô độc trơ trọi khi mọi lĩnh vực đều đạt đến một đỉnh cao tột bậc. Từ đó Ngài khao khát trong sự truy tầm chân lý của cuộc sống và cội nguồn của sinh mệnh.

Từ mê đến giác, từ phàm nhập thánh, tuy xa mà gần, nó không phải là nghìn trùng xa cách mà chỉ là một niệm trong tâm mà thôi.

Ngày 13-10-1942, duyên đời của Hoằng Nhất đại sư đã đi đến chung điểm, 63 năm không dài, nhưng Ngài để lại cho đời sau nhiều sự tích và gương sáng rực rỡ về tâm linh trí tuệ. Trước khi viên tịch, Ngài để lại bốn chữ "Bi Hân Giao Tập"(悲欣交集), lời ngắn ý dài.

Bi là bi thương (đau xót), hân là hân hoan (vui mừng), Bi Hân Giao Tạp nghĩa là buồn vui lẫn lộn.

Có người nói, Ngài xót thương cho những tháng ngày phóng đãng buông tuồng trong nửa phần đời trước, khi Ngài còn đắm say ngụp lặn trong mê đồ của danh lợi và dục vọng; cũng có người nói Ngài đền bù vì phải chuộc tội cho quá khứ mà Ngài đã cố tình hay vô ý làm tổn thương bao nhiêu người, nên buộc mình lựa chọn Luật tông, một tông môn khắc nghiệt nhất, khó tu nhất trong đạo Phật. Thực ra, tất cả lời giải thích cho sự xuất gia của một vị cao tăng chân tu đều quá miễn cưỡng và gượng gạo.

Nhà Phật bảo: Tứ Đại Giai Không, bất dĩ vật hỉ, bất dĩ kỷ bi (四大皆空,不以物喜,不以己悲). Không vì ngoại vật mà vui, không vì bản thân mà buồn. Chúng ta làm sao đủ trí sáng để hiểu nỗi vui buồn của Hoằng Nhất đại sư. Tuy nhiên, nếu nhìn kĩ bên cạnh "Bi Hân Giao Tập" còn có 3 chữ nhỏ “Kiến Quan Kinh” (見觀經), phải chăng Ngài muốn nhắc nhở người sau, nên căn cứ trên ý nghĩa của Kinh Phật để giải thích 4 chữ này.

Nhà Phật lấy từ bi làm tâm nguyện, Hoằng Nhất đại sư từ bi thương xót những ai giống mình lúc còn trẻ, vẫn đang đắm chìm trong dòng xoáy của danh lợi và vật dục; vui mừng cho mình sớm giác ngộ được chân lý của Phật pháp, để có thể kết duyên từ bi với tất cả chúng sinh trong cõi ta bà.

Câu chuyện truyền kỳ của Hoằng Nhất Đại Sư tựa như Bổn Sư Phật Thích Ca, đều đi từ cuộc sống sung túc nhất đến con đường tu hành khắc khổ nhất, đó là một sự chuyển biến long trời lở đất, cuối cùng đạt đến cứu cánh viên mãn, soi sáng con đường cho người đời sau muốn truy tầm chân lý của cuộc sống.

LT Trường K5

08-23-2023


Bài đọc thêm Link bài hát: 
Dream of home and mother (John Pond Ordway)

7/22/22

Tâm Kinh - Hridaya Sūtra


Sáu trăm Prajñā bộ Thiền tông
Hai trăm tiếng Phạn nối tâm đồng
Tâm Kinh nhịp mõ chung lời tụng
Giải thoát nhân sinh khỏi bến sông.

Tadyatha nối thơ văn
Nghịch lữ trăm năm vẫn cản ngăn
Huyện cũ lều tranh là hoạt cảnh
Nhân sinh biến dạng kiếp tan hoang.

Gate, Gate kiếp đục trong
Buông theo sóng gió giữa biển Đông
Đong đưa cầm lái sao cho vững
Phước mộng an bình vẫn cậy trông.

Parasamgate viên toàn
Biển động ta cùng vượt khó khăn
Sóng phủ đầu thuyền luôn vững tiến
Tâm can giác ngộ thoát lầm than.

Bodhi Svaha vững tay chèo
Tụng niệm Tâm Kinh sóng vỗ theo
Yết Đế Ba La là sự thật
Matra Bát Nhã thoát cheo leo.

Pessac, ngày 22/07/2022
Lê Đình Thông

1/22/22

Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch tại chùa Từ Hiếu ở Huế, thọ 95 tuổi

Tin BBC tiếng Viêt ngày 22.01.2022

Thiền sư Thích Nhất Hạnh vừa viên tịch tại Huế, theo thông tin từ Tăng đoàn Làng Mai nói với BBC tối thứ Sáu 21/01 giờ châu Âu.

Thiền sư Nhất Hạnh tại Tp HCM trong một lễ giải oan hồi tháng 3/2007.

Sư cô Chân Hiến Nghiêm, người Anh, hiện có mặt tại Pháp cho BBC News Tiếng Việt biết vào lúc 20:55 giờ London tối thứ Sáu rằng "lễ tang thầy của chúng tôi sẽ được tổ chức ngay từ sáng Thứ Bảy, ở Huế và kéo dài 5 ngày".

Thông tin từ Tăng đoàn Làng Mai cho hay thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch lúc 00:00 giờ ngày 22/01, năm 2022, ở tuổi 95, theo giờ Việt Nam ở chùa Từ Hiếu, Huế.

"Đây là ngôi chùa thầy quy y đúng 80 năm về trước."

