Showing posts with label Phạm Văn Bân. Show all posts
Showing posts with label Phạm Văn Bân. Show all posts

2/11/23

Parkinson: Nguyên nhân, Triệu chứng và Điều trị

Parkinson’s Disease: Causes, Symptoms, and Treatments Bệnh Parkinson: Nguyên nhân, Triệu chứng và Điều trị 

https://www.nia.nih.gov/health/parkinsons 

disease#:~:text=Parkinson's%20disease%20is%20a%20brain,have%20difficulty%20walking%2 0and%20talking

Dịch và bổ sung cước chú: Phạm Văn Bân Fàn Wénbīn,范文彬- February 11, 2023 

(Ghi chú: Đây là tài liệu chính thức của cơ quan chính phủ Mỹ NIA-NIH. 

NIA, viết tắt của National Institute on Aging (Viện Quốc gia về Lão hóa), dẫn đầu các nỗ lực khoa  học rộng lớn để hiểu biết bản chất của lão hóa và để kéo dài những năm tháng khỏe mạnh, năng  động của cuộc sống. NIA là cơ quan liên bang chính để hỗ trợ và tiến hành nghiên cứu các bệnh liên quan đến việc lão hóa. 

NIH, viết tắt của National Institutes of Health (Viện Y tế Quốc gia (NIH), một cơ quan của U.S.  Department of Health and Human Services (Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Mỹ). NIH thực hiện  những khám phá quan trọng giúp cải tiến sức khỏe và cứu mạng sống.) 

* * 

Bệnh Parkinson là một rối loạn não gây ra các cử động ngoài ý muốn hoặc không thể điều khiển được, chẳng hạn như run rẩy, cứng đơ, và bị khó khăn để giữ thăng bằng và phối hợp tay chân. 

Các triệu chứng thường bắt đầu dần dần và tệ hơn qua thời gian. Khi bệnh tiến triển, người ta có  thể bị khó khăn khi đi lại và nói chuyện. Họ cũng có thể có thay đổi về tinh thần và hành vi, khó  ngủ, trầm cảm, khó khăn về trí nhớ, và mệt mỏi.

Phụ nữ lớn tuổi và người chăm sóc: Trong khi hầu như bất cứ ai cũng có thể có nguy cơ phát triển  bệnh Parkinson, một số nghiên cứu giả sử rằng bệnh này ảnh hưởng đến nam giới nhiều hơn nữ giới. Không rõ tại sao, nhưng nghiên cứu đang được tiến hành để tìm hiểu các yếu tố có thể làm  tăng nguy cơ mắc bệnh của một người. Một rủi ro rõ ràng là tuổi tác: mặc dù hầu hết người mắc  bệnh Parkinson lần đầu tiên phát bệnh sau 60 tuổi, nhưng khoảng 5% đến 10% khởi phát bệnh  trước tuổi 50. Các hình thức khởi-phát-sớm của bệnh Parkinson thường do di truyền nhưng không  phải luôn luôn, và các hình thức bệnh đã được liên kết với những thay đổi cụ thể trong genes.

Điều gì gây ra bệnh Parkinson? 

Các dấu hiệu và triệu chứng nổi bật nhất của bệnh Parkinson xảy ra khi những tế bào thần kinh ở hạch nền/basal ganglia, tức là một vùng não điều khiển cử động, bị suy yếu và/hoặc chết đi. Thông  thường, những tế bào thần kinh này, hay còn gọi là tế bào thần kinh/neurons, tạo ra một chất hóa  học quan trọng trong não được gọi là dopamine. Khi tế bào thần kinh chết hoặc bị suy sẽ sản xuất ít dopamine hơn, gây ra khó khăn về cử động liên quan đến bệnh. Khoa học gia vẫn  chưa biết nguyên nhân nào khiến tế bào thần kinh chết.

Những người mắc bệnh Parkinson cũng bị mất các đoạn cuối của dây thần kinh có tác dụng sản  xuất norepinephrine, tức là chất truyền tin hóa học chính của hệ thần kinh giao cảm, dùng để điều  khiển nhiều chức năng của cơ thể, chẳng hạn như nhịp tim và huyết áp. Sự mất norepinephrine có  thể giúp giải thích một số đặc điểm không-cử-động của bệnh Parkinson, chẳng hạn như mệt mỏi,  huyết áp không đều, giảm chuyển động của thức ăn qua đường tiêu hóa và huyết áp giảm đột ngột  khi đứng lên từ vị trí ngồi hoặc nằm. 

Nhiều tế bào não của những người mắc bệnh Parkinson có chứa Lewy bodies, tức là những khối  protein alpha-synuclein bất thường. Khoa học gia đang cố gắng hiểu rõ hơn về các chức năng bình  thường và bất thường của alpha-synuclein và mối tương quan của nó với các biến thể di truyền  ảnh hưởng đến bệnh Parkinson và bệnh mất trí nhớ Lewy bodies.  

Một số trường hợp bệnh Parkinson rõ ràng là do di truyền, và một số trường hợp có thể truy ngược  về các biến thể di truyền cụ thể. Trong khi di truyền được cho là có vai trò trong bệnh Parkinson,  nhưng trong hầu hết các trường hợp, căn bệnh này dường như không di truyền trong gia đình. Hiện nay, nhiều nghiên cứu gia tin rằng bệnh Parkinson là kết quả của sự kết hợp giữa các yếu tố di  truyền và môi trường, chẳng hạn như tiếp xúc với chất độc. 

Các triệu chứng của bệnh Parkinson 

Parkinson có bốn triệu chứng chính: 

Run ở tay, cánh tay, chân, hàm hoặc đầu 

Cứng cơ/bắp thịt, nơi cơ/bắp thịt vẫn bị co lại trong một thời gian dài 

Cử động chậm chạp 

Mất thăng bằng và phối hợp tay chân, đôi khi dẫn đến té ngã 

Các triệu chứng khác có thể bao gồm: 

Trầm cảm và những thay đổi cảm xúc khác 

Khó nuốt, nhai và nói 

Các vấn đề về đi tiểu hoặc táo bón 

Các vấn đề về da 

Các triệu chứng của bệnh Parkinson và tốc độ tiến triển rất khác nhau giữa các bệnh nhân. Các  triệu chứng ban đầu của bệnh này là nhẹ nhàng và xảy ra dần dần. Thí dụ, người ta có thể cảm thấy  run nhẹ hoặc khó bước ra khỏi ghế. Họ có thể nhận thấy rằng họ nói quá nhỏ nhẹ, hoặc chữ viết  tay của họ chậm và trông rất nhỏ hoặc khó đọc. Bạn bè hoặc thành viên gia đình có thể là những  người đầu tiên nhận thấy thay đổi ở người mắc bệnh Parkinson trong giai đoạn đầu. Họ có thể thấy  rằng gương mặt của người đó thiếu biểu hiện xúc cảm và sinh động, hoặc người đó không di  chuyển cánh tay hoặc chân một cách bình thường. 

