Showing posts with label Đỗ Chiêu Đức. Show all posts
Showing posts with label Đỗ Chiêu Đức. Show all posts

4/19/23

HƯ CẤU trong võ hiệp KIM DUNG. (8) - Lý thú, Hấp dẫn, Khúc Chiết, Bất ngờ.

 

Tứ đại Ác nhân

Truyện võ hiệp Kim Dung còn làm cho người ta cảm thấy lý thú, hấp dẫn với những tình tiết dí dõm bất ngờ, như cách đặt tên và danh hiệu cho các nhân vật; chẳng hạn trong truyện "Thiên Long Bát Bộ 天龍八部" có "Tứ Đại Ác Nhân 四大惡人" là :

      - ÁC Quán Mãn Doanh 貫滿盈 là Tội Ác đầy cả trời đất : Đoàn Diên Khánh 段延慶. Ông là cha đẻ của Đoàn Dự.
      - Vô ÁC Bất Tác 無不作 là Không có cái ác nào mà không làm : Diệp Nhị Nương 葉二孃. Bà là mẹ của nhà sư Hư Trúc.
      - Hung Thần ÁC sát 凶神煞 là Ông thần hung ác dữ dằn : Nam Hải Ngạc Thần 南海鱷神. Ông muốn thu Đoàn Dự làm đồ đệ, kết cục phái bái Đoàn Dự làm sư phụ.
      - Cùng Hung Cực ÁC 窮凶極 là người Hung dữ ác độc hết mức : Vân Trung Hạc 雲中鶴. Rất giỏi về khinh công và cũng rất háo sắc.
      Ta thấy :
      - Người Ác thứ nhất thì ngoại hiệu có chữ ÁC đứng đầu : ÁC Quán Mãn Doanh.
      - Người Ác thứ nhì thì ngoại hiệu có chữ ÁC đứng nhì : Vô ÁC Bất Tác.
      - Người Ác thứ ba thì ngoại hiệu có chữ ÁC đứng ba : Hung Thần ÁC sát.
      - Người Ác thứ tư thì ngoại hiệu có chữ ÁC đứng tư : Cùng Hung Cực ÁC.
      
     Kim Dung đã rất dụng tâm khi tạo ra ngoại hiệu cho Tứ Ác Nhân nầy, khiến người đọc khi nhận ra thì cảm thấy thật lý thú.

     Chương mở đầu trong Truyện "Ỷ Thiên Đồ Long Ký 倚天屠龍記" có "Côn Luân Tam Thánh 崑崙三聖". Ai cũng tưởng đó là "Ba ông Thánh ở núi Côn Luân", ngay cả nhân vật trong truyện là Quách Tương cũng tưởng là thế; Ai ngờ Côn Luân Tam Thánh chỉ có một người giỏi cả ba môn CẦM, KIẾM, KỲ; là Cầm Thánh, Kiếm Thánh và Kỳ Thánh; có nghĩa : Người nầy đàn thật giỏi là Thánh ở môn đàn cầm; Kiếm pháp thật hay là thánh về kiếm pháp và Đánh cờ thật siêu, là ông thánh của cờ vây. Nhưng lại có cái tên nghe thật khiêm tốn là họ HÀ, tên là TÚC ĐẠO, là HÀ TÚC ĐẠO 何足道.
     HÀ 何 là : Sao mà; TÚC 足 là : Đủ để; ĐẠO là : Nói đến. Vừa hiệu vừa tên đọc liền một dãy thành :"CÔN LUÂN TAM THÁNH HÀ TÚC ĐẠO 崑崙三聖何足道"; Có nghĩa :"Sao có thể nói được là Công Luân Tham Thánh chớ ?". Nghe bề ngoài như rất khiêm tốn nhưng trong thâm tâm cũng có ý rất tự cao, tự hào :"Tại mọi người gọi tôi là Tam Thánh chớ tôi không dám tự xưng đâu nhé !".
     Côn Luân Tam Thánh HÀ TÚC ĐẠO là ông Tổ khai sáng ra phái Côn Luân sau nầy, cũng như Quách Tương khai sáng phái Nga My, Trương Quân Bảo (Tam Phong) khai sáng phái Võ Đang trong truyện Ỷ Thiên Đồ Long Ký vậy.

     Còn trong TIẾU NGẠO GIANG HỒ 笑傲江湖 thì có HOÀNG HÀ LÃO TỔ 黃河老祖. Mới nghe ai cũng tưởng chỉ có một người, nhưng thật ra đến hai người, là cặp bài trùng : Lão Đầu Tử 老頭子, người bào chế ra Tục Mệnh Bát Hoàn để cứu con gái; và Tổ Thiên Thu 祖千秋, chuyên gia về rượu và ly chén dùng để uống rượu.

 
 Hà Túc Đạo                   Lão Đầu Tử  

TỔ THIÊN THU 祖千秋, Họ TỔ 祖 tên TÔNG 宗. TỔ TÔNG 祖宗 là Ông bà Ông vãi; hiệu là THIÊN THU 千秋. Tổ Thiên Thu là Ông Tổ của ngàn thu ngàn năm.

LÃO ĐẦU TỬ 老頭子, Họ LÃO 老 tên GIA 爺, ai cũng phải kêu bằng LÃO GIA 老爺, là Ông Nội, Ông Chủ; hiệu là ĐẦU TỬ 頭子, Lão Đầu Tử là : Ông già, Ông Cha, kêu theo kiểu bình dân. Lão Đầu Tử có cô gái vì tiên thiên bất túc bệnh rề rề suốt năm, nên ông ta đi khắp nơi tìm đủ loại được thảo quý hiếm để bào chế ra Tục Mệnh Bát Hoàn cho con gái tiếp tục kéo dài sinh mạng. Ông sợ con gái của mình chết yểu, nên đặt tên cho cô ta là LÃO BẤT TỬ 老不死; Có nghĩa là :"Đến già cũng không chết"! Cái con nhỏ bệnh ế rề rề mà lại có tên là "Đến già cũng không chết!). 

Bao Bất Thiện                   Bao Bất Đồng

        Làm cho ta nhớ lại BAO BẤT ĐỒNG 包不同 (Bao Bất Đồng có nghĩa : Bảo đảm không đồng ý!), người mà mở miệng ra là nói ngay bốn chữ "Phi dã, phi dã 非也,非也!"(Không phải, không phải đâu!). Bao Bất Đông có cô con gái tên là BAO BẤT TỊNH 包不靚. TỊNH 靚 là đẹp một cách lộng lẫy. Nên BAO BẤT TỊNH 包不靚 có nghĩa :"Bảo đảm không đẹp lộng lẫy chút nào cả !". Con gái ham đẹp mà lại có tên là : Bảo đảm Không đẹp chút nào cả !... Thì quả thật là tiếu lâm !

      Qua các cách đặt tên hiệu ở trên, cho ta thấy Kim Dung vừa hài hước và cũng vừa sâu sắc một cách dí dỏm, làm cho người đọc vừa hụt hẫng vì đoán sai lại vừa cảm thấy thích thú khi phát hiện ra sự thật.

        Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung còn hấp dẫn ở chỗ vượt qua khỏi những mô hình cổ điển "CHÍNH luôn thắng TÀ". Kẻ gian tà tuy võ công lợi hại nhưng rốt cuộc luôn bị bại bởi những người chính trực. Cứ rập khuôn như thế thì đọc riết cũng đâm ra thấy chán. Kim Dung đã bức phá ra khỏi cái khuôn khổ đó. Như trong "Tuyết Sơn Phi Hồ" và "Phi Hồ Ngoại Truyện" có Hồ Nhất Đao 胡一刀 là một anh hùng bản sắc chính trực lại trúng phải âm mưu ám toán của kẻ tiểu nhân thoa thuốc độc lên đao mà vong mạng; Còn kẻ tiểu nhân thất đức là Điền Quy Nông lại có được một ngoại mạo bề ngoài thật đoan trang tuấn tú, làm cho vợ của Miêu Nhân Phượng phải bỏ nhà đi theo. Còn trong "Xạ Điêu Anh Hùng Truyện" thì kẻ ác Tây Độc Âu Dương Phong không có bị người quang minh chính trực là Cửu Chỉ Thần Cái đánh bại, mà ngược lại Hồng Thất Công lại bị ông ta hại cho mất hết võ công. Những kẻ thuộc phe phản diện ác độc gian tà như Âu Dương Khắc, Dương Khang không phải do phe chính trực sát hại mà đều chết do tay của những người gian ác. Âu Dương Khắc bị Dương Khang giết, Dương Khang chết là do chất độc rắn của Âu Dương Phong. Còn Giang Nam Thất Quái chuyên hành hiệp trượng nghĩa, thì sáu người đều bị chết về tay của kẻ xấu. Kim Dung đã đặt những nhân vật của mình vào một hoàn cảnh lịch sử khắc khe. Như Thành cát Tư Hãn đánh tới đâu là tàn sát giết hại dân lành tới đó, đã ép buộc Quách Tĩnh đem binh đi đánh nhà Tống khiến cho mẹ của Quách Tĩnh phải tự sát, nhưng ông ta vẫn hoàn thành đại nghiệp Đế quốc Mông Cổ của mình, trong khi Quách Tĩnh là người dân lành chính trực cũng phải chịu bó tay mà không thể vãn hồi đại cục cho được...

