Showing posts with label Tôn giáo. Show all posts
Showing posts with label Tôn giáo. Show all posts

11/28/23

Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch

ĐỒNG NAI, Việt Nam (NV) – Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, bậc cao tăng uyên bác từng bị nhà cầm quyền CSVN kết án tử hình, đã viên tịch lúc 4 giờ chiều Thứ Sáu, ngày 24 Tháng Mười Một (nhằm ngày 12 Tháng Mười năm Quý Mão) tại Chùa Phật Ấn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, trụ thế 79 năm, hạ lạp 41 năm, Hội Đồng Hoằng Pháp thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) thông báo.

Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ húy thượng Nguyên hạ Chứng, đời thứ 44 Dòng Lâm Tế Chánh Tông và đời thứ 10 Thiền Phái Liễu Quán, là Chánh Thư Ký kiêm Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Sau một thời gian nằm bịnh viện, ông được đưa về Chùa Phật Ấn hôm Thứ Năm.

Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ tục danh Phạm Văn Thương sinh ngày 15 tháng 2 năm 1943 tại Paksé, Lào, quê tại Quảng Bình, Việt Nam, là một học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại Học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền CSVN, theo trang mạng Quảng Đức.

Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1943-2023)

Ông thông thạo tiếng Trung Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Ông được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật.

Lúc bị CSVN bắt năm 1984, ông và Thích Trí Siêu, được coi là hai nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đang soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển.

Ông qui y Phật lúc 7 tuổi, học Phật pháp trong Viện Hải Đức tại Nha Trang, rồi sau đó là tại Thiền Viện Quảng Hương Già Lam tại Sài Gòn.

Ông tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Phật Học năm 1964, Viện Đại Học Vạn Hạnh phân khoa Phật học năm 1965, được đặc cách bổ nhiệm là giáo sư thực thụ Viện Đại Học Vạn Hạnh từ năm 1970 nhờ nhiều công trình nghiên cứu và khảo luận triết học nổi tiếng. Ông là chủ bút của tạp chí Tư Tưởng do Viện Đại Học Vạn Hạnh phát hành. Ông cũng làm thơ, viết một số truyện ngắn đăng trên tạp chí Khởi Hành (1969-1972), Thời Tập (1973-1975). Ngoài ra ông cũng hiểu biết rất nhiều về triết học Tây phương. Ông là người đầu tiên thuyết trình về Michel Foucault tại Việt Nam.

Sau năm 1975 ông về lại Nha Trang, đến năm 1977 thì vào sống tại Thị Ngạn Am, chùa Già Lam ở Sài Gòn. Đầu năm 1978 ông bị tù 3 năm, đến năm 1980 thì được thả.

Ngày 1 tháng Tư năm 1984 ông bị bắt cùng với ông Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát). Tổ chức Ân Xá Quốc Tế tin rằng nguyên nhân việc bắt giữ Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu là do hai ông là thành viên của GHPGVNTN, một tổ chức tôn giáo CSVN không công nhận và thường xuyên đàn áp.

Tháng Chín năm 1988 ông và Lê Mạnh Thát bị CSVN tuyên án tử hình vì tội hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân. Tháng Mười Một năm 1988 sau một cuộc vận động quốc tế, bản án giảm xuống còn tù chung thân. Ngày 1 tháng Chín năm 1998 ông được thả về từ trại Ba Sao-Nam Hà ở miền Bắc Việt Nam. Một năm sau, vì tiếp tục hoạt động cho GHPGVNTN, ông cùng với Hòa Thượng Thích Quảng Độ lại bị đe dọa giam giữ và bị công an triệu tập tra hỏi.

Năm 1998 tổ chức Human Rights Watch tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards cho Thích Tuệ Sỹ và 7 người Việt khác gồm có Hoàng Tiến, nhà văn Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Tần, Phạm Thái Thụy, Thích Trí Siêu và hai người được giấu tên.

Theo di nguyện của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ lập ngày 19 Tháng Chín năm 2023, đăng tải trên trang mạng của Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN, kim quan được quàn tại chùa Phật Ân ở Long Thành, tang lễ sẽ do Hòa Thượng Thích Minh Tâm làm trưởng ban tổ chức. Sau đó, nhục thân sẽ đưa đi hỏa táng và tro cốt rải ngoài khơi Thái Bình Dương.

Tại Hoa Kỳ, thông bạch của Hội Đồng Hoằng Pháp cho hay, sẽ có buổi lễ truy tán công hạnh và tưởng niệm Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ vào 4 giờ 30 chiều Thứ Bảy, 2 Tháng Mười Hai, 2023, tại Tu Viện Đại Bi, 13852 Newland Street, thành phố Garden Grove. (TTHN)
thaik3 st

Bài đọc thêm: 


Ai Điếu

Một giọt sương rơi
Cho hiên chùa thêm quạnh
Một vầng trăng về tây
Cho biển tối thêm sâu
Một Tăng Triệu thời nay
Giũ áo qua cầu
Tiếng thạch sùng khuya
Gió lùa tàng kinh các
Cầm đèn tuệ chênh vênh
sống một đời cao sĩ
Vóc hạc gầy mong manh
hồn chứa hết tam thiên
Chí cao vợi
cô đơn
dặm trần không tri kỷ
Phiên chợ đời phũ phàng
Sao đắt đỏ chữ duyên
Trời nam lặng một bóng người
vai gầy cõng đạo, một trời sở tri
việc xong, quẳng gậy mà đi
hổ khê áo cỏ dặm về trăng soi...

Toại Khanh

1/4/23

Tiểu sử chính thức của Đức Giáo hoàng Danh dự Benedict

(Source: Vatican News - English: Death of Pope Emeritus Benedict: his official biography. https://www.vaticannews.va/en/vatican-city/news/2022-12/pope-emeritus-benedict-xvi-official biography.html

Xuất xứ: Tin Tòa thánh Vatican - Tiếng Anh: Sự qua đời của Đức Giáo hoàng Danh dự Benedict: tiểu sử chính thức của Ngài - Phạm Văn Bân dịch, January 04, 2023)

Cố Đức Giáo hoàng Danh dự Benedict XVI 

VATICAN


Theo sau thông báo về sự qua đời của Đức Giáo hoàng Danh dự Benedict XVI vào ngày Thứ Bảy (12-31-2022) ở tuổi 95, chúng ta nhìn lại cuộc đời trường thọ của Ngài và các điểm nổi bật chính yếu với tiểu sử chính thức sau đây. Theo Tin Tòa thánh Vatican

Hồng y Joseph Ratzinger, Đức Giáo hoàng Benedict XVI, sinh tại Marktl am Inn, Giáo phận Passau (nước Đức) vào ngày 16-04-1927 (Thứ Bảy Tuần Thánh) và được rửa tội cùng ngày.

Cha của ngài, một Ủy viên Cảnh sát, thuộc một gia đình nông dân lâu đời tại Lower Bavaria với tài lực kinh tế vừa phải. Mẹ ngài là con gái của một thợ thủ công tỉnh Rimsting bên bờ Hồ Chiem. Trước khi kết hôn, bà làm đầu bếp cho một số khách sạn.