Những người mắc bệnh Parkinson thường phát triển dáng đi parkinsonian/parkinsonian gait bao  gồm khuynh hướng nghiêng về phía trước; đi những bước nhỏ, nhanh; và giảm vung vẩy tay. Họ cũng có thể gặp khó khăn khi bắt đầu hoặc tiếp tục cử động. 

Các triệu chứng thường bắt đầu ở một bên cơ thể hoặc ngay cả ở một tay hoặc chân của một bên  cơ thể. Khi bệnh tiến triển, cuối cùng nó ảnh hưởng đến cả hai bên. Tuy nhiên, các triệu chứng vẫn  có thể vẫn còn nghiêm trọng hơn ở một bên so với bên kia. 

Nhiều người mắc bệnh Parkinson lưu ý rằng trước khi bị cứng và run, họ đã bị các vấn đề về giấc  ngủ, táo bón, mất khứu giác (không ngửi được mùi) và chân không giữ yên được. Mặc dù một số triệu chứng này cũng có thể xảy ra với diễn trình lão hóa bình thường, nhưng hãy nói chuyện với  bác sĩ nếu những triệu chứng này trở nên tồi tệ hơn hoặc bắt đầu cản trở đời sống hàng ngày. 

Thay đổi nhận thức và bệnh Parkinson 

Một số người mắc bệnh Parkinson có thể trải qua những thay đổi trong chức năng nhận  thức, bao gồm các vấn đề về trí nhớ, sự chú ý, khả năng lập kế hoạch và hoàn thành nhiệm  vụ. Căng thẳng, trầm cảm và một số loại thuốc cũng có thể góp phần tạo ra những thay đổi  này trong nhận thức.

Qua thời gian, khi bệnh tiến triển, một số người có thể phát triển thành chứng mất trí nhớ và bị chẩn đoán mắc chứng mất trí nhớ Parkinson, tức là một chứng mất trí nhớ Lewy body.  Những người mắc chứng mất trí nhớ Parkinson có thể có các vấn đề nghiêm trọng về trí  nhớ và suy nghĩ, và ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày. 

Nói chuyện với bác sĩ của bạn nếu bạn hoặc người thân yêu bị chẩn đoán mắc bệnh  Parkinson và đang trải qua các vấn đề về suy nghĩ hoặc trí nhớ. 

Chẩn đoán bệnh Parkinson 

Hiện nay không có thử nghiệm máu nào hoặc thử nghiệm ở phòng thí nghiệm để chẩn đoán các  trường hợp bệnh Parkinson không-di-truyền. Bác sĩ thường chẩn đoán bệnh bằng cách lấy tiền sử bệnh của một người và tiến hành khảo xét hệ thống thần kinh. Nếu các triệu chứng cải tiến sau khi  bắt đầu dùng thuốc, thì đó là một dấu hiệu khác cho thấy người đó mắc bệnh Parkinson. 

Một số rối loạn có thể gây ra các triệu chứng tương tự như bệnh Parkinson. Những người có các  triệu chứng giống-như-bệnh-Parkinson do các nguyên nhân khác, chẳng hạn như teo đa hệ thống/  multiple system atrophy và chứng mất trí nhớ Lewy bodies, đôi khi được cho là mắc bệnh  parkinson. Trong khi những rối loạn này ban đầu có thể bị chẩn đoán nhầm là bệnh Parkinson,  nhưng một số thử nghiệm y tế nhất định, cũng như phản ứng đối với thuốc điều trị, có thể giúp  thẩm định nguyên nhân chính xác hơn. Nhiều bệnh khác có các đặc điểm tương tự nhưng cần  phương pháp điều trị khác nhau, vì vậy điều quan trọng là phải chẩn đoán chính xác càng sớm  càng tốt. 

Điều trị bệnh Parkinson 

Mặc dù không có cách chữa khỏi bệnh Parkinson, nhưng thuốc men, cách điều trị giải phẫu và các  liệu pháp khác thường có thể làm giảm một số triệu chứng. 

Thuốc điều trị bệnh Parkinson 

Thuốc có thể giúp điều trị các triệu chứng của bệnh Parkinson bằng cách: 

Tăng mức độ dopamine trong não 

Có ảnh hưởng đến các hóa chất não khác, chẳng hạn như chất dẫn truyền thần kinh/  neurotransmitters, nhằm dẫn truyền thông tin giữa các tế bào não 

Giúp điều khiển các triệu chứng không-cử-động 

Thuốc chính cho bệnh Parkinson là levodopa. Tế bào thần kinh dùng levodopa để tạo ra dopamine  để bổ sung nguồn cung cấp đang cạn kiệt của não. Thông thường, người ta dùng levodopa cùng  với một loại thuốc khác gọi là carbidopa. Carbidopa ngăn chặn hoặc làm giảm một số tác dụng  phụ của thuốc levodopa - chẳng hạn như buồn nôn, ói mửa, huyết áp thấp và bồn chồn - và giảm  lượng thuốc levodopa cần thiết để cải tiến các triệu chứng.

Những người mắc bệnh Parkinson không bao giờ được ngừng dùng levodopa mà không nói với  bác sĩ của họ. Ngừng thuốc đột ngột có thể gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng, chẳng hạn như  không thể cử động hoặc khó thở. 

Bác sĩ có thể kê đơn cho loại thuốc khác để điều trị các triệu chứng của bệnh Parkinson, bao gồm: 

  • Chất chủ vận Dopamine/Dopamine agonists để kích thích sản xuất Dopamine trong não
  • Thuốc ức chế men/Enzyme inhibitors (thí dụ: thuốc ức chế MAO-B, thuốc ức chế COMT)  để tăng lượng dopamine bằng cách làm chậm các men phân hủy dopamine trong não
  • Amantadine để giúp giảm các cử động ngoài ý muốn 
  • Thuốc Anticholinergic để giảm run và cứng cơ/bắp thịt.

