Showing posts with label Đức Giáo Hoàng Benedict. Show all posts
Showing posts with label Đức Giáo Hoàng Benedict. Show all posts

1/4/23

Tiểu sử chính thức của Đức Giáo hoàng Danh dự Benedict

(Source: Vatican News - English: Death of Pope Emeritus Benedict: his official biography. https://www.vaticannews.va/en/vatican-city/news/2022-12/pope-emeritus-benedict-xvi-official biography.html

Xuất xứ: Tin Tòa thánh Vatican - Tiếng Anh: Sự qua đời của Đức Giáo hoàng Danh dự Benedict: tiểu sử chính thức của Ngài - Phạm Văn Bân dịch, January 04, 2023)

Cố Đức Giáo hoàng Danh dự Benedict XVI 

VATICAN


Theo sau thông báo về sự qua đời của Đức Giáo hoàng Danh dự Benedict XVI vào ngày Thứ Bảy (12-31-2022) ở tuổi 95, chúng ta nhìn lại cuộc đời trường thọ của Ngài và các điểm nổi bật chính yếu với tiểu sử chính thức sau đây. Theo Tin Tòa thánh Vatican

Hồng y Joseph Ratzinger, Đức Giáo hoàng Benedict XVI, sinh tại Marktl am Inn, Giáo phận Passau (nước Đức) vào ngày 16-04-1927 (Thứ Bảy Tuần Thánh) và được rửa tội cùng ngày.

Cha của ngài, một Ủy viên Cảnh sát, thuộc một gia đình nông dân lâu đời tại Lower Bavaria với tài lực kinh tế vừa phải. Mẹ ngài là con gái của một thợ thủ công tỉnh Rimsting bên bờ Hồ Chiem. Trước khi kết hôn, bà làm đầu bếp cho một số khách sạn.

Joseph trải qua thời thơ ấu và niên thiếu ở Traunstein, một làng nhỏ gần biên giới nước Austria/Áo, cách Salzburg ba mươi cây số. Trong môi trường này, chính ngài tự khẳng định là “Mozartian/người theo nhạc Mozart”, ngài nhận được đào tạo về Thiên chúa giáo, văn hóa và con người. 

Những năm tháng tuổi trẻ của ngài không hề dễ dàng. Đức tin của ngài và sự giáo dục nhận được  ở quê nhà đã chuẩn bị cho ngài kinh nghiệm khắc nghiệt trong những năm mà chế độ Quốc-xã  theo đuổi thái độ thù hằn đối với Giáo hội Thiên chúa giáo. Chàng thanh niên Joseph đã chứng  kiến cảnh một số lính Quốc-xã đánh đập Cha Giáo xứ trước buổi cử hành Thánh lễ. 

Đúng trong hoàn cảnh phức tạp đó, ngài khám phá ra nét đẹp và chân lý của niềm tin vào Chúa  Christ; nền tảng cho việc này là thái độ của gia đình ngài, là những người luôn luôn làm chứng rõ  ràng về lòng bác ái và hy vọng, được bắt nguồn từ một sự gắn bó vững chắc đối với Giáo hội. 

Ngài đã ghi danh vào một quân-đoàn-phòng-không-phụ-trợ cho đến tháng 9 năm 1944.

Tu sĩ

Từ năm 1946 đến năm 1951, ngài học triết học và thần học tại Trường Cao cấp Triết học và Thần  học Freising và tại Đại học Munich. 

Ngài thụ phong linh mục ngày 29-06-1951. Một năm sau, ngài bắt đầu giảng dạy tại Trường Cao  cấp Freising. 

Năm 1953, ngài lấy bằng tiến sĩ thần học với luận án mang tựa đề “Dân chúng và Nhà Thiên Chúa  trong Học thuyết của Thánh Augustine về Giáo hội”. 

Bốn năm sau, dưới sự hướng dẫn của giáo sư thần học căn-bản nổi tiếng Gottlieb Söhngen, ngài  hội đủ điều kiện giảng dạy tại đại học với luận án chuyên về: “Thần học về Lịch sử thông qua  Thánh Bonaventura”. 

Sau khi dạy thần học tín-lý và căn-bản tại Trường Cao cấp Triết học và Thần học Freising, ngài tiếp tục dạy tại Bonn, từ năm 1959 đến năm 1963; tại Münster từ 1963 đến 1966; và tại Tübingen  từ năm 1966 đến năm 1969. Trong năm cuối này, ngài giữ chức Chủ tịch Giáo lý và Lịch sử Giáo  lý tại trường Đại học Regensburg, nơi ngài cũng là Phó Khoa trưởng của trường. 

Từ năm 1962 đến năm 1965, ngài đã có những đóng góp đáng chú ý cho Công đồng Vatican II với  tư cách là một “chuyên viên”, có mặt tại Công đồng như là một cố vấn thần học của Đức Hồng y  Joseph Frings, Tổng Giám mục giáo phận Cologne. 

Hoạt động khoa học tích cực của ngài đã đưa ngài đến những vị trí quan trọng trong việc phục vụ Hội đồng Giám mục Đức quốc và Ủy ban Thần học Quốc tế. 