Joseph trải qua thời thơ ấu và niên thiếu ở Traunstein, một làng nhỏ gần biên giới nước Austria/Áo, cách Salzburg ba mươi cây số. Trong môi trường này, chính ngài tự khẳng định là “Mozartian/người theo nhạc Mozart”, ngài nhận được đào tạo về Thiên chúa giáo, văn hóa và con người. 

Những năm tháng tuổi trẻ của ngài không hề dễ dàng. Đức tin của ngài và sự giáo dục nhận được  ở quê nhà đã chuẩn bị cho ngài kinh nghiệm khắc nghiệt trong những năm mà chế độ Quốc-xã  theo đuổi thái độ thù hằn đối với Giáo hội Thiên chúa giáo. Chàng thanh niên Joseph đã chứng  kiến cảnh một số lính Quốc-xã đánh đập Cha Giáo xứ trước buổi cử hành Thánh lễ. 

Đúng trong hoàn cảnh phức tạp đó, ngài khám phá ra nét đẹp và chân lý của niềm tin vào Chúa  Christ; nền tảng cho việc này là thái độ của gia đình ngài, là những người luôn luôn làm chứng rõ  ràng về lòng bác ái và hy vọng, được bắt nguồn từ một sự gắn bó vững chắc đối với Giáo hội. 

Ngài đã ghi danh vào một quân-đoàn-phòng-không-phụ-trợ cho đến tháng 9 năm 1944.

Tu sĩ

Từ năm 1946 đến năm 1951, ngài học triết học và thần học tại Trường Cao cấp Triết học và Thần  học Freising và tại Đại học Munich. 

Ngài thụ phong linh mục ngày 29-06-1951. Một năm sau, ngài bắt đầu giảng dạy tại Trường Cao  cấp Freising. 

Năm 1953, ngài lấy bằng tiến sĩ thần học với luận án mang tựa đề “Dân chúng và Nhà Thiên Chúa  trong Học thuyết của Thánh Augustine về Giáo hội”. 

Bốn năm sau, dưới sự hướng dẫn của giáo sư thần học căn-bản nổi tiếng Gottlieb Söhngen, ngài  hội đủ điều kiện giảng dạy tại đại học với luận án chuyên về: “Thần học về Lịch sử thông qua  Thánh Bonaventura”. 

Sau khi dạy thần học tín-lý và căn-bản tại Trường Cao cấp Triết học và Thần học Freising, ngài tiếp tục dạy tại Bonn, từ năm 1959 đến năm 1963; tại Münster từ 1963 đến 1966; và tại Tübingen  từ năm 1966 đến năm 1969. Trong năm cuối này, ngài giữ chức Chủ tịch Giáo lý và Lịch sử Giáo  lý tại trường Đại học Regensburg, nơi ngài cũng là Phó Khoa trưởng của trường. 

Từ năm 1962 đến năm 1965, ngài đã có những đóng góp đáng chú ý cho Công đồng Vatican II với  tư cách là một “chuyên viên”, có mặt tại Công đồng như là một cố vấn thần học của Đức Hồng y  Joseph Frings, Tổng Giám mục giáo phận Cologne. 

Hoạt động khoa học tích cực của ngài đã đưa ngài đến những vị trí quan trọng trong việc phục vụ Hội đồng Giám mục Đức quốc và Ủy ban Thần học Quốc tế. 

Năm 1972, cùng với Hans Urs von Balthasar, Henri de Lubac và các thần học gia quan trọng khác,  ngài khởi xướng tạp chí thần học Communio. (Communion/Rước Lễ). 

Giám mục và Hồng y

Vào ngày 25-03-1977, Đức Giáo hoàng Paul VI bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám mục Munich và  Freising. Ngày 28-05 cùng năm, ngài thụ phong hồng y. Ngài là giám mục giáo phận đầu tiên sau 80 năm để đảm nhận việc điều khiển mục vụ của Tổng giáo phận Bavarian rộng lớn. 

Ngài chọn phương châm giám mục của mình: “Những người đồng hành cùng với chân lý”. Chính  ngài giải thích tại sao: 

Một mặt, tôi xem đó như là mối tương quan giữa nhiệm vụ giáo sư trước đây với nhiệm vụ mới của tôi. Bất chấp những khuynh hướng khác nhau, bất chấp chuyện gì liên quan, và  vẫn tiếp tục như vậy, sự kiện là đi theo lẽ thật và phụng sự lẽ thật. Mặt khác, tôi chọn  phương châm đó bởi vì trong thế giới ngày nay, chủ đề về chân lý gần như bị loại bỏ hoàn  toàn, như là một điều gì đó quá vĩ đại đối với con người, nhưng mọi thứ sẽ sụp đổ nếu thiếu  vắng chân lý. 

Đức Giáo hoàng Paul VI phong ngài tước Hồng y với tước hiệu giám mục “Santa Maria  Consolatrice al Tiburtino” trong Hội nghị Hồng y vào ngày 27-06-1977. 

Năm 1978, ngài tham gia Mật Nghị Hồng y vào ngày 25 và 26 tháng 8, bầu chọn Đức Giáo hoàng  John Paul I, người đã bổ nhiệm ngài làm Đặc Phái viên tại Đại Hội Thánh Mẫu Quốc Tế III, được  tổ chức tại Guayaquil (Ecuador) từ ngày 16 đến 24 tháng 9. Vào tháng 10 cùng năm, ngài tham  gia Mật Nghị Hồng y bầu chọn Đức Giáo hoàng John Paul II. 

Ngài là Người-Tường-thuật của Đại hội đồng Thường kỳ lần thứ V của Thượng Hội đồng Giám  mục xảy ra vào năm 1980 với chủ đề: “Vai trò của Gia đình Thiên chúa giáo trong Thế giới Hiện  đại”, và là Chủ tịch Đại biểu của Đại hội đồng Thường kỳ lần thứ VI năm 1983 về “ Hòa Giải và  Sám Hối trong Sứ Mạng của Giáo Hội Ngày Nay”. 

Tổng trưởng 

Ngày 25-11-1981, Đức Giáo hoàng John Paul II bổ nhiệm ngài làm Tổng trưởng Thánh bộ Giáo  lý Đức tin và Chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Thánh kinh và Ủy ban Thần học Quốc tế. Ngày 15- 02-1982, ngài từ chức điều khiển phụng sự cho Tổng giáo phận Munich và Freising. 

Đức Thánh Cha nâng ngài lên Dòng Giám Mục và giao Tòa Thánh ngoại ô Velletri-Segni cho ngài  phụ trách vào ngày 05-04-1993. 

Ngài là Chủ tịch Ủy ban Chuẩn bị cho Giáo lý của Giáo hội Thiên chúa giáo, sau sáu năm làm việc  (1986-1992), đã trình sách Giáo lý mới lên Đức Thánh Cha. 