Kích thích não sâu 

Đối với những người mắc bệnh Parkinson mà không đáp ứng tốt với thuốc, bác sĩ có thể đề nghị kích thích não sâu. Trong diễn trình giải phẫu, bác sĩ sẽ cấy các điện cực vào một phần của não và  kết nối chúng với một thiết bị điện nhỏ được cấy trong ngực. Thiết bị và các điện cực kích thích  không-gây-đau-đớn các vùng cụ thể điều khiển cử động trong não theo cách có thể giúp ngăn chặn  nhiều triệu chứng có-liên-quan đến cử động của bệnh Parkinson, chẳng hạn như run, cử động chậm  và cứng đơ. 

Các liệu pháp khác 

Các liệu pháp khác có thể giúp kiềm chế các triệu chứng Parkinson bao gồm: 

Các liệu pháp thể chất, nghề nghiệp và nói chuyện, có thể giúp điều trị rối loạn dáng đi và  giọng nói, run và cứng đơ, và suy giảm các chức năng thần kinh 

Một cách ăn uống lành mạnh để hỗ trợ sức khỏe tổng thể 

Các thể dục để tăng cường cơ bắp và cải tiến sự cân bằng, linh hoạt và phối hợp tay chân

Trị liệu massage để giảm căng thẳng 

Tập Yoga và thái cực quyền/tai-chi để tăng cường độ dẻo dai và linh hoạt.

Hỗ trợ cho những người đang sống với bệnh Parkinson 

Mặc dù tiến triển của bệnh Parkinson thường chậm, nhưng cuối cùng thói quen hàng ngày của một  người có thể bị ảnh hưởng. Các hoạt động như làm việc, chăm sóc nhà cửa và tham gia các hoạt  động xã hội với bạn bè có thể trở nên khó khăn. Trải qua những thay đổi này có thể khó khăn,  nhưng các nhóm hỗ trợ có thể giúp bệnh nhân đối phó. Các nhóm này có thể cung cấp thông tin,  lời khuyên và kết nối với các nguồn lực dành cho người mắc bệnh Parkinson, gia đình và người  chăm sóc của họ. Các tổ chức được liệt kê dưới đây có thể giúp tìm kiếm các nhóm hỗ trợ tại địa  phương và các nguồn lực khác trong cộng đồng của họ. 

For more information about Parkinson’s disease 

National Institute of Neurological Disorders and Stroke (NINDS) 

800-352-9424 

braininfo@ninds.nih.gov

www.ninds.nih.gov 

National Institute of Environmental Health Sciences (NIEHS) 

919-541-3345 

webcenter@niehs.nih.gov 

www.niehs.nih.gov/health/topics/conditions/parkinson 

American Parkinson Disease Association (APDA) 

800-223-2732 

apda@apdaparkinson.org 

www.apdaparkinson.org 

Davis Phinney Foundation 

866-358-0285 

info@davisphinneyfoundation.org 

www.davisphinneyfoundation.org 

Michael J. Fox Foundation for Parkinson's Research 

212-509-0995 

www.michaeljfox.org 

Parkinson Alliance 

800-579-8440 

contact@parkinsonalliance.org 

www.parkinsonalliance.org 

Parkinson’s Resource Organization 

877-775-4111 

info@parkinsonsresource.org 

www.parkinsonsresource.org 

Parkinson's Foundation 

800-473-4636 

helpline@parkinson.org 

www.parkinson.org 


Content reviewed: April 14, 2022


Bản gốc tiếng Anh:

2/5/23

‘Chế độ nô lệ hiện đại’ tại Congo chạy điện cho nền kinh tế pin có-thể-sạc-lại như thế nào

‘Chế độ nô lệ hiện đại’ tại Congo chạy điện cho nền kinh tế pin có-thể-sạc-lại như thế nào

February 1, 202312:38 PM ET

Dịch và bổ sung cước chú: Phạm Văn Bân Fàn Wénbīn,范文彬- February 04, 2023

Dẫn nhập của người dịch:

Cobalt là chất kim loại có rất nhiều công dụng nhưng nổi bật nhất là ứng dụng làm pin có-thể-sạc lại cho smartphone, máy điện toán và xe ô-tô chạy bằng điện.

Theo Wikipedia, tên gọi Cobalt (cobalt) phát xuất xứ từ tiếng Đức kobalt hoặc kobold, nghĩa là linh hồn của quỷ dữ. Tên này do những người thợ mỏ đặt ra vì nó mang tính độc hại, gây ô nhiễm môi trường, và làm giảm giá trị những kim loại khác, như nickel. Những nguồn khác thì lại cho rằng tên gọi phát sinh từ những người thợ mỏ bạc vì họ tin rằng cobalt được đặt ra bởi kobolds là những người đã từng đánh cắp bạc. Một vài nguồn khác cho rằng tên gọi có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp kobalos, nghĩa là ‘mỏ,’ và có thể có nguồn gốc chung với kobold, goblin, và cobalt.

Georg Brandt (1694-1768) là khoa học gia đã chứng minh rằng Cobalt là nguồn gốc tạo ra màu xanh dương trong thủy tinh. Đúng ra, Cobalt đã được biết đến từ thời xưa thông qua những hợp chất để làm cho thủy tinh và gốm sứ có màu xanh dương đậm. Cobalt đã được khám phá trong tác phẩm điêu khắc Ai-cập, đồ trang sức Ba-tư từ thiên niên kỷ thứ ba B.C., trong tàn tích của Pompeii, bị phá hủy vào năm A.D. 79 và tại Trung quốc, có niên đại từ triều đại nhà Đường (618–907) và triều đại nhà Minh (1368–1644).

Cộng hòa Dân chủ Congo/Democratic Republic of Congo (DRC) là nước sản xuất và có trữ lượng nhiều nhất; tất cả nước khác trên toàn thế giới cộng lại vẫn không bằng DRC. Theo U.S. Geological Survey, dưới đây là thống kê sản lượng Cobalt trên thế giới vào năm 2017:

https://www.usgs.gov/centers/national-minerals-information-center/cobalt-statistics-and-information
Một người đào mỏ thủ công mang một bao quặng tại mỏ thủ công Shabara gần Kolwezi, DRC,  vào ngày Oct. 12, 2022.


Điện thoại thông minh, máy điện toán và xe ô-tô điện có lẽ là biểu tượng của thế giới hiện đại, nhưng Siddharth Kara nói rằng pin có-thể-sạc-lại của chúng thường được chạy điện bởi cobalt được đào lên bởi công nhân lao động trong điều kiện giống-như-nô-lệ tại Cộng hòa Dân chủ Congo/Democratic Republic of Congo (DRC).

