4/8/21

CHIẾC NÓN LÁ RÁCH.

Làm dâu được sáu năm, sanh ba cháu. Năm 1972 anh chị được chính phủ VNCH cấp căn nhà vùng ven đô nên đành phải xin Bố Mẹ cho ra riêng.

Đâu ngờ Có ngày 30/4 – Có thời “bao cấp”!

Như mọi người, gia đình nàng cũng rơi vào thảm cảnh. Khổ sở vì phải lo miếng cơm manh áo.

Từ “tiểu thơ nàng trở thành "con cò lặn lội bờ sông”.

Bươn chải đủ cách hầu đủ nuôi năm con với một chồng!

Và, vô tình học lóm đựơc nghề chầm nón lá từ bà hàng xóm. Nhờ vậy, nàng được có trong tay chiếc “cần câu” hầu kiếm cho cả nhà bữa cháo bữa rau. Cho các con còn có cơ hội được tiếp tục cắp sách đến trường, mót nhặt vài ba “cái chữ”. Tối tăm mặt mũi vì sinh kế, nên lâu lâu mới có dịp ghé thăm bố mẹ chồng.

Một lần đi mua vật liệu làm nón. Ghé lại nhà, thấy mẹ chồng cũng vừa đi “hàng” về tới. Nhìn bà đội chiếc nón lá sút vành rách bươm, nàng thấy xót xa trong lòng!

Ba ngày sau, nàng ”lái” chiếc xe đạp “cùn”, mang xuống biếu bà cái nón lá bài thơ, y chang của xứ Huế, nhưng do chính tay nàng làm. Bà cụ mừng quá, nhìn săm soi một hồi, gật gù tỏ vẻ ưng ý.

Nàng bảo mẹ lấy quai nón cũ đưa con thay cho. Bà cụ cầm vào trong buồng. Nghe tiếng sột soạt vọng ra. Sau đó, tiếng chân bà lên lầu.

Thấy bà trở xuống tay không. Nàng hỏi nón đâu rồi? Bà bảo: - Mẹ vừa bao lại, mang lên gác cất để dành. Nón cũ còn dùng được, chừng nào hết xài, tao sẽ đội nón mới. Công lao tụi bây bỏ ra, tỉ mỉ mấy ngày trời mới làm được chiếc nón mới đẹp thế, phải không?

Nghe bà nói vậy, nàng bảo: - Mẹ cứ lấy ra đi, mai mốt hư, con “châm” cái khác biếu mẹ. Ai đời, con châm nón bán cho người ta, để mẹ già phải đội chiếc nón ờ tơi tả thế kia!
Nói mãi nhưng bà vẫn không đổi ý. Cuối cùng nàng giả bộ “nói lẫy”: - Vậy mẹ đưa lại, con đem bán. Bao giờ nón cũ hết xài, con sẽ mang nón mới xuống đổi cho.

Đang vui, tự nhiên mặt bà xụ xuống, cặp mắt đỏ hoe, nhìn lên gác như muốn khóc! Nàng biết mình lỡ lời bèn xin lỗi mẹ.

Bà chẳng nói chẳng rằng, bỏ vào phòng nằm. Khi chào ra về, bà cũng không thèm quay mặt ra. Biết bà giận, nàng hối hận lắm!

Gằn bốn mươi năm sau, chuyện đó đã đi vào quên lãng. Cho đến một ngày đầu năm 2013, con nàng tới hỏi: - Cái bếp mua cho mẹ cả năm nay sao mẹ không mang ra xài? Cái gì cũng cất kỹ, toàn dùng những thứ mà - như người khác - họ đã bỏ vô thùng rác từ lâu rồi. Rõ số khổ!

Nàng giải thích: -Thời buổi khó khăn, cái gì còn dùng được, mẹ cứ tận dụng, đỡ tốn kém cho các con đồng nào hay đồng nấy. “Nó” tuy cũ nhưng chẳng có chi trở ngại. Cơm canh nấu vẫn chín đó thôi.

- Vậy con lấy bếp lại để cho người khác nghe?