Vào ngày 06-11-1998, Đức Thánh Cha phê chuẩn việc bầu chọn Đức Hồng Y Ratzinger làm Phó  Niên Trưởng Hồng Y Đoàn, do các hồng y của Dòng Giám Mục đệ trình. Vào ngày 30-11-2002,  Đức Giáo hoàng John Paul II phê chuẩn việc bầu ngài làm Niên Trưởng Hồng Y Đoàn; cùng với  văn phòng này, ngài được giao phụ trách Tòa Thánh ngoại ô Ostia. 

Năm 1999, ngài là đặc phái viên của Đức Giáo hoàng cho Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập Giáo  phận Paderborn, nước Đức, xảy ra vào ngày 3 tháng Giêng.

Trong Giáo triều Roman, ngài là thành viên của: Hội đồng Quốc vụ khanh về Tương quan với các  Quốc gia; Thánh bộ Giáo hội Đông phương, Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Giám mục,  Truyền giáo Dân tộc, Giáo dục Thiên chúa giáo, Giáo sĩ và Phong thánh; các Hội đồng Giáo hoàng  về Cổ vũ Văn hóa và Hiệp nhất Thiên chúa giáo; Tối cao Pháp viện của Tòa án Tông đồ, và của  Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ Latin, “Ecclesia Dei/Hội Thánh Đức Chúa Trời/天主的教會:  Thiên Chúa đích Giáo hội: Giáo hội của Thiên Chúa”, Thánh bộ Giải thích về bộ Giáo luật, và Tu  chỉnh về bộ Giáo luật của Giáo hội Đông phương. Kể từ ngày 13-11-2000, ngài là Viện sĩ Danh dự của Học viện Giáo hoàng về Khoa học.

Về học thuật 

Trong số nhiều ấn phẩm của ngài, một điều đặc biệt cần nhắc đến là cuốn Introduction to  Christianity/Nhập môn Thiên chúa giáo, một tuyển tập của các bài giảng đại học về Tín điều Sứ đồ, xuất bản năm 1968; và Dogma and Preaching/Tín lý và Mạc khải (1973), một tuyển tập của  các tiểu luận, bài giảng đạo và phản ánh suy tư dành riêng cho các lập luận mục vụ. 

Bài thuyết giảng của ngài trước Học viện Thiên chúa giáo Bavaria về “Tại sao tôi vẫn ở trong Giáo  hội” đã gây tiếng vang lớn; trong đó, ngài tuyên bố rõ ràng như thường lệ: “người ta chỉ có thể là  tín đồ Thiên chúa giáo ở bên trong Giáo hội, không thể ở bên cạnh Giáo hội”. 

Nhiều ấn phẩm của ngài đã được phổ biến trong nhiều năm và tạo thành một điểm tham khảo cho  nhiều người, đặc biệt cho những người quan tâm đến việc nghiên cứu sâu hơn về thần học. Năm  1985, ngài xuất bản cuốn-sách-phỏng-vấn về tình hình đức tin (The Ratzinger Report/Báo cáo của  Ratzinger) và vào năm 1996, Salt of the Earth (nguyên tựa đề là Salz der Erde, Licht der Welt:  Muối của trái đất, ánh sáng của thế giới). Nhân dịp sinh nhật 70 tuổi của ngài, tập sách At the  School of Truth/Ở tại Trường Chân lý được xuất bản, bao gồm các bài viết của một vài tác giả về các khía cạnh khác nhau về tính cách cá nhân và tác phẩm của ngài. 

Ngài nhận được nhiều bằng tiến sĩ danh dự: năm 1984 từ Đại học St. Thomas tại St. Paul,  (Minnesota, Mỹ); năm 1986 từ Đại học Thiên chúa giáo Lima (Peru); năm 1987 từ Đại học Thiên  chúa giáo Eichstätt (Đức); năm 1988 từ Đại học Thiên chúa giáo Lublin (Poland); năm 1998 từ Đại học Navarre (Pamplona, Spain); năm 1999 từ LUMSA (Libera Università Maria Santissima  Assunta) của Rome và năm 2000 từ Khoa Thần học của Đại học Wrocław tại Poland. 

Đức Giáo hoàng 

Hồng y Joseph Ratzinger được bầu vào ngày 19-04-2005 là Đức Giáo hoàng 265th

Ngài là người lớn tuổi nhất được bầu làm Đức Giáo hoàng kể từ năm 1730, và là vị Hồng y trong  một thời gian lâu hơn bất cứ Đức Giáo hoàng nào kể từ năm 1724. 

Vào ngày 11-02-2013, trong Công nghị Công khai Thường lệ để Bỏ phiếu về một vài Án Phong  Thánh, Đức Giáo hoàng Benedict công bố quyết định từ chức Phụng sự Thánh Peter/Petrine  ministry với những lời như sau:

Sau khi lặp đi lặp lại xét mình trước mặt Thiên Chúa, tôi đã chắc chắn rằng sức lực của  tôi, do tuổi cao, không còn thích hợp để thực hiện việc Phụng Sự Thánh Peter một cách  thỏa đáng nữa. Tôi ý thức rất rõ rằng việc phụng sự này, do bản chất tinh thần thiết yếu của nó, phải được thực hiện không những bằng lời nói và việc làm, mà còn không kém  phần cầu nguyện và chịu đựng đau khổ. Tuy nhiên, trong thế giới ngày nay, bị hướng về nhiều biến chuyển mau lẹ và bị lung lay bởi những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc về đời sống  đức tin nên để điều khiển chiếc thuyền của Thánh Peter và loan truyền Phúc-âm thì cần có  sức mạnh cả thể xác lẫn tinh thần, một sức mạnh mà trong vài tháng vừa qua đã bị sa sút  trong tôi đến nỗi tôi phải nhận thức rằng tôi không có khả năng để hoàn thành một cách  thỏa đáng cho việc phụng sự đã được trao phó cho tôi. Vì lý do này, và ý thức rất rõ ràng  về sự nghiêm trọng của hành động này, với tự do hoàn toàn, tôi tuyên bố từ chức phụng sự Giám mục Roma, Người Kế vị Thánh Peter. 

Triều đại giáo hoàng của ngài kết thúc vào ngày 28-02-2013. 

Sau khi việc từ chức của ngài có hiệu lực, Đức Giáo hoàng Danh dự Benedict XVI sống bên trong  Tòa Thánh, trong Tu viện Mater Ecclesiae cho đến khi ngài qua đời. 



Bản gốc tiếng Anh: 

(Vatican News - English: Death of Pope Emeritus Benedict: his official biography. https://www.vaticannews.va/en/vatican-city/news/2022-12/pope-emeritus-benedict-xvi-official biography.html.) 