Kara, một người của Harvard’s T.H. Chan School of Public Health và của Kennedy School, đã nghiên cứu về chế độ nô lệ hiện đại, nạn buôn người và lao-động-trẻ-em trong hai thập niên. Ông nói rằng mặc dù DRC có trữ lượng Cobalt nhiều hơn tất cả phần còn lại của thế giới cộng lại, nhưng không có thứ gọi là chuỗi cung ứng Cobalt “sạch”/“clean” supply chain of cobalt từ quốc gia này. Trong cuốn sách mới của ông, Cobalt Red/Cobalt Đỏ Cobalt, Kara viết rằng phần lớn Cobalt của DRC đang được đào lên bởi những người được gọi là thợ mỏ “thủ công” - tức là những người lao động tự do làm công việc cực kỳ nguy hiểm chỉ với số tiền tương đương vài đô-la một ngày.

Cobalt Red là một loại khoáng chất thứ cấp màu đỏ, CO3(AsO4)2·8H2O, được dùng để tạo màu cho thủy tinh, và tất nhiên cho nhiều thứ khác như bài phỏng vấn đã đăng.

Kara nói: “Bạn phải tưởng tượng đi lòng vòng quanh một số khu vực đào mỏ này và quay đồng hồ của chúng ta ngược về hàng thế kỷ.” Người ta đang làm việc trong những điều kiện dưới-phẩm chất-con-người, bị áp bức, và hạ nhục/subhuman, grinding, degrading conditions. Họ dùng cuốc, xẻng, thanh thép để chặt và đào đất trong các rãnh và hố và đường hầm để thu nhặt Cobalt và cung cấp cho chuỗi cung ứng chính thức.”

Kara nói ngành kỹ nghệ khai thác mỏ đã tàn phá quang cảnh của DRC. Hàng triệu cây cối đã bị đốn xuống, không khí xung quanh mỏ bị mù mịt với bụi và đá sỏi, và nước bị ô nhiễm bởi các chất thải độc hại từ diễn trình khai thác mỏ. Hơn nữa, ông nói, "Cobalt rất độc hại nếu chạm vào và hít thở - và có hàng trăm nghìn người dân Congo nghèo khổ chạm vào và hít thở Cobalt ngày này qua ngày khác. Những bà mẹ trẻ đèo con trên lưng, tất cả đều hít thở loại bụi Cobalt độc hại này.”

Cobalt được dùng trong việc sản xuất hầu hết loại pin lithium ion có-thể-sạc-lại được dùng trên thế giới hiện nay. Và trong khi người bên ngoài DRC phân biệt giữa Cobalt được khai thác bởi các công ty khai thác kỹ nghệ có kỹ thuật cao của DRC và Cobalt được đào bởi những thợ mỏ thủ công, Kara nói rằng cả hai về căn bản chồng chéo lẫn nhau.

Ông nói: “Có sự nhiễm-độc-chéo hoàn toàn giữa Cobalt có nguồn gốc từ máy đào kỹ nghệ và Cobalt do phụ nữ và trẻ em đào bằng tay không. Hầu hết các mỏ kỹ nghệ đều có những thợ mỏ thủ công công làm việc, đào trong và xung quanh mỏ, đưa Cobalt vào chuỗi cung ứng chính thức.”

Kara thừa nhận vai trò quan trọng của Cobalt trong các thiết bị kỹ thuật và trong diễn trình chuyển đổi qua các nguồn năng lượng bền vững. Thay vì từ bỏ hoàn toàn Cobalt, ông nói rằng người ta nên tập trung vào việc chấn chỉnh chuỗi cung ứng.

Ông nói: “Chúng ta không nên chuyển sang dùng xe ô-tô điện với cái giá phải trả là con người và môi trường của một trong những nơi nghèo khổ và bị áp bức nhất trên thế giới. Kết cuộc của chuỗi cung ứng, nơi hầu hết tất cả Cobalt trên thế giới xuất phát từ đó, là một màn trình diễn kinh hoàng.”

Khoảng 20,000 người làm việc tại mỏ thủ công Shabara ở DRC, theo ca 5,000 người trong suốt  ca mà không gián đoạn.1 DRC đã sản xuất khoảng 74% Cobalt của thế giới vào năm 2021. 

Junior Kannah /AFP via Getty Images









Các điểm nổi bật của cuộc phỏng vấn:

Về cách các mỏ Cobalt “thủ công” tiếp tục hoạt động tại DRC - mặc dù là bất hợp pháp

Về mặt kỹ thuật, theo luật, không được tiến hành khai thác mỏ theo cách thủ công tại bất cứ mỏ kỹ nghệ nào. Tuy nhiên, lạ thay, 2 tại hầu hết mỏ kỹ nghệ, có một số hoạt động khai thác mỏ theo "at a time": trong suốt một thời gian mà không dừng hoặc gián đoạn: cách thủ công đang tiến hành. Trong một số trường hợp, chủ yếu lại là khai thác theo cách thủ công. Và lý do chính là cách trả lương bằng tiền-mặt-tối-thiểu để thúc đẩy sản xuất. Ý tôi là, hãy  tưởng tượng bạn đang ở một nơi trên thế giới, nơi có hàng triệu người hầu như không kiếm được  một hoặc hai đô-la mỗi ngày, những người nghèo khổ do bị áp bức và sẽ chấp nhận hầu hết mọi  sự sắp đặt lao động chỉ để sống còn. Vậy, bạn tống họ vào một cái hố chật hẹp, nhồi nhét họ cùng  với 10,000 người khác và trả cho họ vài đô-la, và họ sẽ sản xuất hàng nghìn tấn Cobalt mỗi năm  mà gần như không trả tiền lương. Và vì vậy điều đó không hợp pháp, nhưng đang xảy ra.

Về lý do tại sao những điều kiện này ngang bằng với chế độ nô lệ 


Hãy tưởng tượng toàn thể dân chúng không thể sống sót nếu không sục sạo trong điều kiện nguy hiểm để kiếm một hoặc hai đô-la mỗi ngày. Không có cách nào khác ở đó. Các mỏ đã khống chế tất cả mọi chuyện. Hàng trăm nghìn người đã phải tản cư bởi vì làng xã của họ đơn giản bị bị san phẳng để nhường chỗ cho các khu khai thác mỏ rộng lớn. Vì vậy, bạn có những người không có cách nào khác, không có nguồn thu lợi tức nào khác, không có kế sinh nhai. Bây giờ, hãy thêm vào đó là mối đe dọa trong nhiều trường hợp lực lượng vũ trang áp lực người ta đào bới, cha mẹ phải quyết định đau đớn, ‘Tôi cho con đi học hay chúng tôi phải ăn hôm nay?’ Và nếu họ chọn cái ăn, điều đó có nghĩa là mang tất cả con cái của họ vào những cái hố độc hại này để đào bới chỉ để kiếm thêm 50 xu hoặc một đô-la mỗi ngày, điều đó có thể có nghĩa là có sự khác biệt giữa việc ăn hay không. Vì vậy, trong thế kỷ 21st, đây là chế độ nô lệ hiện đại. Đó không phải là chế độ sở hữu nô lệ 5 từ thế kỷ 18th, nghĩa là bạn có thể mua bán con người và có quyền sở hữu đối với một người như là tài sản. Nhưng mức độ hạ nhục, mức độ bóc lột là ngang bằng với chế độ nô lệ của thế giới thời xưa.
Một thợ mỏ thủ công cầm một viên đá Cobalt tại mỏ thủ công Shabara ở DRC.
Junior Kahhah/AFP via Getty Images