Năm 1972, cùng với Hans Urs von Balthasar, Henri de Lubac và các thần học gia quan trọng khác,  ngài khởi xướng tạp chí thần học Communio. (Communion/Rước Lễ). 

Giám mục và Hồng y

Vào ngày 25-03-1977, Đức Giáo hoàng Paul VI bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám mục Munich và  Freising. Ngày 28-05 cùng năm, ngài thụ phong hồng y. Ngài là giám mục giáo phận đầu tiên sau 80 năm để đảm nhận việc điều khiển mục vụ của Tổng giáo phận Bavarian rộng lớn. 

Ngài chọn phương châm giám mục của mình: “Những người đồng hành cùng với chân lý”. Chính  ngài giải thích tại sao: 

Một mặt, tôi xem đó như là mối tương quan giữa nhiệm vụ giáo sư trước đây với nhiệm vụ mới của tôi. Bất chấp những khuynh hướng khác nhau, bất chấp chuyện gì liên quan, và  vẫn tiếp tục như vậy, sự kiện là đi theo lẽ thật và phụng sự lẽ thật. Mặt khác, tôi chọn  phương châm đó bởi vì trong thế giới ngày nay, chủ đề về chân lý gần như bị loại bỏ hoàn  toàn, như là một điều gì đó quá vĩ đại đối với con người, nhưng mọi thứ sẽ sụp đổ nếu thiếu  vắng chân lý. 

Đức Giáo hoàng Paul VI phong ngài tước Hồng y với tước hiệu giám mục “Santa Maria  Consolatrice al Tiburtino” trong Hội nghị Hồng y vào ngày 27-06-1977. 

Năm 1978, ngài tham gia Mật Nghị Hồng y vào ngày 25 và 26 tháng 8, bầu chọn Đức Giáo hoàng  John Paul I, người đã bổ nhiệm ngài làm Đặc Phái viên tại Đại Hội Thánh Mẫu Quốc Tế III, được  tổ chức tại Guayaquil (Ecuador) từ ngày 16 đến 24 tháng 9. Vào tháng 10 cùng năm, ngài tham  gia Mật Nghị Hồng y bầu chọn Đức Giáo hoàng John Paul II. 

Ngài là Người-Tường-thuật của Đại hội đồng Thường kỳ lần thứ V của Thượng Hội đồng Giám  mục xảy ra vào năm 1980 với chủ đề: “Vai trò của Gia đình Thiên chúa giáo trong Thế giới Hiện  đại”, và là Chủ tịch Đại biểu của Đại hội đồng Thường kỳ lần thứ VI năm 1983 về “ Hòa Giải và  Sám Hối trong Sứ Mạng của Giáo Hội Ngày Nay”. 

Tổng trưởng 

Ngày 25-11-1981, Đức Giáo hoàng John Paul II bổ nhiệm ngài làm Tổng trưởng Thánh bộ Giáo  lý Đức tin và Chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Thánh kinh và Ủy ban Thần học Quốc tế. Ngày 15- 02-1982, ngài từ chức điều khiển phụng sự cho Tổng giáo phận Munich và Freising. 

Đức Thánh Cha nâng ngài lên Dòng Giám Mục và giao Tòa Thánh ngoại ô Velletri-Segni cho ngài  phụ trách vào ngày 05-04-1993. 

Ngài là Chủ tịch Ủy ban Chuẩn bị cho Giáo lý của Giáo hội Thiên chúa giáo, sau sáu năm làm việc  (1986-1992), đã trình sách Giáo lý mới lên Đức Thánh Cha. 

Vào ngày 06-11-1998, Đức Thánh Cha phê chuẩn việc bầu chọn Đức Hồng Y Ratzinger làm Phó  Niên Trưởng Hồng Y Đoàn, do các hồng y của Dòng Giám Mục đệ trình. Vào ngày 30-11-2002,  Đức Giáo hoàng John Paul II phê chuẩn việc bầu ngài làm Niên Trưởng Hồng Y Đoàn; cùng với  văn phòng này, ngài được giao phụ trách Tòa Thánh ngoại ô Ostia. 

Năm 1999, ngài là đặc phái viên của Đức Giáo hoàng cho Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập Giáo  phận Paderborn, nước Đức, xảy ra vào ngày 3 tháng Giêng.

Trong Giáo triều Roman, ngài là thành viên của: Hội đồng Quốc vụ khanh về Tương quan với các  Quốc gia; Thánh bộ Giáo hội Đông phương, Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Giám mục,  Truyền giáo Dân tộc, Giáo dục Thiên chúa giáo, Giáo sĩ và Phong thánh; các Hội đồng Giáo hoàng  về Cổ vũ Văn hóa và Hiệp nhất Thiên chúa giáo; Tối cao Pháp viện của Tòa án Tông đồ, và của  Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ Latin, “Ecclesia Dei/Hội Thánh Đức Chúa Trời/天主的教會:  Thiên Chúa đích Giáo hội: Giáo hội của Thiên Chúa”, Thánh bộ Giải thích về bộ Giáo luật, và Tu  chỉnh về bộ Giáo luật của Giáo hội Đông phương. Kể từ ngày 13-11-2000, ngài là Viện sĩ Danh dự của Học viện Giáo hoàng về Khoa học.

Về học thuật 

Trong số nhiều ấn phẩm của ngài, một điều đặc biệt cần nhắc đến là cuốn Introduction to  Christianity/Nhập môn Thiên chúa giáo, một tuyển tập của các bài giảng đại học về Tín điều Sứ đồ, xuất bản năm 1968; và Dogma and Preaching/Tín lý và Mạc khải (1973), một tuyển tập của  các tiểu luận, bài giảng đạo và phản ánh suy tư dành riêng cho các lập luận mục vụ. 

Bài thuyết giảng của ngài trước Học viện Thiên chúa giáo Bavaria về “Tại sao tôi vẫn ở trong Giáo  hội” đã gây tiếng vang lớn; trong đó, ngài tuyên bố rõ ràng như thường lệ: “người ta chỉ có thể là  tín đồ Thiên chúa giáo ở bên trong Giáo hội, không thể ở bên cạnh Giáo hội”. 

Nhiều ấn phẩm của ngài đã được phổ biến trong nhiều năm và tạo thành một điểm tham khảo cho  nhiều người, đặc biệt cho những người quan tâm đến việc nghiên cứu sâu hơn về thần học. Năm  1985, ngài xuất bản cuốn-sách-phỏng-vấn về tình hình đức tin (The Ratzinger Report/Báo cáo của  Ratzinger) và vào năm 1996, Salt of the Earth (nguyên tựa đề là Salz der Erde, Licht der Welt:  Muối của trái đất, ánh sáng của thế giới). Nhân dịp sinh nhật 70 tuổi của ngài, tập sách At the  School of Truth/Ở tại Trường Chân lý được xuất bản, bao gồm các bài viết của một vài tác giả về các khía cạnh khác nhau về tính cách cá nhân và tác phẩm của ngài. 

Ngài nhận được nhiều bằng tiến sĩ danh dự: năm 1984 từ Đại học St. Thomas tại St. Paul,  (Minnesota, Mỹ); năm 1986 từ Đại học Thiên chúa giáo Lima (Peru); năm 1987 từ Đại học Thiên  chúa giáo Eichstätt (Đức); năm 1988 từ Đại học Thiên chúa giáo Lublin (Poland); năm 1998 từ Đại học Navarre (Pamplona, Spain); năm 1999 từ LUMSA (Libera Università Maria Santissima  Assunta) của Rome và năm 2000 từ Khoa Thần học của Đại học Wrocław tại Poland. 

Đức Giáo hoàng 

Hồng y Joseph Ratzinger được bầu vào ngày 19-04-2005 là Đức Giáo hoàng 265th

Ngài là người lớn tuổi nhất được bầu làm Đức Giáo hoàng kể từ năm 1730, và là vị Hồng y trong  một thời gian lâu hơn bất cứ Đức Giáo hoàng nào kể từ năm 1724. 

Vào ngày 11-02-2013, trong Công nghị Công khai Thường lệ để Bỏ phiếu về một vài Án Phong  Thánh, Đức Giáo hoàng Benedict công bố quyết định từ chức Phụng sự Thánh Peter/Petrine  ministry với những lời như sau:

Sau khi lặp đi lặp lại xét mình trước mặt Thiên Chúa, tôi đã chắc chắn rằng sức lực của  tôi, do tuổi cao, không còn thích hợp để thực hiện việc Phụng Sự Thánh Peter một cách  thỏa đáng nữa. Tôi ý thức rất rõ rằng việc phụng sự này, do bản chất tinh thần thiết yếu của nó, phải được thực hiện không những bằng lời nói và việc làm, mà còn không kém  phần cầu nguyện và chịu đựng đau khổ. Tuy nhiên, trong thế giới ngày nay, bị hướng về nhiều biến chuyển mau lẹ và bị lung lay bởi những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc về đời sống  đức tin nên để điều khiển chiếc thuyền của Thánh Peter và loan truyền Phúc-âm thì cần có  sức mạnh cả thể xác lẫn tinh thần, một sức mạnh mà trong vài tháng vừa qua đã bị sa sút  trong tôi đến nỗi tôi phải nhận thức rằng tôi không có khả năng để hoàn thành một cách  thỏa đáng cho việc phụng sự đã được trao phó cho tôi. Vì lý do này, và ý thức rất rõ ràng  về sự nghiêm trọng của hành động này, với tự do hoàn toàn, tôi tuyên bố từ chức phụng sự Giám mục Roma, Người Kế vị Thánh Peter. 

Triều đại giáo hoàng của ngài kết thúc vào ngày 28-02-2013. 

Sau khi việc từ chức của ngài có hiệu lực, Đức Giáo hoàng Danh dự Benedict XVI sống bên trong  Tòa Thánh, trong Tu viện Mater Ecclesiae cho đến khi ngài qua đời. 



Bản gốc tiếng Anh: 

(Vatican News - English: Death of Pope Emeritus Benedict: his official biography. https://www.vaticannews.va/en/vatican-city/news/2022-12/pope-emeritus-benedict-xvi-official biography.html.)