3/2/22

TẬN THẾ

 https://i.ytimg.com/vi/BDjl4-k8YCU/hqdefault.jpg


TẬN THẾ

Ngày xưa, lúc tôi mới 12 tuổi, tôi mơ ước được sống đến năm 2000. Lý do, theo Thánh Kinh, năm 2000 là năm tận thế. Bạn học cùng lớp nói : “ Mi là thằng ích kỷ. Mi muốn là người chết cuối cùng của nhân loại.” Đến năm 2000, tôi mới chỉ 56 tuổi. Nhưng lúc đó mọi người đều tin rằng : năm 2000 là năm tận thế và mọi người đều phải chết, không ai có thể tránh khỏi. Tôi cũng tin như vậy, mặc dầu tôi không phải là người theo Thiên Chúa Giáo. Nhân loại tận thế như thế nào thì chẳng ai biết vì Thánh Kinh không nói rõ. Tôi cũng nghe nói nhà Tiên Tri Nostradamus (1503 – 1566) đã đoán trước về Họa Da Vàng. Ông đoán một trận chiến tranh giữa Phương Tây Da Trắng và Trung Hoa Da Vàng sẽ xảy ra và Phương Tây Da Trắng là nước thắng trận. Hơn bốn trăm năm sau ngày Nostradamus qua đời, trận chiến thực sự giữa Phương Tây Da Trắng và Trung Hoa Da Vàng vẫn chưa xảy ra.  Tôi nghĩ đó chỉ là tiên đoán viển vông cho ngày tận thế xảy ra trong tương lai. Tôi được xem một phim Ngày Tận Thế. Tôi không nhớ rõ câu chuyện xảy ra. Tôi chỉ nhớ cảnh nước cuốn người, nhà cửa và lửa cháy … Tôi nhớ, cuối cuốn phim chiếu một vị thiền sư thản nhiên ngồi uống trà trên núi Everett của rặng Hy Mã Lạp Sơn. Vị thiền sư này thản nhiên như vô sự trước tai họa tận thế của nhân loại. Sau này có nhiều phim về ngày tận thế nên tôi không còn bị ám ảnh về ngày tận thế.

Gần đến năm 2000, thế giới lại xôn xao về tận thế. Sự cố Y2K (hay còn gọi là sự cố năm 2000). Các chuyên gia máy tính cho biết đến năm 2000 bộ đếm thời gian trên máy tính sẽ ghi nhận đó là năm 1900.  Lý do là vì trước đó người ta chỉ lập trình hai chữ số đại diện cho ngày/tháng/năm. Vì vậy, ngày mùng 1 tháng Giêng năm 2000 (1/1/00) cũng sẽ được biểu thị giống với mùng 1 tháng Giêng năm 1900. Từ đó, rất nhiều lời dự đoán về những thảm họa do sự cố Y2K gây ra, như tàu hỏa đi chệch đường ray, máy bay bị rơi do hệ thống máy tính bị nhiễu loạn … và nhân loại sẽ bị tận thế. Nhưng may mắn thay, các chuyên gia trên toàn thế giới đã kịp sửa chữa các hệ thống máy tính nên đã không có thảm họa đáng kể nào xảy ra khi thế giới bước vào năm 2000.

Kể từ đó về sau không ai còn sợ nhân loại sẽ bị tận thế, mặc dầu có những tin, những đồn đoán về ngày tận thế sẽ xảy ra. Chẳng hạn Năm 2011, ở nước Mỹ đặc biệt là thành phố New York bỗng rộ lên tin đồn về ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 21 tháng 5 năm 2011. Ông Harold Camping, 89 tuổi, Giám đốc Đài phát thanh Thiên chúa giáo và phụ trách trang web Family Radio khi đó dự đoán rằng, ngày 21 tháng 5 năm 2011 sẽ là ngày tận thế theo một công thức toán học phức tạp từ những con số được lặp lại nhiều trong kinh thánh. Nhiều người tin vào điều này và đã tình nguyện mặc áo phông, cầm tờ rơi, áp phích đi khắp các đường phố để khuyên mọi người hãy tận dụng vài ngày còn lại. Tuy nhiên, dự đoán của ông đã hoàn toàn sai,  ngày 21 tháng 5, trái đất vẫn chưa tận thế. Để chữa thẹn cho những đồn đoán sai của mình, ông cho biết, ông thực sự kinh ngạc khi ngày này qua đi mà thế giới vẫn nguyên vẹn và nói rằng : ông đã kiểm tra lại các lý thuyết mới và nói rằng Chúa đã ban phát cho con người thêm 5 tháng nữa, vì thế ngày tận thế sẽ là ngày 21 tháng 10 năm 2011.

Một tin đồn khác thì ngày 21 tháng 12 năm 2012 sẽ là ngày diệt vong của toàn nhân loại dựa theo sự kết thúc cuốn lịch của người Maya. Đó là thời khắc mà thời đại của chúng ta sẽ kết thúc để chuyển sang một thời đại mới. Ngoài ra, dự đoán về ngày tận thế ngày 21 tháng 12 năm  2012 này cũng gắn với một sự kiện thiên văn học có thật khi trái đất và mặt trời sẽ sắp thẳng hàng với tâm của giải thiên hà. Đến ngày 21 tháng 12 năm 2012 thế giới vẫn bình an.

Gần đây nhất, một đoạn video khẳng định ngày 29 tháng 7 năm  2016 sẽ là ngày tận thế của Trái Đất. Theo đó, Chúa Giê-su tái thế, hai cực Trái Đất sẽ đảo ngược dẫn đến một trận động đất dữ dội toàn cầu, mặt trời hóa đen và mặt trăng thì xoay tròn liên tục … Tuy nhiên, lời tiên đoán đã bị NASA bác bỏ, cho rằng nó không đúng sự thực và hiện tượng đảo cực hoàn toàn không mang lại hậu quả đáng sợ đến mức như vậy.

Isaac Newton dự đoán thế giới sẽ kết thúc vào năm 2060. Sinh năm 1643, Isaac Newton được coi là một chuyên gia về thần học. Ông đã dành cả đời để nghiên cứu về Chúa và tôn giáo. Ông cũng là một nhà khoa học với nhiều phát kiến vĩ đại, trong đó có thuyết vạn vật hấp dẫn. Dự đoán của nhà khoa học vĩ đại Isaac Newton vừa được phát hiện trong một tài liệu viết tay của ông. Các nhà khoa học mới đây đã phát hiện một tài liệu viết tay của nhà khoa học Isaac Newton có tiêu đề "Jehovah Sanctus Unus". Trong tài liệu này, ông đã dự đoán thế giới hiện tại sẽ kết thúc vào năm 2060 và trái đất một lần nữa trở thành “Vương quốc của Chúa”. Dự đoán của Newton được tiết lộ trong cuốn sách mới xuất bản của nhà thiên văn học người Áo Florian Freistetter. Nhà thiên văn học Freistetter viết : “Đối với Newton, năm 2060 sẽ là một sự khởi đầu mới, có thể kèm theo chiến tranh và thảm họa”. Florian Freistetter cho biết nhà khoa học Isaac Newton tin vào các sự kiện tương lai đã được “Chúa an bài”.

Dự báo về ngày tận thế xa nhất là dự báo của đại danh họa Leonardo da Vinci  được giải mã sau những phân tích mới nhất về kiệt tác Last Supper (Bữa Tối Cuối Cùng) của ông. Da Vinci bắt đầu vẽ bức The Last Supper vào năm 1495 và kết thúc vào năm 1498.  Leonardo da Vinci được coi là một trong số những thiên tài vĩ đại nhất thế giới. Ngoài bức họa nổi tiếng về nàng Mona Lisa, kiệt tác Bữa Tối Cuối Cùng của Da Vinci cũng được quan tâm đặc biệt vì thông điệp ngày tận thế được mã hóa ẩn trong đó.

https://i.khoahoc.tv/photos/image/2019/05/17/The-Last-Supper.jpg

Tác phẩm Last Supper (Bữa tối cuối cùng).

Kiệt tác "The Last Supper" mô tả bữa tối cuối cùng của Chúa Jesus với các tông đồ, được cho là bức tranh bị sao chép nhiều nhất. Phân tích mới nhất về bức họa này cho thấy có một thông điệp tai họa ẩn trong nó. Đó là thời điểm chính xác mà thế giới bị hủy diệt. Sau khi phân tích kỹ bức tranh trên, một nhà nghiên cứu Vatican cho biết, Leonardo da Vinci đã dự báo rằng ngày tận thế sẽ diễn ra vào ngày 1 tháng 11 năm 4006. Nhà nghiên cứu Sabrina Sforza Galitzia cho biết, cửa sổ hình bán nguyệt phía trên Chúa Jesus chứa đựng câu đố về chiêm tinh và toán học mà bà đã giải mã được. Chuyên gia hội họa người Italia trên cho hay, Leonardo da Vinci đoán rằng ngày tận thế sẽ xảy ra trong một trận đại hồng thủy toàn cầu, bắt đầu vào ngày 21 tháng  3 năm 4006 và kết thúc vào ngày 1 tháng  11 cùng năm. Các tài liệu cho thấy, Da Vinci tin rằng điều đó sẽ đánh dấu sự khởi đầu mới đối với loài người, Sforza Galitzia cho hay. Sforza Galitzia làm việc tại cơ quan lưu trữ văn thư của Vatican. Người phụ nữ này từng nghiên cứu các bản thảo gốc của Da Vinci khi làm nghiên cứu tại Đại học California.

Đa số con người không còn sợ hay nghĩ nhiều về ngày tận thế. Chỉ có một ít nhỏ nhoi người có tiền của còn bị ám ảnh bởi ngày tận thế. Cho nên một số căn hộ ngày tận thế nằm trong hệ thống hầm trú ẩn có khả năng chống lại thiên tai, cách ly với dịch bệnh và thách thức với sự tấn công của vũ khí hạt nhân có giá khoảng 3 triệu USD một căn, chưa xây xong đã bán hết. 

Gần đây nhiều sự kiện xảy ra như thảm họa môi trường, bão tsunami, hạn hán, dịch bệnh do virus cúm gà, virus covid - 19,….. đã cho con người thấy rằng : chính con người gây ra tai họa nên con người phải lãnh hậu quả do mình làm ra, không phải do sự trừng phạt của thượng đế. Những đồn đoán về ngày tận thế khẩn thiết được đưa ra. Đồn đoán về tận thế này không dựa trên kinh thánh hay của các chiêm tinh gia mà của các nhà khoa học. Các nhà khoa học đã khẩn thiết kêu gọi mọi người hãy thức tỉnh nếu không ngày tận thế chắc chắn sẽ xảy ra một ngày không xa. Chẳng hạn nhà khoa học James Lovelock dự đoán  80% khả năng con người sẽ diệt vong vào năm 2100. Ông hình dung về sự kết thúc của nhân loại, sẽ chỉ còn vài cặp đôi sống sót ở Bắc cực vào cuối thế kỷ 21. Hơn 10 năm trước, khi nhiệt độ tháng 7 tăng cao kỷ lục, James Lovelock đã phát biểu trên tờ The Guardian rằng, 80% sự sống con người trên Trái đất sẽ bị diệt vong vào năm 2100. Nguyên nhân là bởi sự biến đổi khí hậu.

Cơ quan NASA lại có ưu tư khác về lý do ngày tận thế. Bà Michelle Thaller - trợ lý giám đốc truyền thông khoa học tại NASA, đã chia sẻ một trong những dấu hiệu đáng tin cậy nhất cho thấy ngày tận thế đang đến trên trang web Big Think.  Bà Thaller nói rằng NASA không phải là cơ quan duy nhất quan sát bầu trời và tìm kiếm các mối đe dọa tiềm tàng, còn có các nhà thiên văn học trên khắp thế giới đang làm điều tương tự, nên sẽ không thể che giấu sự thật về một thảm họa sắp xảy ra. "Trong trường hợp thậm chí có khả năng xảy ra "va chạm xấu" giữa Trái đất và tiểu hành tinh, NASA sẽ thông báo cho không chỉ chính quyền, mà cả giới truyền thông", bà Thaller cho biết. Nhà khoa học lưu ý rằng NASA hiện đang nghiên cứu các phương pháp để không chỉ thông báo về các mối đe dọa tiềm ẩn, mà còn để ngăn chặn chúng. Bà Thaller giải thích rằng có thể thay đổi quỹ đạo của các vật thể không gian và khiến chúng không đâm thẳng xuống Trái đất. Năm ngoái, NASA đã trình bày "Kế hoạch hành động và chiến lược chuẩn bị vật thể gần Trái đất" của mình, nhằm mục đích tìm kiếm, theo dõi và ngăn chặn các vật thể nguy hiểm tiềm tàng có thể tấn công Trái đất và dẫn đến sự hủy diệt hàng loạt. Hiện tại có khoảng 25.000 tiểu hành tinh trong Hệ Mặt Trời đủ lớn để gây thiệt hại lớn cho hành tinh của chúng ta.

Tóm lại tận thế là có thật. Tận thế đến sớm hay muộn là do con người.

Hai nguyên nhân chính khiến nhân loại tận thế : 

Thảm Họa Môi trường

Hơn bao giờ hết thế giới đang đứng trước nguy cơ 10 thảm họa đe dọa con người và trái đất và nếu không có sự phối hợp của toàn cầu để giải quyết thì nguy cơ tuyệt chủng không phải là một tương lai quá xa xôi. Những thảm họa môi trường do con người gây ra có thể đẩy chính họ đến nguy cơ tuyệt chủng. Theo các nhà khoa học 10 thảm họa đó là :

1. Đất đai bị suy thoái

2. Sự biến đổi khí hậu, cạn kiệt nguồn năng lượng và hiệu ứng nhà kính đang đe dọa toàn nhân loại

3. Giảm tính đa dạng động thực vật

4. Diện tích rừng giảm sút

6. Ô nhiễm hoá chất

7. Đô thị hoá vô tổ chức

8. Diện tích mặt biển và đại dương sẽ tăng quá mức

9. Không khí bị ô nhiễm nặng nề

10. Lỗ thủng tầng ozon ngày càng rộng ra ở vùng cực.

Chiến Tranh Thế Giới

Những sự kiện xảy ra giữa Mỹ và Trung Hoa khiến người ta lo ngại trận chiến giữa hai cường quốc sẽ xảy ra. Trung Hoa muốn làm chủ biển Đông, soán ngôi chúa tể và trả thù cho thế kỷ trước, Trung Hoa đã bị phương Tây xâu xé, khinh bỉ. Hoa Kỳ quyết giữ vị thế cường quốc số 1 trên thế giới. Nhà tiên tri Nostradamus đã đoán đúng về Họa Da Vàng và chiến tranh giữa Trung Hoa và Phương Tây sẽ xảy ra. Nhưng người ta nghi ngờ về kết luận của ông rằng người Phương Tây thắng trận.