Về nguy hiểm sập hầm mỏ thủ công





























Tôi đã nói chuyện với nhiều gia đình có con cái, chồng, vợ đã gánh chịu các thương tật khủng khiếp. Thông thường, khi đào bới ở những hố lộ thiên lớn hơn này thì vách tường của hố sẽ bị sập. Hãy tưởng tượng một núi sỏi đá cứ thế lở xuống đè lên con người, dập nát chân tay, xương sống. Tôi đã gặp những người bị cắt cụt chân, những người mang thanh kim loại ở nơi từng là chân của họ. Và điều tồi tệ nhất là những gì xảy ra trong diễn trình đào trong đường hầm. Có lẽ có khoảng từ 10,000 đến 15,000 đường hầm được đào bằng tay bởi thợ mỏ thủ công. Không có đường hầm nào có giá đỡ, trục thông gió, chốt đá, hay bất cứ thứ gì tương tự. Và những đường hầm này luôn luôn sập xuống, chôn sống tất cả người ở dưới đó, kể cả trẻ em. Đó là một cái chết khủng khiếp gần như không thể tưởng tượng được. Vậy mà tôi đã gặp những bà mẹ đấm ngực trong đau đớn, kể về những đứa con của họ đã bị chôn sống trong một vụ sập hầm. Và những câu chuyện này không bao giờ lộ ra khỏi Congo. Người ta đơn giản là không biết những gì đang xảy ra dưới đó.

Về việc buôn bán trẻ em để làm việc trong mỏ

Cobalt Đỏ’ mô tả ‘màn trình diễn kinh hoàng’ về khai thác nguyên tố Cobalt tại DRC

Máu của dân Congo cung cấp điện cho đời sống chúng ta như thế nào

Cần phải làm ra tiền ở mọi ngóc ngách và mọi chiều hướng. Và bạn có những lực lượng dân quân này. Đôi khi chúng được gọi là biệt kích và chúng sẽ bắt cóc trẻ em, buôn bán trẻ em, tuyển dụng trẻ em từ các vùng khác của Congo. Tôi đã gặp những đứa trẻ đến từ xa hàng trăm dặm và đã được đưa qua các mạng lưới dân quân xuống đến các mỏ Cobalt đồng để đào bới. Và khi chúng đào và kiếm được một hoặc hai đô-la thì đó là nguồn tiền tài trợ cho các nhóm dân quân này. Vì vậy, trẻ em là đối tượng bị bóc lột nặng nề nhất trong tất cả những người ở dưới mỏ. Họ là những người dễ bị hại nhất và thường bị buôn bán và bóc lột trong một số trường hợp trong những hoàn cảnh rất bạo lực.

Tham nhũng của chính phủ khiến ngăn chặn thay đổi

Tham nhũng là một phần lớn của vấn đề. Đó là những gì giúp rất nhiều cho sự lạm dụng này được dai dẳng. Và vấn đề là, hãy tưởng tượng đến Congo. Đó là một quốc gia bị chiến tranh tàn phá, nghèo khổ đến tận cùng, gánh chịu nhiều thế hệ bị cướp bóc và lùng sục để cướp từ hàng thế kỷ trước, đến nay là nạn buôn bán nô lệ. Và vì vậy, khi các kinh doanh lớn ngoại quốc vung vẩy những khoản tiền lớn thì không cần phải tưởng tượng quá lâu để thấy rằng sẽ có tham nhũng ...Tổng Thống được bầu cử dân chủ đầu tiên của Congo [vào năm 1960], Patrice Lumumba, cam kết rằng nguồn tài nguyên và khoáng sản vô cùng phong phú của đất nước sẽ được dùng cho ích lợi ích của dân chúng sống ở đó. Và trong một thời gian ngắn, trong vòng sáu tháng, ông bị truất phế, bị ám sát, bị chặt thành từng mảnh, bị hòa tan trong acid và bị thay thế bằng một tay độc tài đẫm máu, một tay độc tài tham nhũng, và là tay sẽ giữ cho khoáng sản tuôn chảy đúng hướng. Vì vậy, nếu bạn không làm theo ý 6 của những người môi giới quyền lực ở đầu não và của Miền Bắc Bán cầu/Global North, 7 thì Patrice Lumumba đã cho thấy kết quả như thế nào, điều gì sẽ xảy ra. Và tôi nghĩ đó cũng là một phần của bài học này mà chúng ta cần hiểu về mặt lịch sử, khi chúng ta nói về những thứ như tham nhũng.

Làm thế nào mà Trung quốc sở hữu hầu hết các mỏ kỹ nghệ tại Congo

Trung quốc đã chiếm độc quyền 8 thị trường Cobalt toàn cầu trước khi bất cứ ai biết chuyện gì đang xảy ra. Chuyện này quay trở lại năm 2009 dưới thời tổng thống trước đó tại Congo, JosephKabila. Ông ấy ký một thỏa thuận nhượng quyền khai thác mỏ cho chính phủ Trung quốc để đổi lấy sự hỗ trợ phát triển, cam kết xây dựng đường sá và một số phòng khám y tế công cộng, trường học, bệnh viện, những thứ tương tự như vậy - và điều đó đã mở ra cánh cửa. Trước khi bất cứ ai biết chuyện gì đã xảy ra, các công ty Trung quốc đã nắm quyền sở hữu 15 trong số 19 nhượng quyền khai thác đồng-Cobalt kỹ nghệ chính yếu tại Congo. Vì vậy, họ khống chế việc đào mỏ trên mặt đất. Và không chỉ vậy, họ khống chế chuỗi cun gứng đến tận mức pin. Họ có khoảng 70, 80% thị trường Cobalt tinh chế và có thể là một nửa thị trường pin.