         Kim Dung thường tổng hợp nhiều mô hình tiểu thuyết võ hiệp, như "Mô Hình Phục Thù 復仇模式" như con báo thù cho cha mẹ, đệ tử báo thù cho sư phụ... "Mô Hình Tranh Chấp 爭執模式" như tranh giành kho báu, tranh giành bí kíp võ công, Tranh giành Bảo đao Bảo kiếm hoặc Linh đơn diệu dược... rồi thêm vào những tình tiết thường thấy, như trên đường phục thù lại yêu nhầm con cái hay đồ đệ của kẻ thù. Ngoài ra còn có các mô hình khác như "Tranh Hùng 爭雄" xưng bá võ lâm, "Phục Ma 伏魔" trừng trị kẻ ác, "Kháng Bạo 抗暴" phản kháng chống lại bạo lực, bạo quyền, "Ngôn Tình 言情" tả lại những mối tình lãng mãn, những mối tình vượt lễ giáo... Như...

"Bích Huyết Kiếm" viết về Viên Thừa Chí phục thù rửa hận cho cha là Viên Sùng Hoán. "Ỷ Thiên Đồ Long Ký" là tranh giành bảo đao Đồ Long và Ỷ Thiên Kiếm, "Anh Hùng Xạ Điêu" thì tranh giành Võ Mục Di Thư và Cửu Âm Chân Kinh, "Tiếu Ngạo Giang Hồ" là phục ma diệt bạo những ngườicó tham vọng như Tả Lãnh Thiền và Ngụy Quân Tử như Nhạc Bất Quần. "Thư Kiếm Ân Cừu Lục" là kháng chiến chống lại bạo quyền... Kim Dung không lọt vào khuôn mẫu của các mô hình một cách cứng ngắt thụ động, mà kết hợp nhiều mô hình lại trong cùng một tác phẩm. Như trong "Xạ Điêu Anh Hùng Truyện", hai gia đình của Quách Khiếu Thiên và Dương Thiết Tâm gặp nạn, Quách Tĩnh và Dương Khang cùng quyết tâm trả thù cho cha mẹ gia đình (Mô hình Phục Thù), cùng tìm kiếm và tranh giành Võ Mục Di Thư và Cửu Âm Chân Kinh (Mô hình Tranh Báu); Các cao thủ Luận Kiếm Hoa Sơn (Mô hình Tranh Hùng), Quách Tĩnh và Hoàng Dung cùng giúp quan binh giữ thành Tương Dương chống quân Mông Cổ (Mô hình Kháng Bạo)... Thậm chí còn chen vào một số tình tiết Trinh Thám, như Giang Nam Ngũ Quái bị sát hại trên đảo Đào Hoa, ai cũng nghi là do Hoàng Dược Sư gây nên, nhờ có Hoàng Dung tinh ý thông minh mới phá được án oan cho cha mình, nhờ vào hai nét chữ THẬP 十 là bên trái của chữ DƯƠNG 楊, chớ không phải chữ THẬP 十 trên đầu chữ HOÀNG 黃 và nhất là nhờ vào chiếc giày con có chữ Tỉ Võ Chiêu Thân bị Diệu Thủ Thư Sinh trước khi chết đã trổ tài "Diệu Thủ Không Không" lấy được trong mình của Dương Khang... Còn "Thần Điêu Hiệp Lữ" là quyển tiểu thuyết Ngôn Tình, mở đầu bằng mối tình ngang trái giữa Lục Triển Nguyên và Lý Mạc Sầu đưa đến sự tàn độc nhẫn tâm của Lý Mạc Sầu sau nầy; Mối tình vượt ra ngoài vòng lễ giáo giữa thầy trò Dương Quá và Tiểu Long Nữ; Những mối tình "Đơn Tư 單思" một chiều của Trình Anh, Lục Vô Song, Công Tôn Lục Ngạc và Quách Tương đối với Dương Quá; Song song cũng có những mối tình êm đẹp suôn sẻ như Quách Phù và Gia Luật Tề, Anh em nhà họ Võ với Hoàng Nhan Bình và Gia Luật Yến... và cũng có "Tranh Báu" như phái Cổ Mộ Lý Mạc Sầu và Tiểu Long Nữ tranh nhau bí kíp "Ngọc Nữ Tâm Kinh", "Kháng Bạo" như quần hùng giúp giữ thành Tương Dương chống lại quân Mông Cổ, Dương Quá dùng Đàn Chỉ Thần Công búng viên đá giết chết Đại Hãn Mông Ca. "Tranh Hùng" như Luận Kiếm Hoa Sơn ở phần cuối truyện...


         Tiểu Thuyết võ hiệp của Kim Dung còn hấp dẫn người ta bằng cách khơi dậy tính tò mò cố hữu của con người, nên ông luôn luôn tạo ra rất nhiều tình huống làm cho người ta thắc mắc, khó hiểu. Trong thắc mắc lớn có thắc mắc vừa, trong thắc mắc vừa có thắc mắc nhỏ. Hết lớp nầy đến lớp khác để khơi dậy tính hiếu kỳ làm cho người ta cứ mãi mê theo dõi miết đến quên ăn quên ngủ. Như truyện "Tiếu Ngạo Giang Hồ" vậy, mới vào truyện đã mở ra một tình huống hồi hộp khẩn trương để khơi dậy tính tò mò thắc mắc của người đọc...
       Thiếu gia Lâm Bình Chi của Phúc Uy tiêu cục cùng người ấu đả. Sau khi vô tình giết chết một người Tứ Xuyên họ Dư, thì trong đêm đó, các tiêu sư trong tiêu cục trên hai mươi người cứ nối tiếp nhau lăn ra chết một cách bí mật mà không có thương tích gì cả. Trước cửa tiêu cục lại có người dùng máu viết hàng chữ :"Ra khỏi cửa mười bước sẽ chết!". Bầu không khí khủng bố lan tràn. Tổng tiêu đầu Lâm Chấn Nam phải giải phẫu tử thi để tìm hiểu nguyên nhân, thì mới phát hiện ra rằng các tiêu sư chết vì Thôi Tâm Chưởng của phái Thanh Thành ở Tứ Xuyên. Trong tình cảnh nầy vợ chồng Lâm Chấn Nam quyết định bỏ tiêu cục thoát ra từ ngõ sau để lánh nạn. Nhưng vẫn bị giết hết cả nhà, chỉ có Lâm Bình Chi là thoát chết... 
      Mới đầu truyện đã treo lơ lửng nhiều nghi vấn : Tại sao lại xảy ra thảm kịch của Phúc Uy tiêu cục ? Nhà họ Lâm đã làm gì nên nỗi nầy ? Lâm Bình Chi thoát chết tương lai sẽ ra sao ? Có học được võ công thượng thừa để rửa thù tuyết hận hay không ?... Một lô thắc mắc thôi thúc đọc giả phải đọc tiếp xem cốt truyện về sau sẽ ra sao ? Nhưng khi truyện trước chưa giải quyết được tới đâu thì những biến cố sau đã dồn dập tới : Cao thủ của phái Hành Sơn là Lưu Chính Phong rửa tay gát kiếm, thoái ẩn giang hồ, nhưng Ngũ Nhạc kiếm phái lại hết sức cản trở, đến nỗi muốn sát hại cả nhà của Lưu Chính Phong, đó là vì lý do gì ? Đại đệ tử của phái Hoa Sơn là Lệnh Hồ Sung liều mạng cứu sư muội của phái Hằng Sơn là tiểu ni cô Nghi Lâm, thiếu chút nữa thì mất mạng, lại bị mọi người ghét bỏ, còn bị sư phụ trách phạt phải "Diện bích tư quá 面壁思過"là tại sao ?... Hết thắc mắc nầy đến nghi vấn khác cứ chồng chất lên nhau một cách chặc chẽ để lôi cuốn người đọc và sẽ được Kim Dung tháo gở lần lần, có lắm khi tới hồi kết thúc vẫn còn chưa tháo gở xong một cách dứt khoát, mà để dành phần cho đôc giả tự "tháo gở" lấy tùy theo thiên kiến của mỗi người. Như ở cuối truyện "Tuyết Sơn Phi Hồ", có người hỏi Kim Dung là :"Cuối cùng thì nhát đao đó Hồ Phỉ có chém xuống hay là không ?". Kim Dung đã cười mà đáp lại rằng :"Chính tôi cũng không biết nữa !". Ý là : Tùy theo cách nhìn và cách giải quyết sự việc của mỗi người. Nhát đao của Hồ Phỉ chém xuống thì sẽ như thế nào, không chém xuống thì sẽ như thế nào, và câu chuyện sẽ kết thúc ra sao ? Tất cả mọi người đều có quyền "tham gia" giải quyết và tháo gở cái gút mắc gây cấn, phức tạp và lý thú nầy !