Nga xâm lăng Ukraine. Ông Putin nói ai đe dọa Nga sẽ lãnh hậu quả chưa từng có, khiến các báo châu Âu bình luận rằng đây là cách ông Putin cảnh cáo các nước ủng hộ Ukraine rằng : Nga sẵn sàng dùng vũ khí hạt nhân. Tổng thống Vladimir Putin nói ông đã ra lệnh cho quân đội Nga đặt các lực lượng hạt nhân của họ trong tình trạng "báo động đặc biệt" để đáp lại cái mà ông mô tả là “sự hung hãn” của NATO. Đáp trả lời đe dọa của ông Putin, bộ trưởng Le Drian đã nói trên kênh TF1 của Pháp rằng Nga "cần biết Nato là một liên minh có vũ khí nguyên tử". Chiến trường Ukraine mỗi lúc mỗi căng thẳng bởi vì có vẻ như Nga, khối NATO đều không nhượng bộ lẫn nhau tại Ukraine. Cả hai phe đều đẩy lẫn nhau vào chân tường, chiến tranh nguyên tử có nguy cơ xảy ra.

Như vậy chiến tranh thế giới thứ 3 có thể xảy ra vì Mỹ - Trung, cũng có thể vì Nga – Nato. Nhiều người cho rằng nếu thế chiến thứ 3 xảy ra thì thế chiến thứ 4 con người sẽ lấy đá ném nhau. Họ muốn nói chẳng có bên nào thắng hay bên nào thua cả, kết quả thế chiến thứ 3 là con người sẽ trở về thời đồ đá … nghĩa là tận thế.

Những nguyên nhân khác 

Những nguyên nhân khác sau đây cũng có thể là ngòi lửa gây ra tận thế cho loài người :

Nạn Nhân Mãn

Nếu tỷ suất sinh hiện nay tiếp diễn, năm 2050 tổng dân số thế giới sẽ là 11 tỷ người, với 169 triệu người tăng thêm mỗi năm. Tuy nhiên, tỷ suất sinh đã giảm trong nhiều thập kỷ, và các con số cập nhật của Liên hiệp quốc dự đoán dân số thế giới sẽ đạt 9.2 tỷ người khoảng năm 2050. Dân số thế giới hiện nay là 6 tỷ mà đã cảm thấy trái đất chật hẹp.  

Theo các nhà khoa học một số vấn đề gắn liền hay trở nên trầm trọng hơn bởi sự quá tải dân số loài người:

  1. Thiếu nước sạch

  2. Suy giảm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là nhiên liệu hóa thạch

  3. Tăng mức độ ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, ô nhiễm đất và ô nhiễm tiếng ồn

  4. Phá rừng và mất hệ sinh thái

  5. Thay đổi thành phần khí quyển và hậu quả nóng lên toàn cầu

  6. Mất đất canh tác không thể phục hồi và sa mạc hoá

  7. Nhiều giống loài bị tuyệt chủng

  8. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và trẻ em cao.

  9. Tăng cơ hội phát sinh của bệnh dịch và dịch lớn

  10.  Đói, suy dinh dưỡng

  11.  Các điều kiện sống mất vệ sinh vì suy giảm nguồn nước, tình trạng xả nước thải và chất thải rắn không qua xử lý

  12.  Tỷ lệ tội phạm cao

  13.  Xung đột về các nguồn tài nguyên đang cạn kiệt, dẫn tới gia tăng các nguy cơ chiến tranh.

Vật Thể và Hành Tinh Đâm Thẳng Vào Trái Đất  

NASA được quốc hội Hoa Kỳ ủy thác cho nhiệm vụ phát hiện, theo dõi và phân loại mọi NEO có đường kính ít nhất 1 km, do sự va chạm của chúng với Trái Đất có thể gây ra một thảm họa lớn cho hành tinh. Tính đến tháng 8 năm 2012, đã phát hiện được 848 tiểu hành tinh gần Trái Đất có đường kính lớn hơn 1 km, 154 trong số chúng có khả năng gây nguy hiểm tiềm ẩn (PHAs). Năm 2006 các nhà thiên văn ước lượng rằng còn khoảng 20% tiểu hành tinh gần Trái Đất chưa được phát hiện. Chương trình NEOWISE công bố kết quả vào năm 2011, rằng khoảng 93% vật thể NEA có đường kính lớn hơn 1 km đã được tìm thấy và chỉ còn 70 tiểu hành tinh nguy hiểm chưa bị phát hiện.

Sát thủ không gian đang hướng về phía trái đất. Các chuyên gia đang theo dõi thiên thạch khổng lồ lao về phía trái đất với tốc độ lên đến 57.240 km/giờ. Dự báo một thiên thạch khổng lồ sắp bay sượt qua trái đất. Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) đang theo dõi thiên thạch 2002 PZ39 có đường kính gần 1km đang lao về phía trái đất với tốc độ 57.240 km/giờ. Theo dự báo, thiên thạch này sẽ “tiếp cận gần” với trái đất vào khoảng 11 giờ 5 ngày 15.2 (giờ GMT) năm 2002. Tờ Daily Express dẫn thông tin từ NASA cho biết bất cứ thiên thạch nào với kích cỡ tương tự đều có khả năng “xóa sổ” hàng triệu người nếu lao xuống trái đất. Theo NASA: “Thiên thạch có kích cỡ từ 25 - 1.000 m lao vào trái đất sẽ gây thiệt hại tại khu vực tác động. Chúng tôi tin rằng những thiên thạch từ 1 - 2 km sẽ có tác động toàn cầu”. Khả năng hủy diệt này từng được đề cập trong báo cáo năm 2018 của Nhà Trắng về các vật thể gần trái đất (NEO), bao gồm các tiểu hành tinh, sao chổi và thiên thạch lớn. Kế hoạch quốc gia về chiến lược và hành động sẵn sàng đối phó các vật thể gần trái đất của Mỹ cảnh báo rằng các thiên thạch có đường kính lên đến 1km có thể kích hoạt một chuỗi hủy diệt trong thiên nhiên. Theo đó, nó có thể gây động đất, sóng thần và tác động thứ cấp vượt xa khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp. 

Tôn Giáo

Jerusalem – Mảnh Đất Tranh Chấp Của Ba Tôn Giáo : Cơ Đốc Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo. Cả ba tôn giáo đều tuyên bố Jerusalem là thánh địa và là nguyên nhân suốt ba ngàn năm lịch sử với hàng loạt cuộc chiến tranh đẫm máu và tàn khốc kéo dài cho đến tận ngày nay. Do đó bất kỳ một sự thay đổi nào cũng sẽ thổi bùng ngọn lửa dẫn đến chiến tranh. Trong một thông điệp được gởi đi vào rạng sáng ngày 17 tháng 12 năm 2017, tổng thống Donald Trump sẽ công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel và chuyển Đại Sứ Quán tới địa điểm này. Quyết định của tổng thống Trump đã nổi lên một làn sóng phản kháng dữ dội trong thế giới Ả Rập đặc biệt là Palestine. Theo những người Palestine thì Jerusalem thuộc về họ và nghị quyết 58 năm 1992 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc cũng khẳng định rằng người Palestine có chủ quyền với Đông Jerusalem. Do đó tổng thống Trump sẽ gặp phải rất nhiều trở ngại và có thể gây ra chiến tranh lớn khi thực hiện tuyên bố của mình.

Dân Tộc Chủ Nghĩa

Đại dịch Covid-19 cho thấy: không có sự cộng tác giữa các quốc gia với nhau. Ngày nay tinh thần dân tộc chủ nghĩa lớn mạnh. Tranh chấp lãnh thổ diễn ra ở nhiều nơi như ở biển đông, tranh chấp Ấn Hồi về lãnh thổ Caschemir, tranh chấp Trung Ấn …. Tinh thần cực hữu bài ngoại lớn mạnh ở Tây Âu. Tinh thần dân tộc chủ cũng là ngòi lửa cho cuộc chiến lớn.

Kết Luận

Để giải quyết vấn đề tận thế, kéo dài tuổi thọ của trái đất. Những giải pháp sau đây có thể giúp cho con người sống bình an và thoát khỏi tận thế :

Cầu Nguyện

Cầu nguyện không phải để van xin Thượng Đế ban cho hay cứu giúp chấm dứt tai họa cho địa cầu. Cầu nguyện cũng phải là thái độ ươn hèn chấp nhận thất bại. Cầu nguyện với trái tim khát khao hoàn thiện các đức tính của thánh hiền, để trừ khử những xấu ác và làm phát khởi những đức tính hiền thiện trong chính tự thân mình. Cầu nguyện để được thánh hiền truyền sức mạnh niềm tin và cảm xúc hứng khởi cho người cầu nguyện hành động thánh thiện trong cuộc đời. Bất cứ khi nào ta nhận được niềm tin và cảm xúc hứng khởi từ hành động và nhân cách cao thượng của ai đó, rồi hành động thiện lợi trong cuộc đời thì khi đó ta có thể nói rằng người đó đã ban cho ta. Mọi người cầu nguyện để tiến đến tinh thần : Từ Bi Hỉ Xả, Bác Ái Công Bằng của các tôn giáo. Mọi người sống trong tình thương yêu, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau. Thế giới làm gì còn cảnh kỳ thị. Thế giới làm gì còn chiến tranh. 

Giảm Ô Nhiễm Môi Trường

Giảm ô nhiễm môi trường là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với sự sống của trái đất, sức khỏe và sự hưng thịnh của loài người. Không khí chúng ta hít thở chứa đầy các chất gây ô nhiễm độc hại. Đại dương và các nguồn nước bị đầu độc bởi hóa chất. Nếu không được ngăn chặn, ô nhiễm môi trường sẽ khiến hành tinh của chúng ta mất dần đi vẻ đẹp, sức sống và sự đa dạng của nó.

Con người, con vật và thiên nhiên cây cối nương tựa vào nhau để sống hạnh phúc và trường tồn. Con người không phá hoại thiên nhiên cây cối, không giết, không ăn loài vật hoang dã để có cuộc sống an bình không có nhiều thiên tai, bệnh tật và kéo dài tuổi thọ của trái đất.

Định cư ngoài Trái Đất

Các nhà khoa học đã nghĩ đến việc đưa con người sinh sống ngoài trái đất. Trong thập niên 1970, Gerard O'Neill đã đề xuất xây những nơi sinh sống ngoài vũ trụ có thể đáp ứng gấp 30,000 lần khả năng của Trái Đất chỉ bằng cách sử dụng vành đai tiểu hành tinh và rằng cả hệ mặt trời có khả năng đáp ứng cho sự gia tăng dân số như hiện tại trong hàng nghìn năm nữa. Marshall Savage (1992, 1994) đã dự đoán tới năm 3000 một dân số loài người tới 5 lũy thừa 30 trong cả hệ mặt trời, đa số sống trong vành đai tiểu hành tinh. Arthur C. Clarke, một người ủng hộ Savage nhiệt thành, đã cho rằng tới năm 2057 sẽ có người ở trên Mặt Trăng, Sao Hoả, Europa, Ganymede, Titan và trong quỹ đạo quanh Sao Kim, Sao Hải Vương và Diêm Vương. Freeman Dyson (1999) coi vành đai Kuiper là một ngôi nhà trong tương lai của nhân loại, cho rằng điều này sẽ xảy ra trong vài thế kỷ nữa. Trong cuốn Mining the Sky, John S. Lewis cho rằng các nguồn tài nguyên trong hệ mặt trời đủ cung cấp cho 10 mũ 16 (10^16) người.

Sống Thanh Thản

Chưa ai biết Ngày Tận Thế xảy ra lúc nào. Nếu xảy ra thì xảy ra bất ngờ và rất nhanh. Mọi người đều chết, không ai sống. Không ai phải nằm bất động, hôn mê, đau đớn trong bệnh viện hàng tháng, hàng năm vì bệnh tật. Vậy thì có chi phải lo lắng sợ hãi. Cứ thanh thản hưởng nhàn như cụ Nguyễn Công Trứ. Cụ vạch rõ chữ nhàn rất dễ kiếm, ai cũng có thể có, dễ như thế mà mấy ai từ xưa đến nay tìm ra được. Cụ Nguyễn Công Trứ thể hiện triết lý nhàn của cụ trong bài ca trù Chữ Nhàn :

   
Chữ Nhàn

Thị tại môn tiền náo,
Nguyệt lai môn hạ nhàn.
So lao tâm lao lực cũng một đàn,
Người trần thế muốn nhàn sao được?
Nên phải giữ lấy nhàn làm trước,
Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài.
Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi,
Mười lăm trẻ, năm mươi già, không kể.
Thoắt sinh ra thì đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì?
Khi hỷ lạc, khi ái dục, lúc sầu bi,
Chứa chi lắm một bầu nhân dục.
Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?
Cầm kỳ thi tửu với giang san,
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế.
Ngã kim nhật tại tọa chi địa,
Cổ chi nhân tằng tiên ngã toạ chi.
Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,
Ai hay hát mà ai hay nghe hát?
Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất,
Để ông Tô riêng một thú thanh tao.
Chữ nhàn là chữ làm sao?

                                                                       

Quang Già Cơ

1/22/22

Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch tại chùa Từ Hiếu ở Huế, thọ 95 tuổi

Tin BBC tiếng Viêt ngày 22.01.2022

Thiền sư Thích Nhất Hạnh vừa viên tịch tại Huế, theo thông tin từ Tăng đoàn Làng Mai nói với BBC tối thứ Sáu 21/01 giờ châu Âu.

Thiền sư Nhất Hạnh tại Tp HCM trong một lễ giải oan hồi tháng 3/2007.

Sư cô Chân Hiến Nghiêm, người Anh, hiện có mặt tại Pháp cho BBC News Tiếng Việt biết vào lúc 20:55 giờ London tối thứ Sáu rằng "lễ tang thầy của chúng tôi sẽ được tổ chức ngay từ sáng Thứ Bảy, ở Huế và kéo dài 5 ngày".

Thông tin từ Tăng đoàn Làng Mai cho hay thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch lúc 00:00 giờ ngày 22/01, năm 2022, ở tuổi 95, theo giờ Việt Nam ở chùa Từ Hiếu, Huế.

"Đây là ngôi chùa thầy quy y đúng 80 năm về trước."

Thông bạch, cáo phó còn nói "nhà tác giả và nhà thơ, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết trên 100 cuốn sách, và sách của thầy được dịch sang 40 ngôn ngữ"


Các cuốn in bằng tiếng Anh, The Miracle of Mindfulness, Peace is Every Step, Anger, và How to Love, đều nổi tiếng thế giới.

Một bài trên BBC News tiếng Anh hồi 2018 gọi ông là "người cha của môn Chánh niệm" (The Father of Mindfulness).

Các sách báo quốc tế đặt ông vào vị trí là một trong số các "lãnh tụ tâm linh, tinh thần" - The Guardian ở Anh coi ông là 'exiled spiritual leader'- có tầm ảnh hưởng vượt ra ngoài một quốc gia.

BBC News Tiếng Việt hồi tháng 8/2010 có bài mô tả chuyến thăm của thiền sư đến London thuyết giảng về Phật giáo cho đa số người nghe là dân Anh và châu Âu:
Tăng đoàn Làng Mai trong buổi biểu diễn, thuyết giảng tại London tháng 8/2010

"Những người Việt Nam mới gặp phái Làng Mai có thể ngạc nhiên một cách thích thú khi thấy đa phần tăng ni theo ông là người Phương Tây. Nhưng đây không phải là chuyện lạ vì thực ra, Phật giáo cũng từ bên ngoài du nhập vào Việt Nam. Và nếu sau này, người thay thế Thiền sư Nhất Hạnh là một đệ tử Tây Phương thì cũng hợp lý bởi Làng Mai trước hết là một sản phẩm của xã hội châu Âu. Thông điệp của Thích Nhất Hạnh ngay từ thời Chiến tranh Việt Nam cũng đã vượt lên vị trí địa lý của xứ sở quê ông."

Trang BBC Religion viết về cuộc đời ông như sau:

Sinh năm 1926, ông quy y năm 16 tuổi và đúng tám năm sau đã lập ra Viện Phật giáo Ấn Quang ở Sài Gòn.

Năm 1961, Thích Nhất Hạnh sang Hoa Kỳ học và dạy môn tôn giáo so sánh ở các đại học Columbia và Princeton. Ông trở về Việt Nam hai năm sau đó để tham gia dẫn dắt các nỗ lực Phật giáo vì hòa bình.

Tháng 2/1964, ông lập ra dòng Tiếp Hiện, và đến 1966 lại rời Việt Nam ra thế giới để kêu gọi hòa bình trong khi cuộc chiến Việt Nam lan rộng.

Năm 1967, mục sư Martin Luther King đề cử ông cho giải Nobel Hòa bình, ca ngợi ông như sau

"Vị sư nhỏ bé từ Việt Nam nhưng là học giả có trí tuệ rất lớn. Ý tưởng vì hòa bình của ông, nếu được áp dụng, sẽ có thể tạo ra động lực cho đối thoại giữa các đạo giáo, vì tình huynh đệ của thế giới, vì nhân loại."

Năm 1969, thầy Thích Nhất Hạnh dẫn phái đoàn Phật giáo vì Hòa bình tới Hòa đàm Paris, và lập ra Tăng đoàn Phật giáo Thống nhất (Unified Buddhist Church - UBC) ở Pháp. Từ đó hình thành cộng đồng tu tập đầu tiên năm 1975, và sau đó là cơ sở Làng Mai ở miền Nam nước Pháp từ 1982.

Các cơ sở khác về sau được mở ra ở nước khác, gồm cả Việt Nam.

Nhưng việc 'bén rễ' của hệ phái này ở Lâm Đồng bất thành và tăng ni của tu viện Bát Nhã theo Làng Mai bị chính quyền gây khó khăn, phải bỏ đi năm 2009.

Xem thêm bài phỏng vấn của BBC năm 2009 về sự kiện tại tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng.

Một cơ sở sau đó ra đời tại Thái Lan, trong vùng núi thuộc tỉnh Nakhon Ratchasima.

Xem bài tường thuật của BBC từ cơ sở này năm 2018.

Tháng 8/2017, chính quyền VN lại cho phép thiền sư Thích Nhất Hạnh về thăm quê hương và ông ở lại đó cho đến khi qua đời.

Tuy được ca ngợi trên thế giới, cách nhìn về ông và trung tâm Làng Mai do ông sáng lập đã và đang khá khác nhau trong cộng đồng người gốc Việt ở hải ngoại, với nhiều lời khen và cũng có cả chỉ trích.

Quan hệ của Làng Mai với nhà nước Việt Nam hiện hành và những chức sắc của Giáo hội Phật giáo theo con đường 'xây dựng chủ nghĩa xã hội' cùng Đảng Cộng sản cũng không hoàn toàn êm đẹp, tuy đã cải thiện đáng kể từ sau sự kiện Bát Nhã.

Mới trong tháng 11/2021, trang Phật giáo Việt Nam đăng bài của ông Trần Đăng Khoa "Mừng Thiền sư Thích Nhất Hạnh 95 tuổi".

Bài có đoạn "nhân ngày sinh nhật ông, tôi lại nhớ đến cuốn sách rất thú vị: "Những bước chân an lạc".

"Cuốn sách tập hợp một số bài báo trong hàng vạn bài viết về Thiền sư Thích Nhất Hạnh của các cây bút nổi tiếng trên thế giới."

"Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất an...Thích Nhất Hạnh cho rằng, chỉ có tình thương yêu mới xóa bỏ được mọi hận thù.một trong những công lao lớn nhất của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là đã hiện đại hóa đạo Phật, đưa đạo Phật đi vào cuộc đời."

Bài liên quan: 
.....