Cuốn sách trước đây của Siddharth Kara Buôn bán tình dục: Bên trong sự kinh doanh nô lệ hiện đại, đã được Giải thưởng sách Frederick Doulass năm 2010, được thưởng cho cuốn sách hay nhất viết bằng tiếng Anh về chế độ nô lệ hoặc bãi bỏ (tập quán nô lệ).

Về việc chứng kiến đau khổ và chấn thương

Có một số sự kiện để lại ấn tượng mãi mãi trong tôi đến nỗi chúng chúng sẽ ập đến với tôi như một nỗi kinh hoàng, và điều đó thật là khó khăn. Tôi chỉ hy vọng tôi đã mô tả chính xác cho các câu chuyện đó và cho những người đã chia sẻ bi kịch của họ với tôi, chia sẻ những bi kịch đó một cách can đảm với tôi. Tôi chỉ muốn tiếng nói của họ [vang] đến thế giới và sau đó thế giới sẽ quyết định phải làm gì với sự thật và lời chứng của dân chúng Congo. Nhưng nếu tôi đã mô tả chính xác một số chuyện để mang tiếng nói đó vào trong một thế giới có thể rất khó hoạt động được nếu không có sự chịu đựng đau khổ của dân chúng Congo, thì tất cả đều xứng đáng. Ngay cả các cơn ác mộng và nỗi kinh hoàng, tất cả đều xứng đáng.


Sam Briger và Joel Wolfram thực hiên và biên tập cuộc phỏng vấn này để phát hành. Bridget Bentz, Molly Seavy-Nesper và Gisele Grayson điều chỉnh cho phù hợp với web.



Bản gốc tiếng Anh:

2/1/23

Cách ăn kiểu Mỹ này có thể cộng thêm 10 năm cho đời sống của bạn

Những người sống-lâu-nhất trên Trái đất tuân theo điều mà tác giả Dan Buettner gọi là cách ăn vùng-xanh - và nay, ông đã tìm thấy nhiều cách ăn hơn nữa tại Mỹ.
Dịch và bổ sung cước chú: Phạm Văn Bân Fàn Wénbīn,范文彬- January 21, 2023

Dẫn nhập của người dịch

In March 2000, Michel Poulain and Giovanni Mario Pes, là hai người nghiên cứu về tuổi thọ tại Sardinia, giới thiệu từ ngữ blue zone/vùng xanh cho một khu vực có tuổi thọ phi thường tại Sardinia  và sau đó, dùng từ ngữ này trong khảo cứu vào năm 2004. 

Năm 2004, Dan Buettner quyết tâm khám phá những phong cách sống và môi trường đặc biệt đã  dẫn đến sống lâu nhất, khỏe mạnh nhất. Ông xác định rằng thế giới có 5 vùng xanh: Okinawa,  Japan; Sardinia, Italy; Nicoya, Costa Rica; Icaria, Greece; và Loma Linda, California, Mỹ.


Biểu đồ Venn về dưới đây tóm lược các đặc điểm về trường thọ từ Okinawa, Sardinia và Loma  Linda:

“Tính toán về lão-hóa cho chúng ta hai chọn lựa: Chúng ta có thể sống một cuộc đời ngắn hơn với  nhiều năm tàn tật hơn, hoặc chúng ta có thể sống lâu nhất có-thể-được với ít năm tồi tệ nhất. Như  những người bạn trăm tuổi của tôi đã cho tôi thấy, sự chọn lựa phần lớn phụ thuộc vào chính chúng  ta.” - Dan Buettner

Buettner đã xuất hiện trên The Today Show, Oprah, NBC Nightly News, và Good Morning  America, đồng thời có các bài phát biểu quan trọng tại TEDMED, Bill Clinton’s Health Matters  Initiative, và Google Zeitgeist. Bài phát biểu của ông vào tháng January 2018 tại World Economic  Forum tại Davos đã được chọn là “một trong những bài phát biểu hay nhất của Davos.

Để mô tả khái niệm về vùng-xanh của Mỹ, nghệ sĩ Luisa Rivera cho biết bà “tập trung vào bàn  tay của đối tượng như là một cử chỉ đòi lại các thức ăn của tổ tiên, trong khi các thói quen ăn  uống được tượng trưng bằng cái nĩa.” Bà bao gồm các loại rau, trái cây và thực vật bản địa  “như là một cách để nhận ra nguồn gốc và các khía cạnh ngày càng phát triển của văn hóa thực phẩm.



Bí quyết để sống thêm 10 năm là cái gì? Không bao giờ chỉ là một điều. Thay vì vậy, đó là một tập hợp của các yếu tố môi trường củng cố lẫn nhau và khiến mọi người làm những điều đúng theo phản xạ và tránh những điều sai trong thời gian đủ lâu để không phát triển các bệnh mãn tính. Trong 20 năm qua viết cho National Geographic, tôi đã nhận ra và nghiên cứu những khu vực có người sống lâu nhất trên thế giới, mà tôi gọi là vùng-xanh. Những nơi này - Okinawa, Nhật; Sardinia, Italy; Ikaría, Greece; Nicoya, Costa Rica; và các cộng đồng Seventh-day Adventist ở Loma Linda, California - có nhiều người sống trên trăm tuổi nhất và tuổi thọ trung niên cao nhất. Tại sao? Cư dân sống một đời sống có mục đích, trong môi trường có thể đi bộ giúp mọi người luôn năng động và kết giao xã hội một cách tự nhiên. Và họ ăn một cách ăn chủ yếu là thực phẩm nguyên chất/whole foods 1 có nguồn gốc từ thực vật.

Vào năm 2019, khi đại dịch COVID bộc phát, nhiếp ảnh gia David McLain và tôi ấp ủ ý nghĩ tìm kiếm một cách ăn uống vùng xanh của người Mỹ. Nghĩ rằng ông bà cố của chúng ta có thể đã ăn uống tương tự như những người ở vùng-xanh ban đầu, chúng tôi tìm kiếm các cuộc khảo sát về cách ăn uống đã được thực hiện vào đầu thập niên 1900s. Trong thất vọng, chúng tôi tìm thấy rằng tổ tiên của chính chúng tôi (những người nhập cư từ miền Bắc và Trung Âu châu) đã mang theo bò, heo và dưa chua với họ.

Quyết tâm tìm kiếm những món ăn truyền thống của các nền văn hóa khác, người bản địa và người nhập cư, đã mang đến bàn ăn của người Mỹ, chúng tôi đi khắp đất nước để tìm những người có thể cho chúng tôi biết về những món ăn này.