      Kim Dung còn giỏi ở khâu cho cốt truyện diễn biến một cách đột xuất bất ngờ để gợi ý tò mò cuả độc giả một cách mạnh mẽ như trong một câu truyện trinh thám. Truyện "Ỷ Thiên Đồ Long Ký", chỉ trong một đêm ngủ thức dậy thì Triệu Mẫn và thuyền Ba Tư biến mất, Hân Ly bị rạch mặt, Chu Chỉ Nhược bị xẻo tai, Ta Tốn và Trương Vô Kỵ đều cảm thấy trong mình uể oải... Ai, ai đã cướp đi Đồ Long Đao và Ỷ Thiên Kiếm ? Nếu là Triệu Mẫn, thì sao nàng ta phải làm như vậy ? Tại sao lại không giết hết mọi người để cho dứt hậu hoạn ?... Rất nhiều rất nhiều nghi vấn làm cho người đọc phải nóng lòng theo dõi miết mà quên cả ngủ nghê ăn uống !

     Kim Dung còn có thủ pháp tạo sự nghi ngờ như đánh đố để cho người đọc đoán già đoán non với những tình tiết mập mờ, khi mờ khi tỏ, khi tối khi sáng. Trong cái nghi ngờ lớn có cái nghi ngờ nhỏ, như trong truyện "Hiệp Khách Hành"...
     Bài thơ "Hiệp Khách Hành và Thái Huyền Kinh" trong các hang đá trên Đảo Hiệp Khách là cái gút mắt đánh đố lớn nhất của câu truyện, làm phát sinh những gút mắt đánh đố nhỏ tiếp theo sau đó để tạo nên diễn tiến của câu truyện. Vì không giải mã được các bí kíp võ công trong hang động trên Đảo Hiệp Khách, nên Long Mộc nhị Đảo Chủ mỗi mười năm mới cho hai sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đi mời các Chưởng Môn, Bang Chủ, Người đứng đầu của các phe phái võ lâm về Đảo để ăn Cháo Lạp Bát và cùng nghiên cứu võ công trên vách trong hang động. Nhưng các Bang Chủ Chưởng Môn đều có đi mà không có về, vì ai nấy đều mãi mê nghiên cứu võ công, khi chưa giải mã được các bí kíp thì đều không chịu rời đảo. Nên hễ đáo hạn mười năm là võ lâm lại xôn xao về chuyện Thưởng Thiện Phạt Ác. Vì thế mà Trường Lạc Bang mới bóc đại một tên Cẩu Tạp Chủng lấy tên là Thạch Phá Thiên lên làm Bang Chủ vì có dung mạo giống hệt như là Thạch Trung Ngọc, một hoa hoa công tử chuyên ăn chơi và tán gái được đưa lên làm Bang Chủ trước đó để nạp mạng cho Đảo Hiệp Khách. Những gì mà tên bại hoại Thạch Trung Ngọc làm thì tên Cẩu Tạp Chủng Thạch Phá Thiên đều phải lảnh hậu quả, tạo nên nhiều chuyện ngỡ ngàng tréo ngoe khó mà phân biệt được thân thế của hai nhân vật nầy. Đưa đến mối tình tay ba trước đây giữa Hắc Bạch Song Kiếm Thạch Thanh, Mẫn Nhu và Mai Phương Cô, cũng như mối tình tay ba giữa Uy Đức Tiên Sinh Bạch Tự Tại, Sử Tiểu Thuý và Đinh Bất Tứ... Tình tiết phức tạp cái nọ xọ cái kia. Đến kết cục, Kim Dung cũng chỉ giải quyết có nửa vời khi cho mẹ nuôi của Cẩu Tạp Chủng là Mai Phương Cô tự vẫn, khi Cẩu Tạp Chủng Thạch Phá Thiên chưa kịp hỏi về thân thế của mình; Nên chỉ có Thạch Phá Thiên là còn thắc mắc :"Cha ta là ai ? Mẹ ta là ai ? và TA là AI đây ?" Nhưng mọi người đều tự hiểu ngầm rằng Thạch Phá Thiên là anh em sinh đôi với Thạch Trung Ngọc và đều là con của Hắc Bạch Song Kiếm Thạch Thanh và Mẫn Nhu.


     Cái đánh đố lớn nhứt, phức tạp nhứt mà cũng lý thú nhất là Thân thế của ba nhân vật chính trong truyện "Thiên Long Bát Bộ 天龍八部".

     * ĐOÀN DỰ 段譽 : là một thư sinh vương tử của Đoàn Hoàng Gia nước Đại Lý, không biết võ công nhưng hay lo chuyện bao đồng, lấy đạo lý làm người để giảng cho những vũ phu chỉ biết lộng đao múa kiếm. Cũng chính vì tính chính nghĩa của chàng thư sinh gàn bát sách mà lại đánh động lòng yêu thương cảm mến của các cô gái đẹp mới lớn như Chung Linh, Mộc Uyển Thanh... Nhưng vì ông cha Đoàn Chính Thuần phong lưu hết mực, đi đến đâu là có người yêu đến đó, nên tất cả những cô gái mà Đoàn Dự cảm mến đều là em gái cùng cha khác mẹ với mình, kể cả người mà Đoàn Dự gọi là "Thần Tiên Tỉ Tỉ" Vương Ngọc Yến (sau Kim Dung đổi tên thành Vương Ngữ Yên) mà Đoàn Dự yêu chết mê chết mệt, đeo đuổi vất vả lắm mới được nàng yêu lại. Nhưng sau nầy phát hiện ra cũng là em gái cùng cha khác mẹ với mình, thì chàng ta lại thất vọng muốn buông xuôi tất cả kể cả tính mạng của mình. May mà nhờ Kim Dung... tháo gở cho ở nước chót ! Thì ra, mẹ của Đoàn Dự là Vương Phi Đao Bạch Phụng vì giận chồng quá hào hoa phong nhã, nên đi lấy một tên ăn mày dơ dáy để... trả thù. Nào ngờ tên ăn mày đó chính là Thái Tử Đoàn Diên Khánh bị thương vì loạn quân làm phản. Thế là theo phong tục tập quán của nước Đại Lý lúc bấy giờ (và có lẽ cho đến hiện nay?!) Dù là anh em chú bác hai đời nhưng không cùng cha cùng mẹ thì đều lấy nhau được cả !
    
    * KIỀU PHONG 喬峰 (sau nầy là TIÊU PHONG 蕭峰) : Thân thế của Kiều Phong là một bi kịch lớn cho đến hồi kết thúc. Trúng gian kế của Mộ Dung Bác, quần hùng Trung nguyên giết nhầm gia đình Tiêu Viễn Sơn. Là người Khất Đan, nhưng Kiều Phong lớn lên và thành Bang chủ của Cái Bang ở Trung nguyên. Vì là một bản sắc anh hùng chỉ chú trọng kết giao bằng hữu nên lơ là với tấm tình si của Mã Phu Nhân Khang Mẫn, mới bị người đàn bà dâm ác nầy làm cho thân bại danh liệt, và còn hại cho A Châu người yêu của Kiều Phong phải chết dưới chính tay của Kiều Phong. Truy tìm Thủ lĩnh đại ca, thì những người biết việc nầy đều bị giết hại. Khi vỡ lẽ ra, thì người giết hại những người đó lại chính là cha ruột của mình. Sau cùng mặc dù là Nam Viện Đại Vương của nước Đại Liêu nhưng luôn luôn muốn cho dân hai nước được chung sống hòa bình, không muốn dấy động can qua, nên đành phải hy sinh một cách oanh liệt hào hùng ở ngoài cửa ải Nhạn Môn Quan.