Nét mặt nàng bỗng xụ xuống y như bà cụ mẹ chồng ngày xưa, khi nghe nàng nói đòi lại chiếc nón. Nhưng không chỉ giống đôi mắt đỏ hoe rướm lệ, mà nàng còn bật khóc…, khóc tức tưởi… ! Chồng, con xúm lại vỗ về, an ủi mãi mới tạm nguôi.

Vài ngày sau, nàng kể: Lúc đó bị chạm tự ái, tủi thân vô cùng. Mình cho chúng, lo cho chúng bằng cả cuộc đời. Nay về già, chúng biếu, tặng (hay gọi là cho cũng được) thứ gì, đều phải tuân theo sự “chỉ đạo”(!). Nếu không làm như ý, chúng đòi lại. Hỏi sao chẳng đau lòng?

Đêm ấy, trằn trọc khó ngủ. Ngồi bó gối, than vắn thở dài. Bỗng chợt nhớ lại câu chuyện chiếc nón ngày xưa. Mình cũng có những lời nói tương tự với Mẹ chồng. Mặc dù không ác ý, nhưng cũng đã phạm sai lầm, vì vô tình gieo Nhân xấu. Và hôm nay, hậu quả được lập lại “y khuôn” cũng chỉ là lẽ đương nhiên.

Ông bà dưới quê thường nói “Đời xưa quả báo thì chầy. Đời nay quả báo một dây nhãn tiền”. Mình nghiệm ra: ”Lỗi tại Ta” và cảm thấy nhẹ nhõm, bèn lại Bàn thờ, thắp nén nhang, khẩn thầm xin lỗi trước di ảnh của Bà:

“Bởi chiếc nó lá rách, con đã hơn một lần làm cho Mẹ đau khổ, như con vừa trải qua. Nay thì con đã hiểu. Cúi xin Mẹ niệm tình tha thứ!”

Ông Đồ Già

4/5/21

Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân

Trở về Mục Lục


ý kiến phản hồi;
"Con người" rất phúc tạp. “Dò sông dò biển dễ dò. Mấy ai lấy thước mà đo lòng người”.
Tâm tư con người thiên biến vạn hóa.
1)- Tư Mã Tương Như con người nhiều cảm tính. Nguyên có tên là Khuyển Tử (犬子), vì ngưỡng mộ LanTương Như mà đổi tên thành Tương Như. "Cầm Khiêu Văn Quân" có thể là do bản tính lãng tử, hào hoa. Cũng có thể có dụng ý bất chính. Vì ái mộ một người mà đổi tên, vì cảm thương quả phụ Văn Quân , tuổi trẻ tài hoa chịu cảnh góa bụa mà gẩy khúc "Phượng cầu hoàng".
2)- Trác Văn Quân nghe tiếng TMTN từ lâu. Bị khích động bởi tiếng đàn mà buông lòng theo tiếng gọi của con tim. Bất chấp mọi giá. Như ý kiến Hàn Sĩ TMTN và TVQ chẳng ai có lỗi trong tình yêu.
3)- Một nhận xét chí lý: Tình yêu như ngọn lửa rơm, tình nghĩa mới trường tồn.
4)- Kết thúc câu chuyện tình có hậu do "tài nữ Trác Văn Quân dĩ văn phục văn (以文服文)". Dù bồng bột nông nổi nhưng TVQ cũng một lòng một dạ với người mình yêu. Kịp khi thấy người bạn đời thay đổi nàng nhất quyết đoạt tuyệt "đáng phục". TMTN cũng là người biết phục thiện, "lãng tử hồi đầu" cũng xử sự công bằng để không mang tiếng là kẻ bạc tình.

Nghe nhạc:

Tà Áo Văn Quân - Sáng tác: Phạm Duy Nhượng. Tiếng hát: Quỳnh Dao.


4/3/21

LỜI YÊU

Nguyễn Ngọc Tư

Nhí quay lại Nhơn Thành, người trong xóm ra trước nhà chờ đón. Mẹ Nhí đi cùng con cả một đoạn đường dài, không biết trên máy bay có khóc, nhưng đến đầu xóm mặt giăng một màn nước mắt, chân bước hụt bước hao.

Ai cũng kêu mau quá, đám gả Nhí như mới đây thôi, bữa đó nó còn giòn rụm nói cười, hát 60 năm cuộc đời giờ thành tro nguội bụi lạnh.

Nhí lấy chồng đúng đợt mưa dầm tháng bảy, truyền hình nói ngoài biển có hai cơn áp thấp nhiệt đới đang rượt đuổi nhau. Người trong xóm rũ nước mưa lúc bước qua cổng vòng nguyệt, càm ràm riết rồi cưới gả không chờ nắng cho vui.

Nhưng chờ gió chướng lùa nắng về lại Nhơn Thành thì cũng phải vài ba tháng nữa. Chú rể chỉ được ở lại tròn tháng. Ba mươi ngày cho tất cả những chuyện từ coi mắt cho đến lễ cưới, từ dòm coi chân Nhí có cong không cho đến da có bị chàm hay nấm mốc không. Làm lễ chào hai họ xong, chú rể sẽ bay ngay về nước không kịp thở.

Đi Sài Gòn bữa trước, vài tối sau Nhí dắt chồng tương lai về, sửa soạn đám cưới trong lúc đợi làm giấy tờ hôn thú. Tên chồng mỗi chữ Hi-ếc trên cái thiếp mời viết đổ tháu hệt cua bò trong giỏ. Ai nhận thiệp cũng kêu ui trời mau quá, con nhỏ mới đây còn bưng thau đi dài xóm mượn gạo mà giờ đã lấy chồng rồi.

Trong lằn rãnh nhớ của người Nhơn Thành chỉ có Nhí kéo tép rong, Nhí vớt bèo, Nhí chạy quắn trước ngọn roi cha mẹ nó, Nhí xin nước mắm thì kèo thêm tóp mỡ. Không có Nhí cô dâu.

Thăm Lại Chiến Trường Xưa

Kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần đầu mùa Quốc Hận.

Dạo:
Xưa tuôn máu giữa chiến trường,
Nay tuôn lệ giữa quê hương không còn.

Cóc cuối tuần:

Thăm Lại Chiến Trường Xưa

Từng bước lẻ ngập ngừng theo tiếng nạng,
Nắng xoay chiều, chập choạng bóng thương binh.
Đích viếng thăm bỗng xuất hiện thình lình,
Người chưng hửng, tưởng rằng mình hoa mắt.

Sửng sốt nhìn quanh quất,
Tự hỏi mình có thật đến đúng nơi,
Xưa kia đã một thời,
Mình chấp nhận xương rơi cùng máu đổ?

4/2/21

Bác sĩ… ngụy

Nguyễn Ngọc Chính

Có những câu nói sẽ thay đổi theo từng ngữ cảnh, theo từng thời gian và thậm chí còn đi ngược lại ý nghĩa ban đầu, chẳng hạn như chữ “ngụy”. Khi “bên thắng cuộc” vào Miền Nam năm 1975, người Sài Gòn thường nhíu mày, khó chịu khi nghe đến chữ “ngụy”.

Ấy thế mà 45 năm sau, đôi khi lập lại cũng từ ngữ đó người ta lại cảm thấy “ngụy” không còn là cách nói miệt thị, không phải cứ “ngụy” là xấu mà trái lại nó tượng trưng cho điều gì đó tốt đẹp. Bằng chứng cụ thể, ngày nay có nhiều người ca ngợi… Bác sĩ Ngụy!

Chỉ mới đây thôi, một cuộc giải phẫu tách rời hai trẻ sơ sinh dính liền nhau từ trong bụng mẹ đã được dư luận, kể cả lề trái lẫn lề phải, bàn tán xôn xao. Có đến gần 100 y bác sĩ tham gia cuộc mổ mà trong đó người đứng đầu ê-kíp lại là một bác sĩ tuổi đã ngoài 70, được đào tạo từ thời còn “mồ ma” VNCH!

Cặp song sinh Trúc Nhi - Diệu Nhi cùng bố mẹ trước khi mổ tách rời

Cũng vị bác sĩ quân y này năm 1988 đã là "nhạc trưởng" vì ông giữ vai trò phẫu thuật viên chính ca mổ tách cặp song sinh dính liền Nguyễn Việt - Nguyễn Đức với sự hỗ trợ thiết bị của Nhật Bản. Sự thành công của ông vang danh thế giới và được ghi tên vào Sách kỷ lục Guinness Thế giới năm 1991.