Đây là những gì chúng tôi khám phá ra: Có một cách ăn uống khác của người Mỹ, một cách ăn uống thực sự có thể làm tăng tuổi thọ của bạn lên đến 10 năm và, trong một số trường hợp, đẩy lùi bệnh tật. Đó không phải là cách ăn uống kỳ quái được phát minh bởi một bác sĩ ở South Beach, hay bới một người tiếp thị cách ăn paleo, hay bởi một người có ảnh hưởng trên mạng xã hội. Cách ăn này được phát triển bởi những người Mỹ bình thường, có giá cả rất phải chăng, bền vững và có lượng khí thải carbon thấp hơn so với cách ăn nhiều thịt. Quan trọng nhất, cách ăn này lành mạnh và ngon miệng, được phát triển qua nhiều thế kỷ bằng cách kết hợp các hương vị từ Cựu Thế giới và Tân Thế giới theo những cách khéo léo và duy nhất của Mỹ.

THỰC PHẨM CỦA TỔ TIÊN 

Tác giả Dan Buettner khám phá cách ăn uống kéo dài tuổi thọ đã-bị-mất của người Mỹ bằng  những tấm hình nổi bật và chia sẻ sự khôn ngoan từ các chuyên viên ẩm thực và đầu bếp trong  sách Nhà bếp Mỹ Vùng-Xanh: 100 công thức nấu ăn để sống đến 100 tuổi. Cuốn sách hiện có  sẵn ở bất cứ nơi nào sách được bán. 

Chúng tôi bắt đầu ở New England, xem xét các món ăn truyền thống của người Mỹ bản địa  Wampanoag. Tổ tiên của họ đóng một vai trò trong lịch sử vào năm 1621 khi chạm trán với  những người định cư mới đến. Một ông, Tisquantum, dạy người định cư cách trồng bắp, một  loại lương thực địa phương. Carolyn Wynne, một trưởng lão người Mashpee Wampanoag và là  mẹ của Otter Clan, và bạn của bà là nhân chủng gia về thực phẩm Paula Marcoux, tái tạo một  bữa ăn vào đầu thế kỷ 17th cho chúng ta bằng cách dùng các loại thực phẩm điển hình của  Wampanoag. 

Khi Wynne nấu trên ngọn lửa để mở, bà dường như không bị ảnh hưởng bởi sức nóng. Với than đá, bà nướng bí nhồi hạt hazelnuts, blueberries khô và maple syrup. Trong cái nồi đặt bên cạnh,  bà nấu sôi nasaump, tức là một món súp bột bắp. Trong nồi thứ ba, bà luộc những lát bí ngô  trong sassafras tea. Mặc dù người Wampanoag săn bắn thú vật và thu lượm con trai và hàu,  nhưng 70% khẩu phần ăn của họ đến từ các nguồn thực vật.

Marcoux trông nom các nồi bằng gang trên ngọn lửa khác. Trong một món, có món msíckquatash  sủi bọt, tức là món hầm căn bản của người Wampanoag, gồm hominy, đậu và bí, mà Marcoux  trộn với đậu xanh, hành tây và rau thơm. Người Wampanoag cũng có thể thêm Jerusalem  artichokes, trái sồi, hạt dẻ và trái óc chó (các loại hạt đôi khi được nghiền thành bột để làm chất 

làm-đặc). Marcoux nói: “Nỗi ám ảnh riêng biệt của tôi về lịch sử mang lại cho tôi niềm vui khi  kết nối với những đầu bếp đã-chết-từ-lâu trong căn bếp đã mai một lâu rồi của họ thông qua các  nguồn tài liệu lưu trữ và khảo cổ. Thật là một đặc ân hào hứng khi cầu khẩn trí tuệ của họ qua  lửa.” 

THIỆT HẠI CỦA CÁCH ĂN UỐNG ‘ĐIỂN HÌNH CỦA NGƯỜI MỸ’ 

Nếu bạn đang ăn uống giống như một người Mỹ điển hình, có lẽ bạn sẽ chết sớm. Năm nay, hơn  678,000 người Mỹ sẽ chết vì các bệnh hoặc tình trạng liên quan đến những gì họ ăn. Chúng bao  gồm các tình trạng phổ biến như huyết áp cao, lượng đường trong máu cao (tiểu đường loại 2), và  cholesterol cao. Theo một nghiên cứu, chúng ta sẽ chi hơn 4 nghìn tỷ đô-la cho việc chăm sóc sức  khỏe, 20% cho các bệnh liên quan đến các chọn lựa ăn uống không lành mạnh. Người ta ước tính  rằng chúng ta mất (giảm thọ) ít nhất 13 năm nếu ăn theo cách ăn điển hình của Mỹ. 

Điều này có thể không gây sốc khi bạn xem xét rằng mỗi năm, một người Mỹ trung bình tiêu thụ tổng cộng 264 pounds thịt bò, thịt bê, thịt heo, và thịt gà; 123 pounds đường và đường-hóa-học/ sweeteners có calorie, bao gồm khoảng 39 gallons nước ngọt có ga; 16 gallons sữa; và hơn 40  pounds phó-mát, trong đó một số đứng đầu với 46 lát bánh pizza hàng năm. 70% lượng calories của chúng ta đến từ thực phẩm chế biến sẵn, chứa hàng nghìn chất phụ gia thực phẩm nhân tạo,  nhiều chất trong số đó được biết là gây ung thư. - Dan Buettner 

Ở phía bên kia của Mỹ, ở mũi phía bắc của Big Island của Hawaii, chúng ta thấy một phiên bản  khác của sự sáng tạo của người bản địa tại trang trại nơi gia đình Scott Harrison trồng các loại cây  bản địa trong ba thế hệ. Có nhiều sản phẩm được ăn ở đây trong hàng trăm năm: khoai lang, chuối,  dứa, đu đủ, xoài và sa kê/breadfruits. Trong một luống đất được chăm sóc gọn gàng, Harrison thò  tay xuống vùng nước nông và nhổ một cây khoai sọ, giơ nó lên như một chiếc cúp: Ông nói, “Bạn  có thể ăn lá như rau spinach và luộc thân như măng tây. Hầu hết chúng tôi sống sót nhờ vào củ,  thứ mà chúng tôi nghiền thành bột nhão chúng tôi ăn hàng ngày.” 

Ở phía tây, trên đảo Oahu, ngoại ô Honolulu, Ruth Chang, 95 tuổi, đang chuẩn bị bữa trưa. Bà nói  với tôi khi băm nhỏ các loại rau củ, “Tôi nấu ăn hàng ngày. Một khi bạn dừng lại, bạn sẽ mất nó.” 