Thông bạch, cáo phó còn nói "nhà tác giả và nhà thơ, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết trên 100 cuốn sách, và sách của thầy được dịch sang 40 ngôn ngữ"


Các cuốn in bằng tiếng Anh, The Miracle of Mindfulness, Peace is Every Step, Anger, và How to Love, đều nổi tiếng thế giới.

Một bài trên BBC News tiếng Anh hồi 2018 gọi ông là "người cha của môn Chánh niệm" (The Father of Mindfulness).

Các sách báo quốc tế đặt ông vào vị trí là một trong số các "lãnh tụ tâm linh, tinh thần" - The Guardian ở Anh coi ông là 'exiled spiritual leader'- có tầm ảnh hưởng vượt ra ngoài một quốc gia.

BBC News Tiếng Việt hồi tháng 8/2010 có bài mô tả chuyến thăm của thiền sư đến London thuyết giảng về Phật giáo cho đa số người nghe là dân Anh và châu Âu:
Tăng đoàn Làng Mai trong buổi biểu diễn, thuyết giảng tại London tháng 8/2010

"Những người Việt Nam mới gặp phái Làng Mai có thể ngạc nhiên một cách thích thú khi thấy đa phần tăng ni theo ông là người Phương Tây. Nhưng đây không phải là chuyện lạ vì thực ra, Phật giáo cũng từ bên ngoài du nhập vào Việt Nam. Và nếu sau này, người thay thế Thiền sư Nhất Hạnh là một đệ tử Tây Phương thì cũng hợp lý bởi Làng Mai trước hết là một sản phẩm của xã hội châu Âu. Thông điệp của Thích Nhất Hạnh ngay từ thời Chiến tranh Việt Nam cũng đã vượt lên vị trí địa lý của xứ sở quê ông."

Trang BBC Religion viết về cuộc đời ông như sau:

Sinh năm 1926, ông quy y năm 16 tuổi và đúng tám năm sau đã lập ra Viện Phật giáo Ấn Quang ở Sài Gòn.

Năm 1961, Thích Nhất Hạnh sang Hoa Kỳ học và dạy môn tôn giáo so sánh ở các đại học Columbia và Princeton. Ông trở về Việt Nam hai năm sau đó để tham gia dẫn dắt các nỗ lực Phật giáo vì hòa bình.

Tháng 2/1964, ông lập ra dòng Tiếp Hiện, và đến 1966 lại rời Việt Nam ra thế giới để kêu gọi hòa bình trong khi cuộc chiến Việt Nam lan rộng.

Năm 1967, mục sư Martin Luther King đề cử ông cho giải Nobel Hòa bình, ca ngợi ông như sau

"Vị sư nhỏ bé từ Việt Nam nhưng là học giả có trí tuệ rất lớn. Ý tưởng vì hòa bình của ông, nếu được áp dụng, sẽ có thể tạo ra động lực cho đối thoại giữa các đạo giáo, vì tình huynh đệ của thế giới, vì nhân loại."

Năm 1969, thầy Thích Nhất Hạnh dẫn phái đoàn Phật giáo vì Hòa bình tới Hòa đàm Paris, và lập ra Tăng đoàn Phật giáo Thống nhất (Unified Buddhist Church - UBC) ở Pháp. Từ đó hình thành cộng đồng tu tập đầu tiên năm 1975, và sau đó là cơ sở Làng Mai ở miền Nam nước Pháp từ 1982.

Các cơ sở khác về sau được mở ra ở nước khác, gồm cả Việt Nam.

Nhưng việc 'bén rễ' của hệ phái này ở Lâm Đồng bất thành và tăng ni của tu viện Bát Nhã theo Làng Mai bị chính quyền gây khó khăn, phải bỏ đi năm 2009.

Xem thêm bài phỏng vấn của BBC năm 2009 về sự kiện tại tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng.

Một cơ sở sau đó ra đời tại Thái Lan, trong vùng núi thuộc tỉnh Nakhon Ratchasima.

Xem bài tường thuật của BBC từ cơ sở này năm 2018.

Tháng 8/2017, chính quyền VN lại cho phép thiền sư Thích Nhất Hạnh về thăm quê hương và ông ở lại đó cho đến khi qua đời.

Tuy được ca ngợi trên thế giới, cách nhìn về ông và trung tâm Làng Mai do ông sáng lập đã và đang khá khác nhau trong cộng đồng người gốc Việt ở hải ngoại, với nhiều lời khen và cũng có cả chỉ trích.

Quan hệ của Làng Mai với nhà nước Việt Nam hiện hành và những chức sắc của Giáo hội Phật giáo theo con đường 'xây dựng chủ nghĩa xã hội' cùng Đảng Cộng sản cũng không hoàn toàn êm đẹp, tuy đã cải thiện đáng kể từ sau sự kiện Bát Nhã.

Mới trong tháng 11/2021, trang Phật giáo Việt Nam đăng bài của ông Trần Đăng Khoa "Mừng Thiền sư Thích Nhất Hạnh 95 tuổi".

Bài có đoạn "nhân ngày sinh nhật ông, tôi lại nhớ đến cuốn sách rất thú vị: "Những bước chân an lạc".

"Cuốn sách tập hợp một số bài báo trong hàng vạn bài viết về Thiền sư Thích Nhất Hạnh của các cây bút nổi tiếng trên thế giới."

"Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất an...Thích Nhất Hạnh cho rằng, chỉ có tình thương yêu mới xóa bỏ được mọi hận thù.một trong những công lao lớn nhất của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là đã hiện đại hóa đạo Phật, đưa đạo Phật đi vào cuộc đời."

Bài liên quan: 
.....