    * HƯ TRÚC 虛竹 : là một hòa thượng trẻ thuôc đời thứ ba của Thiếu Lâm Tự. Qua sự kết giao với Đoàn Dự và Tiêu Phong thân thế mới được từ từ lộ ra. Giải thích luôn là  tại sao Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương lại hay bắt con của người khác nựng nịu xong thì lại giết đi. Giải mã tại sao Hư Trúc vừa sanh ra thì đã làm hòa thượng rồi. Thông qua Tiêu Dao Tử, Thiên Sơn Đồng Mỗ, Lý Thu Thủy, Công Chúa Tây Hạ... làm cho nhà sư HƯ TRÚC phải hoàn tục thành HƯ TRÚC TỬ 虛竹子 và là Phò Mã của nước Tây Hạ hưởng trọn vẹn vinh hoa phú qúy mà trước đó có nằm mơ nhà sư Hư Trúc cũng không bao giờ dám nghĩ đến !

      Ba câu truyện, ba thân thế, ba hoàn cảnh sống được Kim Dung sắp xếp cho hòa quyện vào nhau, hô ứng nhau một cách chặc chẽ tạo nên một truyện võ hiệp không tiền khoáng hậu đầy đủ cả Tham Sân Si, lục dục thất tình, ân oán giang hồ với những võ công tuyệt thế làm nền cho những câu truyện sau nầy như Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp của Cái Bang; Nhất Dương Chỉ của Đoàn Hoàng Gia vẫn còn âm hưởng ở các truyện "Xạ Điêu Anh Hùng Truyện" và "Thần Điêu Hiệp Lữ" sau nầy !

Đỗ Chiêu Đức - 杜紹德

4/15/23

Giai thoại văn chương : LÝ HẬU CHÚA với bài từ NGU MỸ NHÂN

Tống Từ : 
LÝ HẬU CHÚA với bài từ NGU MỸ NHÂN
 
Lý Hậu Chúa và bài từ Ngu Mỹ Nhân

LÝ DỤC 李煜 (937-978), vua của nước Nam Đường trong thời Ngũ Đại Thập Quốc (907-979), tự là Trùng Quang, hiệu là Chung Ẩn, Liên Phong Cư Sĩ, người đất Bành Thành. Ông là con trai thứ 6 của Đường Nguyên Tông Lý Cảnh 唐元宗李璟, lên ngôi từ năm 961 đến năm 975 thì mất nước, sử gọi là Lý Hậu Chúa 李後主. 

Năm Khai Bảo thứ 8, quân Tống công phá kinh đô của Nam Đường, Lý Dục đầu hàng, bị bắt về an trí ở thành Biện Lương và được phong là Vi Mệnh Hầu (vị Hầu tước Trái mệnh Vua) vì trước đó ông đã đóng cửa thành để chống lại vua Tống. Sau vì cảm tác bài từ nổi tiếng 《Ngu Mỹ Nhân 虞美人》để nhớ về cố quốc mà bị Tống Thái Tông ban thuốc độc giết chết. 

Lý Hậu Chúa tuy thất bại về mặt chính trị, nhưng ông lại là một tài tử tài hoa tinh thông thư pháp, giỏi hội họa, rành âm luật, thi từ ca phú đều thuộc hàng siêu đẳng, nhất là về Từ. Ông được tôn xưng là “Thiên cổ từ đế 千古詞帝”. Có nghĩa : Là ông vua về Từ từ ngàn xưa tới nay.  
  
Theo bút ký trong "Mặc Ký 默記" của văn học gia đời Bắc Tống là Vương Chí ghi lại : Sau khi đã an trí Lý Hậu Chủ ở thành Biện Lương và phong cho tước Vi Mệnh Hầu rồi. Một hôm Tống Thái Tông triệu kiến cưụ thần của Nam Đường là Từ Huyền để chất vấn về việc có thường xuyên liên lạc với Lý Hậu Chúa hay không. Từ Huyền vô cùng sợ hãi bảo là không có lệnh vua nên không dám đến thăm chúa cũ. Tống Thái Tông bèn ra lệnh cho Từ Huyền đến thăm Lý Dục để thoả lòng tôi chúa cũ. 

Khi gặp Từ Huyền, Lý Hậu Chúa đã cất tiếng khóc to mà than rằng : Vì không nghe theo lời khuyên của Phan Hựu và Lý Bình chấn chỉnh triều chính, chỉnh đốn binh mã nên mới đưa đến tình trạng mất nước như hiện nay. Khi trở về phục mệnh, Từ Huyền đã không dám giấu giếm  đem những lời than ấy mà kể lại với vua Tống; nên Tống Thái Tông đã sinh lòng muốn sát hại Lý Dục. Vào đêm Thất Tịch của năm đó (mùng 7 tháng 7 Âm lịch) cũng là ngày sinh của Lý Hậu Chúa, lúc bấy giờ là Vi Mệnh Hầu vì cảm khái cho thân phận mất nước của mình, ông đã sáng tác bài từ "Ngu Mỹ Nhân 虞美人" và cho các ca nhi hát trong buổi tiệc sinh nhật của mình để bộc bạch lòng nhớ thương về cố quốc năm xưa. Tống Thái Tông biết chuyện, nổi giận ban rượu độc bắt ông phải quyên sinh. Bài từ chết người đó bèn được nổi tiếng và lưu truyền rộng rãi trong dân gian và mãi cho đến hiện nay. 

Ta hãy cùng đọc bài từ đau lòng của kẻ mất nước này nhé !
               花秋月何時了?            Xuân hoa thu nguyệt hà thời liễu?
              往事知多少?              Vãng sự tri đa thiểu?
              小樓昨夜又東風,       Tiểu lâu tạc dạ hựu đông phong,
              故國不堪回首月明中。 Cố quốc bất kham hồi thủ nguyệt minh trung.
              雕欄玉砌應猶在,       Điêu lan ngọc thế ưng do tại,
              只是朱顏改,              Chỉ thị chu nhan cải.
              問君能有幾多愁?       Vấn quân năng hữu kỷ đa sầu?
              恰似一江春水向東流!   Cáp tự nhất giang xuân thủy hướng đông lưu!
Ý bài từ là :
      Cái cảnh hoa của mùa xuân và trăng của mùa thu là cảnh đẹp nhất trong năm, sẽ hiển hiện mãi hằng năm. Nhưng đối với ta thì cảnh hoa xuân trăng thu này bao giờ sẽ chấm dứt đây ? Biết bao nhiêu là chuyện tốt đẹp cũ đã đi qua (một cách oan uổng). Nay thì, trong căn lầu nhỏ này, tối hôm qua gió xuân lại thổi như nhắc nhở đến thuở xa xưa. Nhưng cố quốc đâu rồi ? Ta khó có thể quay đầu nhìn lại đất nước xưa trong cảnh trăng sáng đẹp như thế này. Ôi, thềm ngọc lan can trạm trổ dát ngọc xinh đẹp (ý chỉ Cung vàng Điện ngọc) năm xưa chắc vẫn còn đó. Chỉ là những người trẻ trung của thuở đó thì dung nhan đã thay đổi cả rồi ! Thử hỏi xem qua bao tang thương sao dời vật đổi thế kia, lòng bạn đã phát sinh được bao nhiêu mối sầu ? Và vô số những mối sầu đó như là những dòng sông xuân tất cả đều tuôn chảy về biển đông rồi mất hút luôn không bao giờ trở lại được nữa !

     Qủa là tâm sự não lòng của một đấng quân vương mất nước, lòng luôn canh cánh nhớ về thuở vàng son của quá khứ xa xưa mà nuối tiếc, sầu muộn, ưu phiên... rồi trải lòng qua những lời từ diễm lệ ưu sầu...

                   Xuân hoa thu nguyệt thuở nào vơi ?
                   Chuyện cũ biết bao rồi ?
                   Lầu nhỏ đêm qua gió xuân thổi,
                   Nước cũ đau lòng, quay đầu chỉ thấy bóng trăng trôi !
                   Cung vàng điện ngọc vẫn còn thôi,
                   Chỉ tuổi xuân qua rồi !
                   Hỏi người bao nả sầu vong quốc ?
                   Tựa như một dòng xuân thủy hướng đông trôi !
   Lục bát :
                  Xuân hoa thu nguyệt hết rồi !
                  Bao nhiêu chuyện cũ bồi hồi lòng ta.
                  Gió xuân lầu nhỏ đêm qua,
                  Nặng lòng cố quốc xót xa hồi đầu.
                  Cung vàng điện ngọc nay đâu,
                  Dung nhan đã đổi theo mầu thời gian.
                  Biết bao sầu muộn miên man...
                  Tuôn theo dòng nước ngút ngàn về đông !
                                                          Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

      Nặng lòng với cố quốc là thế, đau lòng với cảnh trí trước mắt là thế, chả trách Tống Thái Tông sau khi nghe bài từ của ông đã phải lo lắng, kinh sợ, nên đã quyết định ban rượu độc để giết chết ông hầu chấm dứt đi mối lo hậu hoạn sau nầy.
    Nặng lòng với cố quốc là thế, đau lòng với cảnh trí trước mắt là thế, chả trách Tống Thái Tông sau khi nghe bài từ của ông đã phải lo lắng, kinh sợ, nên đã quyết định ban rượu độc để giết chết ông hầu chấm dứt đi mối lo hậu hoạn sau nầy.
 
Lý Hậu Chúa và bài từ Tương Kiến Hoan

                
無言獨上西樓,                Vô ngôn độc thướng tây lâu,
             月如鉤。                        Nguyệt như câu.
             寂寞梧桐深院鎖清秋。       Tịch mịch ngô đồng thâm viện toả thanh thu.
             剪不斷,理還亂,是離愁。 Tiễn bất đoạn, lý hoàn loạn, thị ly sầu.
             別是一般滋味在心頭。       Biệt thị nhất ban tư vị tại tâm đầu !  
Ý bài từ là :
          Cô thân chiếc bóng, lặng thinh chẳng một lời nào, rảo bước lên lầu phía tây. Ngẩn đầu nhìn lên chỉ thấy một vầng trăng lưỡi liềm cô độc. Cuối đầu nhìn xuống chỉ thấy bóng của cây ngô đồng lặng lẽ đứng trong sân đình bị bao phủ bởi hơi thu lạnh lẽo. Lòng ta đang rối loạn với một nỗi sầu cắt cũng không đứt, bứt cũng không rời, đó là nỗi ly sầu của người vong quốc. Qủa là có một nỗi niềm riêng cứ vương vấn mãi ở trong lòng !

                     Âm thầm lặng lẽ bước lầu tây,
                     Như móc câu, bóng nguyệt gầy !
                     Lặng lẽ ngô đồng trong sân vắng...
                     Hơi thu mát lạnh gợi niềm tây,
                     Cắt chẳng đứt, bứt chẳng rời, sầu vong quốc là đây.
                     Nỗi lòng chan chứa vơi đầy !
      Lục bát :
                     Một mình rảo bước lầu tây,
                     Ngẩn trông một mảnh trăng gầy cong cong.
                     Trong sân lặng lẽ ngô đồng,
                     Hơi thu mát lạnh cõi lòng đầy vơi.
                     Cắt không đứt, bứt không rời,
                     Nỗi sầu vong quốc ai người hiểu cho !
                                                                Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

       Đối với non sông đất nước, Lý Hậu Chúa là một hôn quân bất tài vong quốc, nhưng trên thi đàn thì ông xứng đáng là một ông vua muôn thuở của giới ca từ, chả trách ông được sử sách tôn xưng là "Thiên cổ từ đế 千古詞帝" (Ông Vua Từ của ngàn đời).

Lý Hậu Chúa qua điện ảnh

Bài từ NGU MỸ NHÂN 虞美人: Ngu Mỹ Nhân tức là Ngu Cơ 虞姬, người hầu thiếp đẹp đẽ của Sở Bá Vương Hạng Võ 楚霸王項羽. Nhưng là tên của một khúc hát trong giáo phường; và cũng là tên của một loại Từ Loại 詞類 thịnh hành ở đời Tống. 
        Từ khóa Ngu Mỹ Nhân còn có những tên khác như《Ngu Mỹ Nhân Lệnh 虞美人令》、《Ngọc Hồ Băng 玉壶冰》、《Nhất Giang Xuân Thủy 一江春水》... Có rất nhiều bài từ có tựa là Ngu Mỹ Nhân, nên sau từ NGU MỸ NHÂN thường phải kèm theo một câu hoặc một vế của câu đâu bài từ đó để phân biệt với bài từ Ngu Mỹ Nhân của các tác giả khác. Ví dụ : Trong bài này là "NGU MỸ NHÂN, XUÂN HOA THU NGUYỆT 虞美人·春花秋月" Ngoài ra ta còn có :
      - "NGU MỸ NHÂN. Ngọc câu loan trụ điều anh vũ" của Phùng Diên Tỵ đời Đường 唐·冯延巳《虞美人·玉钩鸾柱调鹦鹉》.
      - " NGU MỸ NHÂN. Phong hồi tiểu viện đình vu lục" cũng của Nam Đường Lý Dục南唐·李煜《虞美人·风回小院庭芜绿.
      - " NGU MỸ NHÂN. Thuật Hoài" của Tô Thức (Tô Đông Pha) đời Bắc Tống.北宋·苏轼《虞美人·述怀》
      - " NGU MỸ NHÂN. Bích Đài Thiên Thượng Tài Hòa Lộ" của Tần Quan đời Bắc Tống 北宋·秦观《虞美人·碧桃天上栽和露》
      - " NGU MỸ NHÂN. Đồng Phụ Kiến hòa Tái dụng vận Đáp Chi" của Tân Khí Tật đời Nam Tống 南宋·辛弃疾《虞美人·同父见和再用韵答之》
        .....................................

      Giống như bài ca cổ "LÝ CON SÁO" của ta vây : 

     - "LÝ CON SÁO" trong Truyện tình Lan và Điệp. "
     - "LÝ CON SÁO" trong tuồng Phạm Công Cúc Hoa.
     - "LÝ CON SÁO" trong tuồng Thoại Khanh Châu Tuấn.....

      Nói chung, NGU MỸ NHÂN trong từ là tên của một từ loại, toàn bài có 8 câu có thể là 56 hoặc 58 chữ và gieo cả hai vần Bằng và vần Trắc. Nhưng vì cái bóng của Lý Hậu Chúa qúa lớn, nên hễ nhắc đến ba chữ "NGU MỸ NHÂN" là người ta lại nghĩ ngay đến bài "Xuân hoa thu nguyệt hà thời liễu" ngay, vì...
       Đó là bài từ tiêu biểu nhất cho Lý Hậu Chúa Lý Dục và cũng là bài từ đoạt mệnh của vị vua tài hoa rất mực nầy.

Đỗ Chiêu Đức 杜紹德

4/8/23

Thủy là nước

 
 Nước là chất lỏng có ký hiệu hóa học là H₂O, từ Hán Việt là Thủy 水, thuộc dạng chữ Tượng Hình trong Chữ Nho... Dễ Học, được hình thành theo diễn tiến của chữ viết như sau:

Giáp Cốt Văn, Kim Văn, Kim Văn Đại Triện, Tiểu Triện, Phồn thể Lệ thư

Ta thấy:

Từ Giáp Cốt Văn cho đến Đại, Tiểu Triện đều là hình tượng của một dòng nước, 4 chấm 2 bên là tượng trưng cho dòng nước đang chảy. Cho nên, có nước là có dòng nước chảy, như suối, khe, sông, biển... và nơi nào có suối, khe, sông, biển là nơi đó có nguồn sống, có dân cư. Cái quần thể dân cư nầy sinh sống phát triển là nhờ dựa vào nguồn nước. Cho nên ông bà ta có câu "Uống nước phải nhớ nguồn", và có phải vì thế mà dân ta gọi một Quốc Gia là Một Nước? Không có nước sẽ không có người sinh sống và cũng sẽ không có quốc gia nào hình thành được cả!
Nước mất thì nhà tan, quốc phá thì gia vong! Không có nước sẽ không có nhà, mà không có Nhà thì cũng không thành... Nước! Cho nên, ta lại có từ Nhà Nước để chỉ Chính Quyền của một Quốc Gia.

Nước là thủy, thủy là nước. Bên dòng nước là bên dòng sông, nên thủy cũng là sông, như Hương Giang còn gọi là dòng Hương Thủy; tương tự, Tương Giang cũng gọi là Tương Thủy như trong bài thơ "Tảo hàn giang thượng hữu hoài" của Mạnh Hạo Nhiên đời Đường:

我家襄水曲, Ngã gia Tương Thủy khúc,
遥隔楚云端. Dao cách Sở vân đoan.

Có nghĩa:

Sông Tương quê cũ vời trông,
Ngẩn ngơ mây Sở cách ngăn mấy lần.

H₂O là phân tử nước do 2 nguyên tử Hidro và 1 nguyên tử oxy kết hợp mà thành, đó là theo công thức Hóa học. Còn theo Âm Dương Ngũ Hành của Kinh Dịch thì Kim sanh Thủy. Nước là do... vàng sinh ra, và theo một câu trong sách Thiên Tự Văn 千字文 là Kim Sanh Lệ Thủy 金生麗水. Có nghĩa: Khi vàng bị nung chảy thì trở thành một chất lỏng lắp lánh đẹp đẽ. Nhưng căn cứ vào thực tế thì không phải như thế, vì chất lỏng lóng lánh của vàng sẽ rất nhanh đong cứng lại thành chất rắn của kim loại. Nên...
Kim Sanh Lệ Thủy ở đây là chỉ dòng sông Kim Sa Giang ở tỉnh Vân Nam thuộc nước Sở thời Chiến Quốc. Vì có rất nhiều cát vàng ở trong lòng sông, nên nước sông lấp lánh rất đẹp, vì thế mà dân chúng mới gọi Kim Sa Giang 
金沙江 là Lệ Giang 麗江 hay là dòng Lệ Thủy 麗水, là dòng nước đẹp! Đẹp vì cái Thần của con sông là vàng là Kim, nên chi vị Thủ Tướng đầu tiên của nước Việt Nam ta là cụ Trần Trọng Kim mới lấy hiệu là Lệ Thần, là cái Thần của dòng sông Lệ, chính là Kim đó vậy!

 Nội các của Thủ Tướng Lệ Thần Trần Trọng Kim

Trong mùa xuân thì nước gọi là Xuân Thủy. Từ những băng tuyết trên nguồn tuôn chảy thành những khe suối trong veo vào mùa xuân, rồi chảy thành những dòng sông len lỏi qua thôn xóm mang lại nguồn sống cho dân cư, như trong thơ của Đỗ Phủ:

一徑野花落, Nhất kính dã hoa lạc,
孤村春水生.    Cô thôn xuân thủy sinh.

Có nghĩa:

Bên đường hoa dại rụng đầy,
Nước xuân trong vắt đâu đây xóm nghèo.

Nước xuân trong vắt như ánh mắt của các cô thôn nữ mộc mạc ngây thơ như lời thơ của Thôi Ngọc trong Đường Thi:

两臉夭桃從镜發, Lưỡng kiểm yêu đào tòng kính phát,
一眸春水照人寒。 Nhất mâu xuân thủy chiếu nhân hàn.

Có nghĩa:

Má đào ửng đỏ trong gương
Một làn xuân thủy vấn vương lòng người.

Xuân thủy là ánh mắt xuân của các cô gái ngây thơ trong trắng, khác với thu thủy là ánh mắt gợn buồn đa sầu đa cảm của các giai nhân tài hoa bạc mệnh như Thúy Kiều:

Làn Thu Thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh!

Thu Thủy là nước mùa thu, trong veo, lạnh lùng mà se sắt dễ làm rung động và cũng dễ làm tê tái lòng người.

Theo Âm Dương Ngũ Hành, thủy thuộc cung Hợi và Tý, có màu đen và nằm ở phương Bắc. Bắc phương Nhâm Quý Thủy mà! Nên, ở Bắc bán cầu nầy, thường các dòng sông đều phát nguyên từ vùng Tây Bắc và chảy về hướng Đông Nam mà đổ ra biển theo như một câu nói xưa:

世間無水不朝東. Thế gian vô thủy bất triều đông.

Có nghĩa:

Trên đời nầy không có dòng nước nào mà không chảy về hướng Đông cả!

Hãy nghe Lý Bạch mở đầu bài Tương Tiến Tửu bằng câu:

君不見     Quân bất kiến
黃河之水天上來,奔流到海不復回? Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi?

Có nghĩa:

Bộ bạn không thấy sao, nước sông Hoàng Hà như từ trên trời đổ xuống, chảy cuồn cuộn về biển rồi không quay trở lại nữa?

Nước chảy cuồn cuộn mất hút vào biển đông, cũng như thời gian cứ vùn vụt mất hút về qúa khứ, cho nên ông viết tiếp:

人生得意須盡歡, Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
莫使金樽空對月。 Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!

Có nghĩa:

Đời người đắc ý nên vui thích,
Chớ để chai vàng hết dưới trăng!

Có dịp vui chơi đắc ý thì hãy vui cho đến cùng, đừng để cho cụt hứng nửa chừng mà hết rượu dưới ánh trăng còn đang vằng vặc!

Khác với Tản Đà trong "Thề Non Nước" vì không phải "Nước đi đi mãi không về cùng non", mà...

Nước đi ra bể lại mưa về nguồn,

để cho...

Nước non hội ngộ luôn luôn.

và ...

Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề!

"Thề Non Nước" là Hải thệ sơn minh, là "Thề non hẹn biển". Biển và Non cũng là thế thân của Non và Nước. Nhưng Non và Nước sống động hơn, khắng khít hơn với cái vòng tròn hóa thân của nước, nước chảy ra bể bốc hơi rồi lại mưa về nguồn với non xanh đang mỏi mòn chờ đợi!

Nước là nguồn tươi mát mang lại sức sống cho con người và vạn vật. Không có nước con người sẽ khô cằn, cỏ cây sẽ héo úa. Nước đem sinh khí đến cho muôn loài. Nên trong ca dao dân gian của ta mới ví:

Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra!

Nước trong nguồn chảy ra thì không bao giờ cạn kiệt, cũng như tình mẹ bao la không bờ không bến vậy. Sự mát mẻ của nước còn được ví như trong đêm thanh vắng, êm ả dịu dàng như câu thơ của Đỗ Mục trong bài Thu Tịch:

Thiên giai dạ sắc lương như thủy 天街夜色涼如水

Có nghĩa:

Đường phố trong Kinh thành lúc về đêm cũng mát mẻ như nước vậy.

Trong đêm thanh vắng, nước là những giọt sương khuya mờ ảo mát lạnh mà nên thơ, làm cho lòng người lâng lâng như 2 câu thơ toàn là thanh bằng trong bài Nhị Hồ của Xuân Diệu:

... Sương ngưng theo trăng ngừng lưng trời,
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi!...

Nước được ví như những tình cảm nhe nhàng, tình yêu nồng thắm làm mát dịu tâm hồn với thành ngữ Nhu Tình Tự Thủy 柔情似水 êm ái mát mẻ như nước hồ thu làm say đắm lòng người, nhẹ nhàng trôi chảy như những dòng sông dài êm đềm về tận chốn xa xăm:

Sông dài cá lội biệt tăm,
Phải duyên phu phụ ngàn năm em cũng chờ...

Nhưng lắm khi...

Lạc hoa hữu ý mà lưu thủy lại vô tình, làm cho lỡ dở mộng ngày xanh, lỡ làng duyên cá nước! Như lời than thở của cô gái xóm Đông:

Cây đa trốc gốc, thợ mộc đương cưa
Anh với em bề ngang cũng xứng, bề đứng cũng vừa
Bởi tại cha với mẹ kén lừa sui gia

"Kén lừa sui gia" nên để lỡ làng "duyên cá nước!"

Nhắc đến duyên cá nước lại nhớ đến câu Như Ngư Đắc Thủy 如魚得水 với tích của Lưu Bị trong Thục Thư thời Tam Quốc:
Lúc bấy giờ, Lưu Bị đang nương nhờ vào Lưu Biểu ở Kinh Châu, đóng quân ở Tân Dã để cầm cự với quân Tào Tháo. Nhờ sự tiến cử của Từ Thứ và lòng thành của Lưu Bị phải Tam cố thảo lư 三顧草廬 (3 lần đến cầu cạnh ở gian nhà cỏ nơi Ngọa Long Tiên Sinh ở) mới gặp được mặt Khổng Minh Gia Cát Lượng, bất chấp sự phản đối quyết liệt của Quan Vũ và Trương Phi. Lưu Bị nói rằng: "Cô chi hữu Khổng Minh, do ngư chi hữu thủy dã 孤之有孔明,猶鱼之有水也 ". Có nghĩa: "Ta mà có được Khổng Minh, thì như là cá mà gặp được nước vậy!". Khiến cho Quan Trương 2 người đành im hơi, không dám phản đối nữa!

Tam cố thảo lư

Còn "Cá Nước" bây giờ thường được dùng để chỉ về duyên đôi lứa, tình yêu trai gái khi gặp được đối tượng xứng ý vừa lòng:

Đôi ta như lúa đòng đòng,
Như cá gặp nước thỏa lòng mẹ cha.

hoặc...

Tình anh như nước lên cao,
Tình em như cá lội vào nước anh...

Nước là Thủy, đi với Sơn thì thành Sơn Thủy 山水, mà Sơn Thủy là... Phong cảnh. Nhớ hồi nhỏ đến rạp hát xem các họa sĩ vườn vẽ phong cho gánh hát, bà con cứ nói là: "Đi coi người ta vẽ Sơn Thủy!". Thực tế thì phong cảnh cũng phải có sơn có thủy có núi có nước thì mới đẹp, và ít nhất thì cũng phải có nước, phải có những dòng sông con rạch với những ngọn dừa lả bóng như đồng bằng sông Cửu Long thì mới là cảnh đẹp được! Trong văn chương cổ điển thì ca ngợi cảnh đẹp bằng Sơn Minh Thủy Tú 山明水秀, Thanh Sơn Lục Thủy 青山綠水, là non xanh nước biếc như trong ca dao của ta:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Ai vô xứ Nghệ thì vô!

Khi Dương Quý Phi bị bức tử ở Mã Ngôi Pha rồi, Đường Minh Hoàng chỉ còn lại một mình chạy vào đất Thục, mà lòng vẫn không nguôi thương nhớ đến Dương Phi. Bạch Cư Dị đã viết trong Trường Hận Ca là:

Thục giang thủy bích Thục sơn thanh,     蜀江水碧蜀山青,
Thánh chúa triêu triêu mộ mộ tình!         聖主朝朝暮暮情。

Có nghĩa:

Sông Thục kia nước xanh biêng biếc,
Núi Thục kia biêng biếc non xanh.
Ngày sầu đêm thức năm canh,
Não lòng thánh chúa tình thành chiêm bao!

Nước ướt át là thế, tình tứ là thế, dịu dàng là thế. Thế nhưng, khi gặp phải phong ba bão tố thì nước lại trở nên cuồng nộ hung hăng, nhấn chìm tất cả xuống lòng sông, lòng biển, lòng đại dương một cách vô tình không thương xót.
Người con gái chết đuối đầu tiên thời thượng cổ là con gái của Viêm Đế : Nữ Oa (Trung Hoa cổ xưa gọi các cô gái chưa chồng là Nữ Oa, như ta gọi các cô gái con của vua Hùng là Mỵ Nương vậy). Trong một lần đi chơi ở biển đông, Nữ Oa đã bị chết bởi một trận ba đào cuồng nộ. Ức lòng vì chết trẻ, hồn Nữ Oa đã hóa thành con chim Tinh Vệ, hàng ngày tha sỏi đá cỏ cây để lấp bằng biển đông cho hả giận.
Trong Truyện Kiều lúc lập đàn tế Thúy Kiều trên sông Tiền Đường, cụ Nguyễn Du cũng đã mượn tích nầy để tả nỗi oan khiên của cô Kiều:

Tình thâm bể thảm lạ điều,
Nào hồn Tinh Vệ biết theo chốn nào?

Trong truyện Sãi Vãi, khi bàn về chữ Muốn, cụ Nguyễn Cư Trinh cũng cho ông Sãi nói rằng:

Đá Tinh Vệ muốn lấp sao cho cạn biển,
Đất nghĩ phù muốn đắp để nên non...


Đá Tinh Vệ muốn lấp sao cho cạn biển,

Không phải chỉ riêng chim Tinh Vệ, mà những người Việt Nam vượt biên tìm tự do sau 1975 cũng muốn lấp cho cạn biển Đông, cũng như những người Syria tị nạn hiện nay muốn lấp cho cạn Địa Trung Hải vậy. Nước đã nhấn chìm biết bao sinh linh, biết bao là hy vọng, biết bao niềm mơ ước để đến được bến bờ tự do, để đến được miền đất hứa, để xây dựng một cuộc sống mới trong hòa bình thịnh vượng. Hết ý thức hệ rồi lại đến chiến tranh khủng bố làm rối loạn, xáo trộn cuộc sống yên bình của cư dân địa cầu, và... để cho nước lại có dịp dìm chết những dân thường vô tội, vì chẳng đặng đừng mới phải bỏ quê Cha đất Tổ, nơi chôn nhau cắt rốn để ra đi!

Hơn 2000 năm trước, Tuân Tử đã ghi lại lời nói giữa Khổng Tử và Lỗ Ai Công là: Quân dã, chu dã; thứ nhân dã, thủy dã. Thủy tắc tải chu, thủy tắc phúc chu. 君者,舟也;庶人者,水也。水則載舟,水則覆舟. Có nghĩa: "Vua là thuyền, dân là nước. Nước có thể chở thuyền thì nước cũng có thể lật thuyền". Đó là 2 mặt của nước, khi bình thường trôi chảy thì nước có thể chở thuyền đi muôn ngàn dặm; còn lúc ba đào dậy sóng thì nước sẽ nhấn chìm thuyền trong chớp mắt mà thôi. Nếu biết lợi dụng cái ưu thế "Nước" của mình, thì tất cả những dân tị nạn sẽ không phải bỏ đi đâu cả, cứ nhấn chìm cái "Thuyền" mình đang chở là được ngay!
Nhưng, thực tế cũng đâu phải dễ, vì muốn cho thuyền chìm thì nước cần phải có cuồng phong yểm trợ, không có gió to thì nước làm sao có thể dậy sóng để nhấn chìm thuyền cho được!
Nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền.

Nước mang đến cái lợi mà cũng mang đến tai họa nữa. Cái lợi do nước mang đến cho con người gọi là Thủy Lợi 水利. Trước tiên, nước là thức uống không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Ta có thể ba ngày không ăn chớ không thể 3 ngày không uống nước. Nước dùng để tưới tiêu, nước dùng để tắm gội, nước dùng để giặt giũ, nước dùng để nấu ăn... Cái Lợi của nước thật to lớn vô cùng, nhưng người đời thường chỉ biết  Thủy Lợi  là dẫn thủy nhập điền, là đưa nước vào với ruộng đồng cho tiện việc tưới tiêu, tăng gia sản xuất mà thôi... Thậm chí sau 1975, hễ nhắc đến từ  Thủy Lợi  là thanh niên ở thành thị đều xanh mặt, vì đi làm công tác Thủy Lợi là đi... Đào Đất!

Còn tai họa lớn nhất do nước đem đến là lũ lụt, là Thủy Họa 水禍. Nước lụt cuốn trôi tất cả nhà cửa, đồ đạc, xe cộ, trâu bò, gia súc... Ruộng đồng tan hoang, vườn tược xơ xác, nhà cửa điêu tàn... như đồng bào miền Trung của ta hằng năm phải gánh chiụ:

Trời rằng, trời hành cơn lụt mỗi năm,
Khiến đau thương thấm tràn ngập Thuận An...

Còn đồng bào Nam Kỳ Lục Tỉnh vùng An Giang Châu Đốc thì lạc quan hơn. Bà con gọi mùa lũ lụt hằng năm bằng "Mùa Nước Nổi". Mùa nước nổi cũng là mùa len trâu (đọc truyện của nhà văn Sơn Nam) bà con xoay qua đánh bắt thủy sản, mọi người đều hối hả đua nhau đặt dớn, bơi xuồng giăng câu, thả lưới... ai cũng vui đón mùa nước nổi về để được thưởng thức các món ngon như: Lẩu cá linh, canh chua nấu bằng bông điên điển, cá lóc bọc lá sen nướng hay chuột đồng nướng trui là những món đặc sản ngon nổi tiếng của Đồng Tháp trong mùa nước nổi.

Đặt dớn, bắt cá đặt trúm bắt chuột, lươn.

Cơn lụt lớn nhất của nhân loại là cơn Đại Hồng Thủy trong Thánh Kinh Cơ Đốc, nhưng cơn lụt để lại nhiều huyền thoại nhất là cơn Đại Hồng Thủy do sông Hoàng Hà gây nên, khiến Cổn phải bị tội vì suốt 9 năm mà không trị được thủy. Con ông Cổn là Hạ Vũ phải mất thêm mười ba năm đôn đốc toàn dân phá núi khai kinh dẫn nước từ cao xuống thấp, lại mở rộng thêm cửa sông cho nước chảy ra biển, mới chấm dứt được cơn hồng thủy, nên cửa biển mới được gọi là Vũ Môn, nơi mà theo tương truyền cá chép nào vượt qua được sẽ hóa thành rồng (nên còn gọi là Long Môn). Nhưng không phải con cá nào cũng muốn hóa rồng cả. Ta hãy nghe cô gái Nam Bộ hát trên sông nước như sau:

Khá khen con cá hóa long,
Hóa long không hóa, hóa lòng thương anh!

... quả là tình nghĩa thắm thiết biết bao nhiêu!

Trở lại chuyện Hạ Vũ trị thủy, trong quá trình làm cái công việc của một Công Trình Sư thủy lợi, tương truyền ông đã sáng chế ra Viên Quy 圓規 (compasses), Phương Củ 方矩 là Thước vuông góc (Rectangular) ta quen gọi là cái "Ê-Ke" (Không có Quy thì vẽ không Tròn, không có Củ thì kẻ không Vuông. Nên Quy Củ 規矩 là cái nguyên tắc phải tuân theo để làm việc, không có Quy Củ  規矩 sẽ bị méo mó mà chẳng làm nên cơm cháo gì cả!) và ông cũng quy định lại thước tấc để đo đạc và vẽ đường cho... nước chảy! 

Trong Tây Du Ký, Ngô Thứa Ân đã huyền thoại hóa cây thước nầy thành Cây Định Hải Thần Châm của Đông Hải Long Vương để dằn dưới rốn biển cho biển đừng dao động, bị Tề Thiên Đại Thánh Tôn Hành Giả lấy làm binh khí và gọi nó là Như Ý Kim Cô Bổng mà ta quen gọi là cây Thiết Bản của Tề Thiên, chính là cây thước đo đạc dùng để trị thủy của Hạ Vũ ngày xưa đó. Vì trị thủy mang lại cuộc sống ổn định cho dân chúng, nên mọi người tôn xưng ông là Đại Vũ大禹 (là ông  vĩ Đại: xin đừng nói lái) và vua Thuấn nhường ngôi cho ông để lập nên nhà Hạ. Nhà Hạ truyền được 471 năm, qua 17 đời vua, đến vua Kiệt 桀 vì si mê Muội Hỉ, hoang dâm vô độ, dân tình khốn khổ, nên bị Thành Thang tiêu diệt, lập nên nhà Thương.

Vua Vũ vì giúp dân trị thủy, thoát khỏi thảm họa do lũ lụt gây nên mà được nhường ngôi vua. Còn vua Kiệt 桀 vì ham mê nữ sắc mà mất ngôi vua, nên sử sách ví cái họa của nữ sắc như là cái họa do nước mang đến. Vì thế mà có thành ngữ Hồng Nhan Họa Thủy 紅顏禍水. Và cái Họa Thủy của Hồng Nhan nầy còn được chứng minh dài dài qua các triều đại kế tiếp, như...
Nhà Thương truyền được 526 năm, đến đời vua Trụ, vì si mê Đắc Kỷ giết hại công thần, mà bị Châu Võ Vương tiêu diệt, lập nên nhà Châu. Nhà Châu truyền 803 năm, đến đời U Vương lại vì si mê Bao Tự muốn cho nàng cười mà phải đốt Phong Hỏa Đài để gạt chư hầu rồi... bị mất vào tay nước Tần sau đó. Đến thời Chiến Quốc, Ngô vương Phù Sai cũng bị mất nước vì mê Tây Thi, Hạng Võ Sở Bá Vương cùng Ly Cơ tự vẫn trên bến Ô Giang, Đường Minh Hoàng vì Dương Quý Phi mà phải chạy loan An Lộc Sơn ẩn mình nơi đất Thục... Nên sử sách đều cho là Muội Hỉ, Đắc Kỷ, Bao Tự, Tây Thi, Ly Cơ, Dương Quý Phi... đều là Hồng Nhan Họa Thủy, mà không biết rằng tại các hôn quân đó quá... mê gái rồi tự làm cho mình mất nước, mắc cở và quê qúa nên mới đổ thừa cho Hồng Nhan là Họa Thủy! Nhưng...

Tứ đại yêu cơ (四大妖姬):
 Muội Hỉ, Đắc Kỷ, Bao Tự, Ly Cơ 

Họa Thủy thì họa thủy, thi sĩ thì vẫn cứ yêu người đẹp như thường, gần ba ngàn năm sau, Xuân Diệu đã viết:

Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi,
Tôi mê Ly Cơ hình nhịp nhàng,
Tôi muốn tôi là Đường Minh Hoàng,
Trong cung nhớ nàng Dương Qúy Phi!

*******

Sự thật thì "Đằng sau sự thất bại của người đàn ông, lúc nào cũng có bóng dáng của một người đàn bà!". Đây gần như là sự thật hiễn nhiên, không sai bao giờ!.

Nhưng dù cho thánh hiền, vua chúa, hiền nhân quân tử hay anh hùng hảo hán... gì gì đi nữa, thì cũng phải chịu chung cái quy luật của thời gian. Thời gian sẽ cuốn trôi và xóa nhòa tất cả như bài đề từ của Hứa Thận đời Minh cho quyển Tam Quốc Chí của La Quán Trung như sau:

滾滾長江東逝水,     Cổn cổn Trường Giang đông thệ thủy,
浪花淘盡英雄。         Lãng hoa đào tận anh hùng.
是非成敗轉頭空。     Thị phi thành bại chuyển đầu không.
青山依舊在,             Thanh sơn y cựu tại,
幾度夕陽紅。             Kỷ độ tịch dương hồng.
白髮漁樵江渚上,     Bạch phát ngư tiều giang chử thượng,
慣看秋月春風。         Quán khan thu nguyệt xuân phong.
一壺濁酒喜相逢。     Nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng.
古今多少事,             Cổ kim đa thiểu sự,
都付笑談中.                Đô phó tiếu đàm trung!

Nghĩa bài từ:

Sông Trường Giang sóng xô nước cuốn cuồn cuộn chảy về biển đông rồi không bao giờ còn trở lại nữa; cũng như biết bao anh hùng hào kiệt đều như hoa sóng kia tan biến biệt tăm và chịu đào thải theo dòng lịch sử. Bất luận là thị hay phi, là đúng hay sai, là thành hay bại, trong chớp mắt quay đầu nhìn lại thì đã không còn gì nữa. Chỉ có núi xanh vẫn như cũ đứng trơ gan cùng tuế nguyệt và nắng chiều vẫn biết bao lần hồng lên rồi chợt tắt. Những ông lão đốn củi và đánh bắt cá trên bến nước, họ đã quen rồi với thu nguyệt rồi lại xuân phong, thời gian cứ thế trôi đi. Nên khi gặp nhau thì cứ cùng vui với nhau bên chung rượu lạt. Biết bao nhiêu là chuyện lớn chuyện nhỏ trên đời nầy từ xưa đến nay, chẳng qua cũng chỉ là những chuyện nói cười trong lúc nhậu, là chuyện phiếm chuyện gẫu khi trà dư tửu hậu mà thôi!

Thật là cảm khái! Tam Quốc Chí chẳng những viết lại lịch sử, mà còn viết lại những cuộc đời anh hùng, sự chìm nổi hưng suy của anh hùng, cái khí thế và khí phách của anh hùng, cái thành công và thất bại của anh hùng, cuối cùng đều phải chịu chung sự đào thải vô tình của thời gian và lịch sử. Lịch sử đã sang trang, thời gian đà biền biệt, rốt cuộc họ còn được gì? Chẳng qua chỉ là những câu chuyện khề khà với nhau khi trà dư tửu hậu của hậu thế mà thôi! Tất cả đều qui về một chữ Không to lớn!.

Diễn Nôm:

Trường giang cuồn cuộn nước về đông,
Sóng xô đào thải hết anh hùng.
Thị phi thành bại quay đầu: hết!
Núi xanh vẫn còn đó,
Bao lượt nắng chiều hồng.
Ngư tiều đầu bạc trên sông nước,
Đã quen rồi thu nguyệt với xuân phong,
Một bầu rượu lạt thắm tình nồng,
Xưa nay bao thế sự,
Cười nói cũng như không!

Lục bát:

Trường Giang cuồn cuộn về đông,
Anh hùng như sóng theo dòng trôi xuôi.
Thị phi thành bại trên đời,
Quay đầu là hết núi đồi còn đây.
Núi xanh sừng sững tháng ngày,
Hoàng hôn mấy lượt thêm dài hoàng hôn.
Ngư tiều đầu bạc ven thôn,
Trên dòng sông nước vùi chôn tháng ngày.
Một bầu rượu lạt ngà say,
Cổ kim thế sự nào ai có lòng?
Nói cười nhấp rượu như không!

Xin được kết thúc bài Phiếm luận về Nước theo dòng đào thải của thời gian ở nơi đây!

Đỗ Chiêu Đức - 杜紹德