Cấu trúc nhân khẩu của Ruth Chang có thể là người sống-lâu-nhất trên Trái đất. Phụ nữ Mỹ gốc  Hoa sống ở Hawaii tận hưởng tuổi thọ trung bình khoảng 90 năm, và cách ăn uống của người Mỹ gốc Hoa sống ở đó giúp kéo dài tuổi thọ như vậy. ((Want to live longer? Influence your genes.) 

Kể từ khi người Đông Nam Á châu bắt đầu đến Hawaii hơn 170 năm trước như là công nhân nông  nghiệp, mỗi nhóm dân tộc đã giới thiệu hương vị và nguyên liệu của riêng mình. Người Trung  quốc mang theo lá bắp cải, các sản phẩm từ đậu nành và trà. Người Nhật, miso và phiên bản đậu  phụ của riêng họ. Người Filipinos, trông nom ngọn của nhiều loại cây như bí và bí ngô. Sự kết  hợp giữa thực phẩm và kỹ thuật nấu ăn này đã khiến Hawaii trở thành nơi để trải qua ẩm thực kết  hợp của Á châu mà chủ yếu là dựa trên thực vật.

Người Mỹ gốc Phi châu sống ở Deep South có truyền thống lâu đời về việc ăn các loại thực phẩm  thuộc vùng xanh. Những gì bắt đầu như một cách ăn uống chủ yếu dựa trên thực vật của Tây Phi châu đã biến đổi uyển chuyển với ảnh hưởng của người Mỹ bản địa và Âu châu để tạo ra một ẩm  thực duy nhất và sống động. Các khảo sát về cách ăn uống đi ngược về thập niên 1890s chỉ ra rằng  hầu hết các loại thực phẩm mà người Mỹ gốc Phi châu ở miền nam ăn là rau và ngũ cốc. Ngoài  thịt heo muối được thêm vào để tạo hương vị, các sản phẩm từ động vật chỉ đóng một vai trò nhỏ. 

Vào một buổi sáng ẩm ướt tại Charleston, Nam Carolina, chúng tôi đang ở trong nhà của đầu  bếp kiêm sử gia BJ Dennis, quây quần bên nồi súp đậu bắp/okra soup. Đậu bắp, tỏi, hành tây,  đậu bơ, cà chua, thyme/bạch lý hương/cỏ xạ hương/húng Tây, ớt Scotch cay nồng, và sự thú vị tuyệt vời của hạt benne lên men (mè) kết hợp các hương vị của Cựu và Tân Thế giới. Miếng cắn  đầu tiên của tôi mang đến một cơn sóng thần vị ngon/umami,2 tiếp theo là hơi nóng chảy-nước mắt và đỏ mặt vì hạnh phúc thuần túy. (These are the world’s happiest places.) 

Dennis đang thực hiện sứ mệnh mang lại nền ẩm thực của tổ tiên trồng lúa của ông. Bị bắt từ những nơi như Senegal và Liberia, tổ tiên của ông được đưa đến Vùng đất thấp/Low Country của Nam Carolina và Georgia để trồng giống lúa Carolina Gold. Vì chuyên môn của họ, một số người Phi châu bị bắt làm nô lệ đã được phép làm vườn, nơi họ trồng các thực phẩm chủ yếu của  

Phi châu và các nguyên liệu địa phương. Dennis nói: “Chúng tôi lấy tâm hồn mộc mạc của người  Phi châu và kỹ thuật của người Mỹ bản địa để tạo ra sự kết hợp đặc biệt này.” 

Cách ăn uống truyền thống của miền Tây Phi châu hầu hết gồm có rau xanh, rau củ, đậu mắt  đen, đậu bắp/okra, hạt benne/mè, các loại thảo mộc và gia vị, và ngũ cốc như kê; thịt chỉ thỉnh  thoảng được ăn. Khi những người Phi châu bị bắt và chuyển đến Mỹ châu, cây và hạt giống của  thực phẩm quê hương họ đi cùng với họ. Họ tham gia trao đổi văn hóa với người Mỹ bản địa, là  những người chia sẻ một số tập quán canh tác và lương thực tương tự; cả hai đều nấu bằng bắp,  khoai lang, các loại đậu địa phương. Kết quả là một ẩm thực pha trộn, sáng tạo. 

Vào một ngày khác, tại Texas, chúng tôi cùng với sử gia kiêm đầu bếp Adán Medrano khi ông  phá bỏ huyền thoại về cách nấu ăn của người Texas-Mexico. Trong nhà bếp ở Houston, ông khuấy một món posole mặn trong một cái nồi và trong một cái nồi khác là cơm hầm cà chua, cả hai món ăn đều có hương vị của bộ ba Texas Mexican trio: tỏi, thì là và tiêu đen. 

Medrano nói với tôi: “Thức ăn Texas Mexican béo ngậy, phó-mát phần lớn là phát minh của  người Anglo. Món enchiladas truyền thống của chúng tôi không có rắc phó-mát. Chúng tôi lấp  đầy enchiladas bằng cà rốt và khoai tây. 

Sinh ra ở San Antonio, phía trung-nam Texas, Medrano, 74 tuổi, lớn lên ăn xương rồng, đậu,  bắp, ớt, khoai tây, hành tây, nấm, portulaca, rau dền, nhiều loại quả mọng và đôi khi là thú rừng.  Đây là các thực phẩm chân chính của ẩm thực Texas Mexico, hoàn toàn xa lạ 3 với các hư hỏng ẩm thực Tex-Mex như fajitas gà hoặc quesadillas thêm phó-mát phụ trội. Những loại thực phẩm  nguyên chất, có nguồn gốc thực vật này cũng là điển hình của các món ăn châu Mỹ Latin khác. 

Khi chúng tôi đi khắp Mỹ, chúng tôi tìm thấy các cách ăn uống trong quá khứ của những nền  văn hóa bản địa và người nhập cư này được diễn dịch bởi một nhóm bảo-vệ-mới gồm các đầu  bếp và các người tiên phong về thực phẩm. Khi họ tái tạo các món ăn truyền thống, họ không  chỉ mở ra một kho tàng của những tài năng ẩm thực phần lớn đã bị mai một mà còn đưa ra những  cách biểu hiện mới về cách ăn uống tiêu chuẩn của người Mỹ - điều này có thể thực sự giúp  chúng ta có thêm 10 năm đó. 

Dan Buettner là một người khám phá của National Geographic, ký giả từng đoạt giải thưởng và  là tác giả có sách bán chạy nhất, trong đó cuốn sách mới nhất cho National Geographic là The  Blue Zones American Kitchen


Câu chuyện này xuất hiện trong số tháng
January 2023 issue của tạp chí National Geographic.



Bản gốc tiếng Anh: